PHAN NHIÊN HẠO - phỏng vấn


NÓI CHUYỆN VỚI PHAN NHIÊN HẠO

Ðinh Linh (ÐL): Tháng tư, năm 75, anh mới năm tuổi. Anh ở Việt Nam cho tới năm 1991, khi anh di tản sang Mỹ. Lớn lên trong một môi trường xã hội chủ nghĩa, anh đã được đọc những gì, và những nhà văn này ảnh hưởng đến tư tưởng, thi pháp của anh như thế nào?

Phan Nhiên Hạo (PNH): Ðúng là tháng 4 năm 1975, tôi còn rất nhỏ. Nhưng tôi là người tin rằng, những gì quan trọng nhất hình thành nên nhân cách một con người là những gì mà người ta học được trong những năm đầu tiên của tuổi thơ. Tháng 4 năm 1975 cũng đã thay đổi đời sống của gia đình tôi một cách bi đát, và tôi nghĩ chuyện này đã quyết định con đường nhận thức của tôi, cho dù tôi, cũng như tất cả những đứa trẻ miền Nam khác sau 1975, đã học trong nhà trường xã hội chủ nghĩa. Ðể vượt qua được những trở ngại về lý lịch gia đình, tôi đã cố gắng học rất giỏi suốt những năm tiểu học và trung học. Tôi là học sinh giỏi văn toàn quốc. Tức là tôi đã thuộc làu rất nhiều thơ văn xã hội chủ nghĩa để dự thi học sinh giỏi. Cũng nhờ vậy mà tôi được tuyển thẳng vào Ðại Học Sư Phạm, khoa văn, và khỏi phải vác súng đi làm “nghĩa vụ quốc tế”. Nhưng cho dù phải thuộc làu những bài thơ văn này để đi thi, ngay từ nhỏ tôi đã thấy chúng rất khuôn sáo và đáng chán. Gia đình bên nội tôi còn may mắn giữ được một tủ sách trong đó gồm rất nhiều sách dịch trước 1975. Phần lớn là các sách xuất bản bởi hai nhà xuất bản An Tiêm và Lá Bối. Tôi còn nhớ lúc lên mười, tôi đã trốn xuống gầm bàn để đọc cuốn “Giờ Thứ 25” mà các chú của tôi cho là không hợp với lứa tuổi của tôi. Và tủ sách này thật sự đã góp phần quan trọng vào việc hình thành nhận thức văn chương của tôi. Khi lên đến đại học, ở Sài Gòn, tôi đã kiếm được nhiều sách in trước 1975 để đọc. Tôi nghĩ việc học văn chương xã hội chủ nghĩa thật sự không gây một tác động đáng kể nào lên tư tưởng tôi, vì trong tôi luôn có một phản ứng ngấm ngầm khi phải học loại văn chương này, vì hoàn cảnh gia đình tôi đã dạy cho tôi biết tôi là ai. Và vì tôi sống ở miền Nam, nơi vẫn còn khá nhiều sách vở in trước 1975. Tuy vậy, tôi nghĩ một ảnh hưởng không thể tránh khỏi lên tôi, cũng như lên nhiều nhà văn khác lớn lên ở miền Nam sau 1975, là ảnh hưởng về văn phong. Ðó là một cách hành văn với rất nhiều từ ngữ hành chính nặng nề, và một phương pháp luận có tính biện chứng hai mặt, mà theo tôi đã bị lạm dụng để tránh đi thẳng vào vấn đề, để được an toàn trong sự ba phải. Chẳng hạn như đã “nói chung” thì phải “nói riêng”, “về bản chất” thì như thế này nhưng “về hiện tượng” thì như thế kia. Một ảnh hưởng khác cũng quan trọng là ảnh hưởng của văn chương Soviet, mà theo tôi là một nền văn chương bao gồm nhiều nhà văn tài năng, nhưng cũng rất nặng nề vì phải mang vác nhiệm vụ chính trị và hay triết lý vặt. Những ảnh hưởng này cũng đã từng ghi dấu lên tôi như kết quả của việc lớn lên ở Việt Nam sau 1975.

ÐL: Anh có thể nói về ảnh hưởng siêu thực trong thơ của anh?

PNH: Tôi nghĩ ảnh hưởng của siêu thực đã trở nên quá rộng lớn và sâu sắc trong sáng tạo của thế kỷ 20. Ngày nay anh có thể tìm được dấu vết của siêu thực trong hầu hết sáng tạo hiện đại và hậu hiện đại. Siêu thực đối với tôi chỉ là một phương cách nhìn xuyên qua bề mặt của sự vật, vả quan trọng hơn, được sử dụng như một thủ pháp liên tưởng trong thơ ca. Sự liên tưởng siêu thực cho phép người làm thơ đặt cạnh nhau những hình ảnh dường như không ăn nhập gì với nhau trong đời thường, cho phép mở rộng trí tưởng tượng, và từ đó tạo nên một hiện thực phong phú hơn. Một yếu tố quan trọng khác của siêu thực là lối viết tự động (automatic writing), mà tôi thấy rất thích hợp để vận dụng vào thơ ca. Ðiều này tạo cho thơ những yếu tố bất ngờ, và không phải gò bó trong mạch kể chuyện. Tuy vậy, tôi vẫn cố gắng xây dựng mỗi bài thơ như một tổng thể hoàn chỉnh, được nối kết bằng sự nhất quan của cảm xúc, trong chính sự mông lung và chuyển đổi bất ngờ của hình ảnh. Tôi nghĩ rằng siêu thực đã trở thành một yếu tố của thơ ca đương đại, vì vậy mà những dấu ấn của siêu thực trong thơ tôi là chuyện tự nhiên. Còn bản thân các tuyên ngôn siêu thực thì đã rất xưa cũ.

ÐL: Anh có một bằng cử nhân văn chương Mỹ từ Ðại Học CaliforniaLos Angeles (UCLA). Khi mới tiếp xúc với văn chương Mỹ, anh có những phản ứng gì? Anh thấy văn chương Mỹ khác với văn chương Việt Nam ở những điểm nào? Theo anh, một nhà văn trẻ Việt Nam nên đọc những nhà văn Mỹ nào?

PNH: Ở Việt Nam, ngay cả trước 1975, số lượng các nhà văn Mỹ được dịch và giới thiệu ra tiếng Việt vẫn kém xa các nhà văn Pháp. Sau năm 1975 thì chỉ có một vài “nhà văn tiến bộ Mỹ” được dịch. Cho nên trước khi đến Mỹ, tôi vẫn tưởng văn chương Mỹ cũng như văn chương Âu Châu mà thôi. Cảm giác đầu tiên của tôi khi học văn chương Mỹ là cảm giác thất vọng. Vì văn chương Mỹ dường như quá đơn điệu, không phải là loại văn chương có tính triết lý và nhiều thể nghiệm như văn chương hiện đại Pháp. Nhưng rồi tôi hiểu ra rằng tính chất trực tiếp, không cầu kỳ của văn chương Mỹ là một đặc tính được xây dựng một cách có ý thức và có hệ thống bởi những nhà văn Mỹ. Ðó là một nỗ lực nhằm tạo nên tính cách riêng biệt của văn chương Mỹ, phù hợp với một xã hội tiêu thụ và nền văn hoá thực tế, chú trọng vào tính hiệu quả của người Mỹ. Triết học hiện sinh chẳng hạn, chưa bao giờ là một trào lưu tư tưởng ở Hoa Kỳ. Những thể nghiệm của tiểu thuyết mới Pháp cũng hầu như không gây một ảnh hưởng nào đối với các nhà văn Mỹ. Người Việt Nam dĩ nhiên chuộng kiểu văn chương Âu Châu hơn văn chương Mỹ. Nếu họ có hay bàn tán về một số nhà văn Mỹ thì cũng là một thiểu số những người viết mang nhiều chất Âu Châu hơn Mỹ, chẳng hạn như Henry Miller hay T.S. Eliot. Sự cảm nhận văn chương Hoa Kỳ của tôi gắn liền với quá trình hiểu biết văn hoá và hoà nhập vào đời sống Mỹ, chứ không phải chỉ là những gì được học trong nhà trường. Vì vậy tôi nghĩ sẽ khó cho những người sống ở Việt Nam, là một nơi mà ảnh hưởng của văn hoá Pháp rất lớn, để thấy nét đẹp của văn chương Mỹ. Nhưng tôi tin rằng sự tìm hiểu văn chương Mỹ sẽ có ích rất nhiều cho các nhà văn Việt Nam. Nó sẽ giúp họ bớt triết lý nặng nề, và đặc biệt là có óc hài hước hơn. Tôi nghĩ các nhà văn trẻ nào ở Việt Nam có ý định viết về chiến tranh thì nên đọc Kurt Vonnegut và Joseph Heller để học óc khôi hài của hai nhà văn này. Leroy Jones và Ralph Ellison sẽ giúp họ hiểu tốt hơn về vấn đề chủng tộc ở Mỹ. Norman Mailer và những nhà thơ “Beat Generation” như Allen Ginsberg, Jack Kerouac sẽ cung cấp một cái nhìn đa dạng hơn về văn hoá Hoa Kỳ. Sherman Alexie là một nhà văn trẻ người da đỏ với cách viết vừa thơ mộng vừa khôi hài mà tôi thích. Charles Simic là một nhà thơ nhập cư đã hoà trộn được sự mẫn cảm của Âu Châu với sự trong sáng của văn chương Hoa Kỳ. Và dĩ nhiên là các tên tuổi quen thuộc khác như William Faulkner, Arthur Miller, Henry Miller, Wallace Stevens, E.E. Cummings, Sylvia Path, Frank O’Hara... Anh là người có lẽ sẽ đưa ra một danh sách tốt hơn tôi về các nhà văn Mỹ nên được đọc. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng, hơn một quốc gia nào khác, Hoa Kỳ là một đất nước của đa văn hoá. Và điều đó cũng đúng với văn chương Mỹ. Những khái quát về tính chất văn chương Hoa Kỳ mà tôi vừa nói ở trên chỉ là những gì nổi bật nhất, chứ không phải là tất cả đặc tính của văn chương Hoa Kỳ. Ở một xứ tự do như Hoa Kỳ, dĩ nhiên không phải tất cả các nhà văn đều phải viết cùng một kiểu.

ÐL: Cuộc sống lưu vong đã ảnh hưởng đến thơ anh như thế nào?

PNH: Tôi nghĩ là tôi may mắn đã đến Mỹ khi chưa quá lớn tuổi nên vẫn còn đủ sức để đi học, nhưng cũng không quá nhỏ để chỉ biết về Việt Nam một cách sơ sài. Vì vậy mà tôi có thể so sánh, và nhận ra những điều khác biệt của hai nền văn hoá và văn chương. Cuộc sống ở đây rất cô đơn, nhưng người ta có cơ hội để làm tất cả những gì mình muốn, nói bất cứ điều gì mình nghĩ, và không có ai làm phiền mình. Nhất là không chết đói. Và tôi nghĩ một nhà thơ không nên đòi hỏi gì hơn nữa. Những điều còn lại thuộc về vấn đề cá nhân. Ðời sống cô đơn của một người nhập cư ở đây đã cho phép tôi quay vào bản thân mình nhiều hơn, trưởng thành hơn trong suy nghĩ. Tập thơ đầu tay của tôi tập hợp phần lớn những bài thơ viết trong khoảng bảy năm đầu ở Mỹ. Sau tập thơ đó tôi đang cố gắng viết khác đi một chút, theo cái nghĩa là bớt đa cảm (sentimental), và bớt triết lý vặt, như tôi đã nói ở trên. Sự hiểu biết về văn chương Mỹ và văn hoá Mỹ khiến tôi muốn viết một cách trực tiếp và khỏe mạnh hơn. Cuộc sống ở đâu cũng có những vấn đề của nó, nhưng đây là một cuộc sống lưu vong mà tôi đã chọn lựa, và sẽ không bao giờ hối tiếc vì sự chọn lựa đó.

ÐL: Anh đã từng sống ở Orange CountySan Jose, hai nơi có rất nhiều văn nghệ sĩ Việt Nam. Anh thấy sinh hoạt văn nghệ ở trong nước, ngoài nước khác nhau như thế nào? Và khác với sinh hoạt văn nghệ của người Mỹ như thế nào?

PNH: Trong mười năm sống ở Mỹ tôi chỉ gặp có hai người làm văn nghệ Việt Nam hai ba lần gì đó, tuy tôi sống phần lớn thời gian ở California, và vẫn gởi bài đăng thường xuyên trên các tạp chí văn chương. Tôi nghĩ ở trong nước, phần lớn các nhà văn đều tập trung ở Sài Gòn và Hà Nội. Vì vậy họ có cơ hội gặp nhau nhiều hơn. Các nhà văn Việt Nam ở Mỹ sống ở nhiều nơi khác nhau, hay ngay khi họ sống tập trung ở Orange County và San Jose thì vì bận bịu với đời sống, họ cũng ít sinh hoạt với nhau hơn các nhà văn trong nước. Các nhà văn Mỹ thì càng sống tản mác hơn nữa. Và nếu muốn gặp họ cũng không phải dễ như ở Sài Gòn, nơi mà mỗi sáng ra quán café đều có thể được diện kiến một người nổi tiếng. Tôi nghĩ sinh hoạt văn chương không phải là một cái gì quan trọng đối với xã hội Mỹ. Tôi còn nhớ tôi đã rất bực bội khi thấy tin Tony Morrison được giải Nobel xuất hiện chỉ một góc nhỏ ở trang trong một tờ báo lớn. Sách báo ở Hoa Kỳ rất nhiều, sách báo văn chương cũng nhiều, nhưng tin tức văn chương không bao giờ là những tin quan trọng. Tuy vậy tôi thấy người Mỹ có cái hay là họ thích làm thì họ cứ làm, và họ rất tự tin. Tôi đã đi dự những buổi đọc thơ tổ chức rất công phu nhưng chỉ leo teo dăm ba thính giả. Nhưng cả người đọc lẫn người nghe đều rất nhiệt tình, vui vẻ, chứ không hề than vãn buồn bã gì. Tôi cũng đã coi một buồi diễn kịch tuyệt vời dài hai tiếng trong một sân khấu nhỏ đằng sau một quan café ở Los Angeles. Tất cả chỉ có khoảng năm khán giả. Nhưng những nhà văn thành công ở Mỹ thì được trả giá rất xứng đáng. Một nhà văn nổi tiếng có thể sống phong lưu cả đời chỉ nhờ vào tiền bản quyền một hai cuôn sách. Tôi có cảm giác rằng các nhà văn Việt Nam hơi quan trọng hoá vị trí xã hội của họ. Ngược lại các nhà cầm quyền ở Việt Nam cũng thích điệu võ đường oai quyền lực của họ đối với các nhà văn. Ở Mỹ, nhà văn ít quan trọng hơn, và hoàn toàn độc lập.

ÐL: Vì anh là Việt Kiều, nên thơ anh không được đăng ở Việt Nam. Ðộc giả ở ngoài nước thì lại quá ít, và ngày càng ít đi. Anh nghĩ gì về tình trạng múa gậy vườn hoang này?

PNH: Tôi không quan tâm nhiều lắm đến điều này, ít nhất là trong lúc này. Tôi quan tâm nhiều đến chuyện tôi phải thu xếp đời sống của tôi thế nào để viết được nhiều hơn. Ðộc giả ở ngoài nước rất ít, và tương lai sẽ ngày càng ít đi, tỉ lệ với số những người già chết đi, trong khi những đứa trẻ lớn lên ở đây thì không rành tiếng Việt. Những đợt sóng người Việt nhập cư cũng đã chấm dứt. Ðó là một hiển nhiên. Nhưng tôi tin rằng chẳng bao lâu nữa các nhà văn hải ngoại sẽ được biết đến nhiều hơn ở trong nước, do xu hướng mở cửa tất yếu của Việt Nam. Nhà nước Việt Nam không thể chỉ kêu gọi Việt Kiều đem tiền, đem sức học về để xây dựng đất nước, nhưng lại luôn cấm đoán các sản phẩm văn hoá của Việt Kiều. Mới đây có người bạn muốn đưa một hai bài thơ của tôi vào một tập thơ in chung ở Sài Gòn nhưng bài của tôi đã bị kiểm duyệt gạt ra chỉ đơn giản vì tôi là Việt Kiều. Nếu tôi không lầm thì chính anh, một người đã dịch ra tiếng Anh cả một tuyển tập các nhà văn Việt Nam, một Việt Kiều đã sống ở Sài Gòn hơn hai năm, một người đã có thơ được chọn vào tuyển tập những bài thơ hay nhất Hoa Kỳ năm 2000, cũng không hề được đăng một bài thơ nào ở trong nước. Tôi cho rằng đó là một sự kỳ thị rất bất công. Và cũng như bất cứ một sự kỳ thị nào khác, nó có nguồn gốc từ sự thiếu hiểu biết. Như đã nói, chuyện “múa gậy vườn hoang” không phải là mối bận tâm lớn nhất của tôi vào lúc này. Tôi cũng có thể có một lối thoát khác, là chịu khó viết bằng tiếng Anh. Tuy vậy, tôi hoàn toàn hiểu được tâm trạng buồn phiền của các nhà văn hải ngoại lớn tuổi hơn trong vấn đề này. Dĩ nhiên ai cũng muốn tác phẩm của mình có người đọc. Tôi nghĩ một sự giao lưu giữa văn chương trong và ngoài nước sẽ đem đến nhiều điều tốt đẹp cho văn chương Việt Nam hơn là sự cô lập. Các nhà văn, những người dịch thuật, và đặc biệt là những người nghiên cứu văn học sống ở nước ngoài, có thể đem đến nhiều điều bổ ích cho văn chương trong nước.

ÐL: Anh đã về Việt Nam ba, bốn lần. Anh nghĩ gì về thế hệ trẻ Việt Nam, và đặc biệt về những nhà văn trẻ ở Việt Nam?

PNH: Trong hai năm liên tiếp gần đây, tôi đã về Việt Nam tổng cộng ba lần. Lần lâu nhất hơn ba tháng. Tôi nghĩ ở Việt Nam bây giờ, ít nhất là ở các thành phố lớn, những người trẻ tuổi có cơ hội học hành tốt hơn, và cũng học chăm hơn cách đây mười năm. Rất nhiều người trẻ tuổi ở Việt Nam giỏi ngoại ngữ, có kiến thức hữu dụng, chứ không phải chỉ toàn học những điều viển vông như trước đây. Tôi tin rằng trong một thể chế dân chủ hơn, nhiều người trẻ tuổi ở Việt Nam sẽ thành công, và có thể góp sức giúp Việt Nam vươn lên mau chóng. Mặc khác một xã hội lạc hậu trong thời mở cửa cũng tạo ra nhiều điều lố bịch. Chẳng hạn như việc rất nhiều người trẻ tuổi ở Việt Nam sùng mộ văn hoá phổ thông Hàn Quốc, mà không thấy rằng cái văn hoá phổ thông Hàn Quốc đó cũng chỉ là một sản phẩm của sự học đòi vội vã từ những cái kệch cỡm của văn hoá phổ thông Mỹ. Và có cả một tâm lý thực dụng bất chấp tất cả ở nhiều người trẻ tuổi, đặc biệt là phụ nữ.

Về các nhà văn trẻ ở Việt Nam, tôi nghĩ họ đã thoát ra được phần nào lối viết khuôn mẫu cứng nhắc trước đây. Nhưng cái trở ngại lớn nhất là họ thiếu thông tin về thế giới bên ngoài. Ðiều này làm cho văn chương của họ tựu trung vẫn còn rất nặng nề, mang nặng tính triết lý của các thầy giáo làng. Họ hay thích khái quát hoá và cố làm ra vẻ hiện đại. Tôi nghĩ họ nên có óc khôi hài thì tốt hơn, và nên tập trung vào việc phản ảnh cái hiện thực sôi động của Việt Nam hơn là tìm cách triết lý về nhân loại, hoặc đề cập đến những điều mà mình không thật sự am tường lắm. Tôi thích Phan Thị Vàng Anh vì lối viết tinh tế của nhà văn này. Ở Phan Thị Vàng Anh không có sự làm dáng như nhiều nhà văn Việt Nam khác, và truyện thường rất sâu sắc. Nguyễn Quốc Chánh là một nhà thơ rất giỏi về hình ảnh và có lối suy nghĩ sắc sảo. Thơ của anh phản ảnh những suy tư trí thức về một Sài Gòn đang “hoà nhập” nhưng không di chuyển nổi trên những đường phố chật hẹp kẹt xe gắn máy vào buổi trưa nóng bức. Thơ Văn Cầm Hải có nhiều liên tưởng rất lạ, mặc dù đôi khi hơi có vẻ cầu kỳ.

ÐL: Nếu đã không sang Mỹ, thì bây giờ anh đã trở thành thi sĩ nào của Việt Nam?

PNH: Nếu không sang Mỹ thì giờ đây có thể tôi đã chết vì suy dinh dưỡng. Nhưng có nhiều khả năng hơn là tôi đã trở thành một thi sĩ vừa bất mãn vừa bất lực sống lang thang ở Sài Gòn và mơ đoạt giải Nobel.


Nguồn: tienve.org

NGUYỄN QUỐC CHÁNH - phỏng vấn


NÓI CHUYỆN VỚI NGUYỄN QUỐC CHÁNH

Ðinh Linh (ÐL): Xin anh cho độc giả biết sơ về tiểu sử của anh?

Nguyễn Quốc Chánh (NQC): Tôi sinh ở Bạc Liêu năm1958 trong một gia đình có tập quán đối nghịch, là mẹ Nam, lấy việc làm thay lời nói, và bố Bắc, gần như ngược lại, lấy lời nói thay việc làm. Tôi không khớp với người Nam bởi một ít máu Bắc, và cũng không trùng với người Bắc bởi một phần tính Nam. Tôi là sản phẩm méo mó của cái quan hệ nhùng nhằng đó. Nó ảnh hưởng nhiều đến cách nghĩ và thái độ của tôi. Hiện tôi sống ở Sài Gòn, và đã in hai tập thơ: Ðêm Mặt Trời Mọc (1990) & Khí Hậu Ðồ Vật (1997).

ÐL: Tôi được biết anh đã đi bộ đội?

NQC: Tôi bị gọi nhập ngũ năm 1979, và có hai năm đứng trong hàng ngũ đi dép râu, đội nón cối và bắn vài loạt AK, nhưng cũng may là chưa ra trận. Tôi nghĩ, nếu đánh nhau tôi dễ trở thành một tù binh, hoặc một hàng binh, hoặc là người bị bắn đầu tiên. Không lâm trận nhưng vẫn bị hai vết thẹo: một vết loét trong dạ dày vì đói và ăn bậy, một vết thẹo trong tâm lý do bị dồn nén từ áp lực của một tập thể luôn được bơm căng. Trong hai năm đó, tôi nhận ra tính hiếu chiến gần như bản năng, tiềm ẩn trong phần đông con người Việt Nam, và điều đó làm tôi hoảng sợ hơn những cuộc đọ súng tưởng tượng với Pôn-Pốt. Nhưng cũng may, nhờ loét dạ dày tôi được giải ngũ sớm.

ÐL: Khi còn là sinh viên, anh đã đọc những nhà văn nào? Họ đã ảnh hưởng đến tư tưởng, thi pháp của anh ra sao?

NQC: Kẻ Xa Lạ, Thời Của Kẻ Giết Người, Zarathustra Ðã Nói Như Thế, là những cuốn sách không chỉ in những dấu ấn đậm, nó còn là cây búa đã đập vỡ tôi ra. Kẻ Xa Lạ, Lê Thanh Hoàng Dân dịch của Camus, đọc lần đầu năm1974, nó đã tác động đến tôi như một trận hoả, thiêu rụi mọi cái ảo trong trí tưởng về sự hiện hữu của con người, và thay vào đó, là cái trơ trọi cứ lớn dần trong cảm thức. Khi còn là sinh viên, tôi vẫn đọc nó, bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn đọc lại, và cả về sau, tôi tin tư tưởng của Camus trong Kẻ Xa Lạ là nền tảng đạo đức không xa lạ nữa với mỗi người. Thời Của Kẻ Giết Người, Phạm Công Thiện dịch của Henry Miller viết về Rimbaud, đối với tôi lúc đó, hơn bất luận một giáo trình tâm lý và mỹ học nào, nó là tấm gương soi cho những kẻ đồng căn nhận ra tính nguyên sơ của cái để lọc mọi thứ cặn trong truyền thống cảm xúc ẩm thải ra từ đời sống và từ văn chương. Những cuốn sách đó đã thiết kế ý thức cá nhân của tôi, đề kháng lại cái môi trường bán khai của quyền lực tập thể, luôn thấy trong cá nhân tính mối nguy hiểm cho sự an toàn tạm bợ của nó. Ngoài ra, sự không tưởng về kinh tế, chuyên chế về chính trị ở VN sau chiến tranh đã gây ra những tai biến, những xung đột, những xáo trộn khắc nghiệt trong tâm lý, nên những hình ảnh kỳ dị, những ý tưởng đột ngột trong những câu thơ, kiểu: súng lục có tóc trắng, ruột gan của đá, không khí là một rễ cây, đá là cây của những đám mây…, tức thì nhập vào tôi như một cơn gió độc, và thi pháp thơ siêu thực, mặc nhiên biến thành hơi thở, máu thịt, và làm nên phần chính yếu trong ý thức nghệ thuật của tôi. Vào thời đó, sách dịch từ Liên Xô độc chiếm trong các tiệm sách, và hầu hết những cuốn sách đều mặc đồng phục, nhưng cũng may, còn có một câu thơ rất trật chìa: những đám mây mặc quần của Mayakovsky cứu vớt.

ÐL: Học ở một trường đại học xã hội chủ nghĩa, anh bốc mấy cái thứ đồi truỵ đó từ đâu?

NQC: Những thứ đó tôi đều nhặt ở chợ trời. Trước khi có trường đại học xã hội chủ nghĩa ở VN, đã có trường đại học tư bản chủ nghĩa ở Sài Gòn. Trước 1975, Sài Gòn gần như có đủ các loại sách cho một người bắt đầu viết, những kiến thức căn bản về triết học, mỹ học, và văn học thế giới. Sau 1975, những thứ đó bị tống ra đường và bị chụp cho cái mũ là đồi truỵ. Trong khi Gorki, và các chiến hữu của ông chễm chệ trên giá sách, thì ở chợ trời, Faulkner, Beckett… nằm tênh hênh trên vỉa hè. 98% sinh viên là những cái bị, họ thụ động chứa tất cả những gì người ta thồn vào. Tôi cũng là một cái bị, nhưng bị thủng, và coi việc học là một lý do tồn tại hợp pháp, nhưng hồn vía tôi, từ lâu đã ngoại tình với những thứ đồi truỵ ở chợ trời. Nhờ vậy, tôi tích luỹ được một ít kinh nghiệm, để không bao giờ biến thành một kẻ nghiêm chỉnh trong hàng ngũ của những cái bị.

ÐL: Anh có thể giải thích cho độc giả tại sao những nhà thơ siêu thực đã được xuất bản tại Việt Nam, trong khi thơ của họ không có gì chung với văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa?

NQC: Ðó là hai nhầm lẫn có ý nghĩa trái ngược, nó không thể không xảy ra trong nhận thức mơ hồ của cái ham muốn không tưởng về mối quan hệ giữa dân tộc và hiện đại. Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ở VN luôn tự cho nó là thành phần tiên tiến của dân tộc, và đã tiên tiến, sao lại không biết tinh hoa thế giới, và thơ siêu thực nhờ vậy đã có mặt tại VN. Nhưng ngẫm ra cả hai sự nhầm lẫn đó đều cần thiết. Sự nhầm lẫn mà văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa đem lại, góp phần giết hàng loạt những tài năng thiếu ý thức và cơ hội. Nhưng sự nhầm lẫn để thơ siêu thực có mặt ở VN, lại là cơ may cho những tài năng nào đó còn tiềm ẩn. Làm sao mà hiện đại hoá cái đuôi nhựa của con lợn bằng cái đầu của toa tàu. Trong khi thơ siêu thực chủ trương, viết, là cầm súng lục bắn bừa vào đám đông…; viết, là lấy năng lực của cá nhân rọi luồng sáng vào cái ngu tối tập thể…; viết, là sự tụt xuống quay cuồng trong ta, chiếu sáng trọn vẹn những nơi tối tăm, và làm tối tăm lần lượt các nơi khác, và viết, là lấy sự nổi loạn để cách mạng thơ, và qua thơ để phá vỡ đường biên giữa sống và chết, giữa thực và mộng, giữa sự vật và đồ vật, giữa vật này và vật kia…, vì thơ siêu thực mưu toan đặt tư tưởng ra ngoài sự quy chiếu của ý thức duy tâm và duy vật. Giữa thơ siêu thực và văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa chỏi nhau ra sao, cứ thử đặt bài thơ "Free Union" của Breton cạnh bài "Một Sáng Tháng Năm" của Tố Hữu, hay "Người Ði Tìm Hình Của Nước" của Chế Lan Viên, và "Ngói Mới" của Xuân Diệu (sau tiền chiến) chẳng hạn, sẽ thấy sự tương phản tức cười của nó.

ÐL: Tôi muốn bổ túc nhận xét của anh mà nói rằng, một lý do thơ siêu thực được đăng ở Việt Nam là vì hầu hết những nhà thơ siêu thực ủng hộ chủ nghĩa cộng sản. Một nhà văn khác cũng có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam là Gabriel Garcia Marquez. Ông này cũng thân cộng, tuy hiện thực huyền ảo, một loại siêu thực, cũng không có gì chung với hiện thực xã hội chủ nghĩa. Anh có những nhận xét gì về ảnh hưởng Marquez trong văn chương Việt Nam?

NQC: Tôi nghĩ, họ ủng hộ chủ nghĩa cộng sản lý thuyết, trong sách kinh điển của Marx. Còn chủ nghĩa cộng sản thực tế của Staline, tôi không tưởng nổi họ ủng hộ nó cách nào. Bởi nhà tù ở Siberia, nơi những nhà văn bị đày đoạ, chắc không thể ấm như trong văn phòng trung ương đảng cộng sản Pháp, nơi Aragon ngồi uống trà với các chiến hữu siêu thực, luận về tính đại đồng giữa các loài và các chủng tộc. Tôi có đọc một bài viết của Marquez về Castro, nhưng Castro trong con mắt nhà văn hiện thực huyền ảûo Marquez, không phải là nhân vật khổng lồ đã đẩy xã hội Cu Ba vào ngõ cụt, Castro hiện ra như một lão phù thuỷ trong con mắt thán phục của dân làng Macondo vậy, vì đối với một nhà văn, nhìn vào đâu cũng thấy sự hiện diện của tính huyền ảo, Marquez không nhìn Castro trong cái nhìn chia xẻ với sự khốn khổ của dân Cu Ba do chính sách Castro tạo ra. Marquez bốc Castro khỏi bối cảnh Cu Ba như vớt một con cá quái dị từ biển lên chiếc du thuyền mới sắm của ổng, để uống và ngắm, và trong lúc ngà say, chất men vinh quang làm phấn khích hệ thần kinh giao cảm, và chắc vậy, ổng cũng đã đến VN sau Trăm Năm Cô Ðơn dịch ra tiếng Việt. Theo tôi, nó là cuốn sách chìa khoá, làm văn chương Việt Nam giật nảy lên sau 1975. Trừ Phạm Thị Hoài, tôi nghĩ Nguyễn Huy Thiệp, Trần Vũ, Nguyễn Quang Thiều…, dĩ nhiên, không có Marquez vẫn có văn của Thiệp, Vũ, và thơ của Thiều, nhưng không có Marquez, tôi tin, họ không thể hay như họ đã. Bởi hiện thực xã hội VN, nhìn theo cách nhìn phê phán của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng…, cái chất thực đã bị làm nghèo đi. Còn nhìn theo cách nhìn tô hồng của Nguyễn Khải và nhiều người khác, cái chất thực đã bị đánh tráo. Nhưng nhìn theo cách nhìn huyền ảo, cái chất thực đã bị trương lên, nó tạo ra hiệu ứng dị thường, khó ngửi, tương xứng với tính chất bán khai, ngưng đọng của một xã hội chết dần vì khép kín. Với phương pháp hiện thực huyền ảo, văn chương VN vốn chưa lìa cuốn rốn với hiện thực, có những tác phẩm xứng đôi vừa lứa với nó.

ÐL: Thơ anh có khó đăng ở Việt Nam không?

NQC: Chắc là khó. Trước năm 1990, có một số bài đăng báo, nhưng sau khi in Ðêm Mặt Trời Mọc, thì hầu như ngừng hẳn. Ðến năm1997, NXB Trẻ lại cho xuất bản Khí Hậu Ðồ Vật. Người ta nói: cái khó ló cái khôn. Nhưng ở đây, cái khó ló cái khe, và bằng chứng là có 2 con lừa đã chui qua.

ÐL: Những nhà thơ và những nhà phê bình ở Việt Nam đánh giá thơ anh như thế nào?

NQC: Ở VN, các nhà thơ và nhà phê bình hầu hết đều là cán bộ. Họ ăn lương và làm việc trong biên chế nhà nước. Họ nói và viết về ai đều phải ngó trước và sau. Văn chương đối với họ là cần câu cơm, hoặc phương tiện thăng quan tiến chức, hoặc giả mù qua mưa chờ ngày hưu trí để khi chết được chôn chung nghĩa địa với lãnh đạo. Họ không có quan điểm văn chương nào ngoài lập trường kiên định với nghị quyết đảng về văn nghệ. Có gần chục bài báo quanh 2 tập thơ, nhất là tập Ðêm Mặt Trời Mọc. Họ phê nó tối tăm, tắc tị, độc hại…. Họ coi thơ tôi chẳng khác rác rưởi, thuốc trừ sâu, bọn lưu manh hay gián điệp nhị trùng. Họ không phân biệt nổi thái độ của con người trong ngôn ngữ, và thái độ của nhà thơ trong ngôn ngữ thơ. Còn những người có thiện chí thì sự quanh co, trà trộn trong cách viết của họ, họ biến mọi thái cực trở nên trung tính. 99% họ là những hoạn quan văn nghệ, và khi viết, họ dùng con dao mà họ bị thiến để xẻo cái buồng trứng hay cái dương vật của tác phẩm. Họ viết không phải vì người đọc, vì thơ, mà vì mối quan hệ đồng sàng dị mộng giữa họ với nhà nước, thậm chí, họ có muốn khác đi cũng không thể. Và nếu có người nào được phép khác đi, họ lại rơi ngay vào lạm phát về chuyên môn và thái độ, vì không đủ trải nghiệm về tự do và kiến thức để bảo chứng. Mới đây, có bài báo trên tờ Tia Sáng, có vẻ rộng mắt, ngó ra ngó vô, nhưng năng lực nhìn thì bị hụt. Trước khi trích hai dòng thơ của tôi, bài báo viết: "Chính vì vậy, họ sáng tác thơ văn xuôi, cố gắng triệt tiêu vần trong thơ, viết không dấu, làm tình làm tội các câu thơ bằng những cú hẫng xuống dòng đột ngột, bằng những biểu tượng và liên tưởng thơ hết sức mới lạ." Nếu thật người viết thấy trong thơ tôi có những biểu tượng và liên tưởng hết sức mới lạ, sự mới lạ đó không thể từ cây sung trước sân đình rụng xuống, là do chính sự làm tình làm tội các câu thơ mà ra. Nói một cách bạo lực, vì sự mới lạ của thơ, dù có đốt cả dãy trường sơn tôi vẫn đốt, huống chi chỉ làm tình làm tội các câu thơ.

ÐL: Chỉ có những nhà cách mạng mới dám đốt cả giang sơn để đạt được mục tiêu. Cũng may là nhà thơ chỉ có thể làm cách mạng bằng chữ thôi. Anh nghĩ gì về chỗ đứng của thi ca trong xã hội Việt Nam bây giờ?

NQC: Tôi chỉ nói đùa, anh lại ngoặt ra vấn đề chỗ đứng của thơ. Ở VN, chỗ đứng của thơ luôn gắn với chính trị. Ðúng, nhà cách mạng vì mục tiêu nào đó, họ dám đốt cả giang sơn, nhưng với nhà thơ chỉ có mục tiêu duy nhất là thơ, và chỉ có quyền đốt cái duy nhất là chữ. Ðốt chữ là đốt chính con người củ , giữa Tố Hữu và Trần Dần. Một người ăn trên ngồi trước, có lúc là phó thủ tướng; một người ngồi một chỗ đến lõm tường, chắc có rất ít thứ để ăn. Thơ Tố Hữu sẽ không đứng được ngoài biên chế chính trị, nhưng thơ Trần Dần dù có ngồi hay nằm vất vưởng đâu nó cũng là thơ. Sự không ngóc đầu nổi của xứ này, một phần chắc cũng do những nhà chính trị khoái làm thơ, và thơ VN chỉ phát triển trên mức vè một chút, cũng tại vì các nhà thơ cứ nhấp nhổm làm chính trị. Trong vô thức nhà chính trị thèm ngồi lên cái chiếu của thơ, còn nhà thơ lại thèm xỏ chân vào cái quyền lực hiện hành của chính trị. Lẽ ra nhà chính trị lấy sự sáng suốt cai trị quốc gia, lại đem cái mơ hồ phủ dụ thiên hạ. Còn đám nhà thơ lẽo đẽo theo ton hót với quyền lực để mưu một chỗ đứng trong chính trị, đang làm sáo rỗng thơ bằng những tu từ nhơm nhớp gọi là về nguồn. Thơ lấy chính nó làm mục tiêu, đẩy ngôn ngữ vào những thế nhìn cá biệt, chỗ đứng của nó còn mập mờ trong hiện tại.

ÐL: Tôi muốn trích một đoạn khá dài từ một email một người bạn gửi cho tôi, nói về thơ anh: “Tôi vẫn đọc Nguyễn Quốc Chánh từ hồi Ðêm Mặt Trời Mọc, thấy anh ấy có một ý hướng cách tân rất mãnh liệt, và thơ anh ấy đương nhiên chẳng có gì chung với những thứ rả rích gieo vần và sắm sửa ý tứ như cách người ta vẫn sắm cỗ, dù là cỗ cao lương mỹ vị. Ðiều ấy thì không phải bàn nữa. Cũng không cần nhắc nhiều, là NQC thường đặt được những mảnh chữ cạnh nhau rất bất ngờ, người viết văn xuôi như tôi đọc cũng thấy sướng. Tôi chỉ có cái nhận xét rất chán tai là, cái rhythm bên trong của NQC có vẻ như không có, hoặc không nhất quán, hoặc như trật, ít khi thực sự thuyết phục. Nói theo kiểu cũ là cái khí chưa tụ, cho nên chất có nhiều mà trọng lượng dường như chưa được bao nhiêu. Nói như vậy thực ra rất mơ hồ. Còn cố diễn đạt dễ hiểu hơn, tôi chỉ biết cho rằng có lẽ NQC làm thơ chủ yếu bằng đầu. Trong cái đất nước thi ca toàn những nhà thơ tự moi tim rút ruột, bầy lòng dạ tơi bời lên chiếu thơ, thì có người đưa đầu ra mà chơi cũng là hay lắm. Nhưng chơi bằng tiếng Việt, dù là tiếng Việt hiện đại thì vẫn là tiếng Việt, thứ tiếng thành bại với những khả năng gây cảm xúc nhất định, mà bỏ qua những khả năng ấy, bỏ qua những đặc trưng cảm xúc cốt tuỷ chỉ biểu lộ hoàn hảo nhất trong tiếng Việt, tôi cho là việc dại dột.” Anh nghĩ gì về những nhận xét này?

NQC: Khả năng gây cảm xúc của tiếng Việt tồn trong thơ cổ, thơ lãng mạn, đến thơ bây giờ đã làm tôi ngấy. Ðương nhiên, tôi không thể ở ngoài truyền thống này, nhưng không bao giờ là nô lệ của nó. Chính vì vậy, trong ý thức và hành động thơ, tôi luôn tỏ thái độ khiêu kích và gây hấn, để có nhiều cơ hội tống nó ra khỏi trò chơi của tôi. Một số người cũng khuyến cáo tôi về sự vi phạm đặc trưng cốt tuỷ này của tiếng Việt. Vì đã chọn, dù một lựa chọn dại dột, nhưng sự dại dột đó cho tôi nhiều khoái cảm. Còn nếu thích nghi, và nương theo đặc trưng gây cảm xúc của tiếng Việt, dĩ nhiên, thơ tôi sẽ có nhiều đồng cảm hơn. Nhưng điều đó sẽ phản lại xu hướng thẩm mỹ của tôi. Xu hưởng thẩm mỹ của mỗi người, và mỗi thời sẽ cho tiếng Việt một bộ mặt không giống nhau. Vì ngôn ngữ, bản chất của nó vừa là phương tiện của tư duy, vừa là tự thân tư duy. Tư duy phát triển trên phương tiện là ngôn ngữ, đồng thời làm biến đổi chính bản thân ngôn ngữø nó dùng để tư duy. Tiếng Việt, vừa là tiếng Việt cụ thể của một ai đó, vừa trừu tượng và độc lập với tất cả, mỗi người tham dự vào không làm nó vẩn đục và bất động. Ngoài ra, xu hướng thẩm mỹ còn quyết định kết cấu bài thơ, kết cấu của bài thơ theo quy trình nào, sinh nhịp của quy trình đó. Thẩm mỹ của đứt đoạn, chập, lệch, chồng, đảo, sẽ không có cấu trúc liền mạch giữa chính/phụ, trung tâm/ngoại vi…, và đương nhiên, nhịp của nó cũng sẽ không dẫn đến xúc cảm của cái trọng điểm, tập trung, bền vững, lắng đọng. Nó sẽ là nhịp tự trị của cái nhất thời, phi tâm điểm. Nhận xét thơ tôi có ý hướng cách tân rất mãnh liệt, chẳng có gì chung với những thứ rả rích gieo vần và sắm sửa ý tứ, nếu chiếu theo nguyên lý âm/dương, tôi thuộc xu hướng của cái thẩm mỹ dương. Dù nhịp sinh học tôi, theo đông y, thường trong tình trạng âm/dương bất hoà, nhưng trong thơ, tôi luôn chọn điểm dương để rơi, thậm chí cực dương, nên thơ tôi không thể tụ và lắng, chỉ có tán và động, không thể truyền cảm và âm vang, chỉ có va chạm và biểu tượng. Vì tụ và lắng là âm, còn tán và động là dương, truyền cảm và âm vang là âm, va chạm và biểu tượng là dương, mơ hồ là âm, cụ thể là dương… Tôi không chọn cách âm/ dương hoà đồng trong thơ, tôi thích đẩy nó về một phía, cực dương. Do vậy, những nhận xét trên đúng với thơ tôi một nửa, nửa còn lại là do nhu cầu âm của cách đọc, không thể áp dụng vào thơ tôi. Cám ơn những nhận xét năng động, bao quát và hay của bạn anh, cũng là bạn của chúng ta.

ÐL: Kiếm những sách hay ở Việt Nam không phải là dễ. Anh phải làm thế nào để luôn có những nguồn cảm hứng để sáng tác?

NQC: Ðọc cuốn sách hay thì có cái thú của một người bị đánh văng khỏi khán đài bởi một người giỏi hơn mình. Nó không tác động trực tiếp lên sáng tác, nhưng nó hàm dưỡng và mở rộng ý niệm thẩm mỹ. Tôi thường không viết được trên cảm hứng từ cái hay, chỉ khi những cái tồi tệ gây cho tôi thương tổn và lòng khinh bỉ, thì tôi lại viết dễ hơn. Và những thứ đó ở Việt Nam dồi dào đến nỗi bất cứ lúc nào cũng có thể làm người ta tắt thở.


Nguồn: tienve.org

ĐINH LINH - phỏng vấn


NÓI CHUYỆN VỚI ĐINH LINH

Hoà Khánh (HK): Từ trước đến nay, anh chỉ viết văn và làm thơ bằng tiếng Anh; trên Việt 8 này, lại có mấy bài thơ bằng tiếng Việt của anh. Ðộng cơ nào thúc đẩy anh làm thơ bằng tiếng Việt?

Ðinh Linh (ÐL): Thật sự thì tôi chưa viết được bằng tiếng Việt, mà chỉ tự dịch thơ của mình từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Vì là tác giả, nên tôi có quyền sửa thơ mình khi dịch. (Ðó chính là những mẩu tôi “viết” bằng tiếng Việt.) Tôi đã có ý định dịch thơ mình từ lâu, nhưng chưa bao giờ dám làm. Cách đây không lâu, tôi gặp anh Nguyễn Hưng Quốc ở Sài Gòn và anh ấy có nói với tôi: “Anh thử viết bằng tiếng Việt xem sao. Vì chỉ như vậy, anh mới thật sự được hội nhập vào văn chương Việt Nam.” Thế là tôi tự dịch thơ mình. Khi dịch xong, tôi gửi cho anh Quốc và một vài người bạn qua email. Sau hai ngày, không thấy phản ứng gì, tôi nghĩ, Bố khỉ, chắc là hố to rồi! Chắc là bà con đang cười hô hố! Nhưng rồi Phan Huyền Thư email tôi, bảo là “rất thích” những bài thơ này, “nhưng em nghĩ anh hội nhập vào cái làng thơ VN này chỉ vì viết bằng tiếng Việt thì không phải là hoàn toàn đâu. Viết như vầy chưa chắc đã được coi là thơ, không khéo, lại nổ ra tranh luận.” Rồi anh Quốc email, nói là “được lắm.” Nguyễn Quốc Chánh cũng nói là “được lắm, cứ tiếp tục tự dịch đi.” Rồi Phạm Thị Hoài email cho tôi: “Anh tự dịch như thế là hay. Những bài “Cao Ðẳng Mỹ Thuật,” “Ðứa Con Gái Hư,” “Một Chiến Thắng...” tôi thấy hay lắm. Có vài chỗ tiếng Việt có thể thay đổi một chút, nhưng đây là chuyện vặt, dần dần sẽ tự nhuyễn, không cần phải lo. Bây giờ anh đang có một giọng hoàn toàn riêng!” Vì anh em khuyến khích, nên tôi mới dám tiếp tục dịch thơ mình.

HK: Còn thiếu tự tin như vậy nhưng tại sao anh lại bắt đầu bằng việc tự dịch thơ chứ không phải là truyện ngắn?

ÐL: Khi sáng tác bằng một ngôn ngữ mới, thì phải thận trọng, thiếu tự tin chứ. (Dịch thuật cũng là một loại sáng tác.) Sở dĩ tôi dịch thơ thay vì truyện ngắn vì, đối với tôi, dịch thơ dễ hơn.

HK: Anh qua Mỹ từ năm 11 tuổi; anh học tiếng Việt như thế nào?

ÐL: Ở Mỹ, từ khi lên đại học (năm 1982) cho tới khi tôi về Việt Nam (năm 1999), tôi hầu như không nói tiếng Việt. (Trừ khi tôi đi ăn phở: “Xin anh cho tôi một tô tái, nạm, gầu, gân, sách, và một lon Cô Ca.”) Nhưng tôi có ôn lại tiếng mẹ đẻ bằng cách đọc sách Việt, và dịch thơ, văn Việt. Lúc đầu, tôi dịch những thứ dễ dễ thôi, như ca dao, tục ngữ. Những chữ không hiểu thì tôi tra từ điển. Tôi rất siêng tra từ điển.

HK: Nói chung, theo anh, tiếng Việt có những ưu điểm và khuyết điểm gì đối với một người sáng tác?

ÐL: Tôi nghĩ những khuyết điểm của tiếng Việt, nếu có, thì không đáng kể. Nhưng có lẽ nhiều chức năng của tiếng Việt vẫn chưa được khai thác cho lắm. Ðọc văn chương Mỹ, ta thường thấy nó gọn, và rõ nghĩa hơn phần đông những văn bản tiếng Việt. Nó chắc hơn. Thẩm mỹ của người Việt thích màu mè, tô phết, ra vẻ. Vì vậy nên trong văn chương Việt vẫn còn nhiều đoạn như vầy:

con sông mình hạc xương mai
vàng son in bóng đền đài hoa khôi

Nghe thì đu đưa, bóng bẩy lắm, nhưng chẳng tạo được một hình tượng nào. Nhưng đây không phải là khuyết điểm của tiếng Việt, mà là khuyết điểm của người viết.

Khi tôi dịch từ tiếng Anh qua tiếng Việt (Eliot, Stevens, Dickinson...), hay khi tôi dịch từ tiếng Việt qua tiếng Anh (Nguyễn Huy Thiệp, Khế Iêm, Văn Cầm Hải...), tôi không bao giờ thay đổi văn phong hay cú pháp của bất cứ ai. Tôi không chỉ muốn giới thiệu nội dung mà cả cách viết của người Mỹ cho người Việt, và ngược lại.

HK: Anh có thể nói thêm một chút cái anh gọi là "chắc" trong văn chương Anh Mỹ?

ÐL: Người Mỹ không dùng những chữ đệm như người Việt. Trong câu trên, thay vì “chút,” có người sẽ viết là “chút ít.” Ðã “chút” thì dĩ nhiên là “ít” rồi, tại sao lại phải “chút ít”? Người Việt thích dùng những chữ ghép rườm rà: “đỉnh cao” (để phân biệt với “đỉnh thấp” chăng?); “đường phố”; “cửa tiệm”; “rượu chè”; “thương yêu”; “tiêu xài”; “vui mừng”; “chữ nghĩa”; “dơ bẩn”; “sinh đẻ”; “sinh sau đẻ muộn”; “buồn rầu”, v.v... Trước mặt tôi là quyển sách Nam Cao: Truyện Ngắn Tuyển Chọn (Hà Nội: NXB Văn Học 1998). Ðã “tuyển” thì dĩ nhiên là phải “chọn” rồi! Tại sao NXB Văn Học lại ngớ ngẩn đến thế?

Hơn nữa, đầu óc người Mỹ cụ thể, khoa học, và mạch lạc hơn người Việt. Trong văn chương, họ có một truyền thống viết văn đơn giản, thẳng thừng: Sherwood Anderson, Ernest Hemingway, Raymond Carver... Nhà thơ William Carlos Williams đã viết: “Nói đi! Không ý tưởng nào ngoài đồ vật” [“Say it! No ideas but in things”].

HK: Nếu có ai đó cãi lại là mỗi dân tộc có một sở thích riêng, một thứ thẩm mỹ riêng để bênh vực cho thói quen thích những sự màu mè, son phấn, du dương trong văn chương Việt Nam thì anh sẽ trả lời sao?

ÐL: Những dân tộc xứ nóng, nói chung, đều màu mè, nhưng anh sơn phết lên cái gì mới được chứ? Tốt gỗ hơn tốt nước sơn mà. Nếu lời đã xoàng rồi thì anh có uốn lưỡi, có vọng cổ bao nhiêu, nó cũng xoàng thôi. Một bộ mặt “Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” thì chẳng cần tô phết gì. Một bộ mặt như thị Nở thì dù có trút cả chai nước hoa Pô Lồ lên đầu, thì cũng không áp phê. Mỗi cảm xúc phải có một biểu lộ tương xứng. Nếu anh muốn cương hay trầm thì anh đã đi vào phạm vi của “irony.” Nhưng người Việt sướt mướt một cách rất là nghiêm túc, thành thật. Nhưng, trớ trêu thay, chính cái thành thật này là cái dối trá của người Việt Nam.

Có lẽ vì sinh sau đẻ muộn, nhưng thật sự thì tôi không hiểu nổi câu tôi vừa trích ở trên: “Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.” Ví đàn bà với cây liễu thì cũng lôgic lắm, vì cả hai đều ẻo qua ẻo lại truớc những luồng gió, nhưng sao Kiều lại “xanh” hơn cây liễu?

HK: Con đường một người sáng tác VN đi vào thế giới văn học Tây phương (như Mỹ chẳng hạn) có những khó khăn gì anh cho là quan trọng nhất?

ÐL: Những tác phẩm của anh sẽ được nhìn với một con mắt khác bởi những nhà phê bình và độc giả da trắng. Một số sẽ đọc truyện của anh như đọc du ký. Họ đọc để lấy thông tin về người da màu. Hơn nữa, họ còn được tự hào vì: “Trên kệ sách của tao có đến năm sáu thằng da đen, da vàng! Ai bảo tao kỳ thị?!” Nhưng khi anh dựng lên những nhân vật, những con rối, da trắng, thì họ sẽ rất khó chịu. Họ không muốn anh xâm nhập vào tâm lý của họ; họ chỉ muốn phát ngôn cho anh thôi. Văn chương thiểu số (minority literature) ở Mỹ bắt đầu bằng những tường thuật của người nô lệ (slave narratives). Cho đến nay, rất nhiều tác phẩm của văn chương thiểu số nằm trong dạng tự truyện (memoir, autobiography). Nhưng nhà văn không phải là một người chỉ biết kể lể về đời mình. Họ phải biết hư cấu, tưởng tượng.

HK: Anh dự định vượt qua những khó khăn ấy bằng cách nào?

ÐL: Không ai muốn bị “hiểu lầm” cả, nhưng tôi không thể quan tâm đến phản ứng của những nhà phê bình hay độc giả.

HK: Khi sáng tác, điều anh quan tâm nhất là gì? (cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu, chủ đề...)?

ÐL: Có lẽ khi làm thơ, tôi phiêu lưu hơn là khi tôi viết truyện. Khi làm thơ, tôi xếp, xào, hay xoay chữ để đạt đến một trạng thái khác thường. Tôi dùng ngôn ngữ để bới cái tiềm thức của tôi lên. Trước khi viết, tôi chẳng thấy gì. Tôi viết để mà thấy.

HK: Còn khi viết truyện?

ÐL: Khi viết truyện thì tôi quan tâm hơn về những vấn đề xã hội, chính trị, đạo đức, đạo đức giả, v.v...

HK: Những lý thuyết văn học thịnh hành trên thế giới có ảnh hưởng gì đến cách viết của anh không? Nếu có, mức độ như thế nào?

ÐL: Thú thật thì tôi gần như không đọc lý thuyết. Nhưng tôi luôn đọc những nhà văn, nhà thơ đương thời: Myung Mi Kim, Michael Palmer, William T. Vollman, Ingo Schulz, v.v... Khi bắt gặp một kỹ thuật, một cách cấu trúc nào mới, lạ thì tôi phân tích nó, để rồi từ từ, tự tiện lấy ra mà... xài. Tôi cũng luôn đọc những nhà văn cổ điển để mà ăn cắp những xảo thuật của họ. Ðối với tôi, nhiều cái càng cũ thì lại càng mới. Tôi đọc Lê Thánh Tông mà nghĩ, Mẹ kiếp! Bố già này thật là avant garde!

Một quyển lý thuyết có ảnh hưởng rất mạnh trong thơ văn tôi là Rabelais Và Thế Giới Của Ông Ta của Mikhail Bakhtin. Bakhtin đã trình bày, thật cặn kẽ, bối cảnh trí thức của Rabelais. Tôi rất mến Rabelais. Những ông tổ của những nền văn chương Tây Phương: Rabelais, Chaucer, Cervantes, Boccacio... đều là những tay trào phúng vĩ đại. Rất tiếc là nước ta không có những ai tương đương như những người này. Cái trịnh trọng trong văn chương là một cái rất đáng cười.

HK: Tuy nhiên, qua các sáng tác của anh, người ta thấy thấp thoáng khá nhiều dấu vết của chủ nghĩa hậu hiện đại. Những ảnh hưởng ấy đến từ đâu?

DL: Những ảnh hưởng hậu hiện đại đến với tôi đầu tiên qua hội hoạ. Ở đại học, tôi học sơn dầu (oil painting). Thập niên 80 là thập niên của những hoạ sĩ như David Salle, Martin Kippenberger, Mike Kelley, Jean Michel Basquiat... Những thái độ mâu thuẫn, xáo trộn, hài hước của họ đã nhiễm vào tôi một phần. Trong hội hoạ, cái cá tính riêng, cái độc đáo, cực kỳ quan trọng. Nếu muốn gây tiếng vang, anh phải thực sự mới. Nếu anh chỉ là một bản sao (nhem nhuốc) của một hoạ sĩ khác, thì tranh của anh chỉ là một loại thổ sản, một món quà lưu niệm cho du khách.

HK: Làm thế nào để có thể kết hợp được hai yếu tố có vẻ như mâu thuẫn với nhau trong những điều anh vừa trình bày, tính chất độc đáo và việc "ăn cắp" kỹ thuật của người khác?

ÐL: Cái gương sáng tác của tôi là toà thánh Cao Ðài ở Tây Ninh. Tôi với đạo Cao Ðài là hai anh em cùng cha khác mẹ. Hôm nay tôi vồ được một chân Phật ở chợ Bến Thành. Ngày mai tôi sẽ chôm được cái mông của Joan d Arc ở cầu Thị Nghè. Ngày mốt tôi lại lượm được trái tim của chúa Jesus ở Sở Thú. Tôi đem những thứ này về ráp thành một hình thù (không giống ai). Hơn nữa, tôi lại là một nhà điêu khắc vụng về. Chính cái vụng về này, tôi hy vọng, sẽ tăng thêm cái độc đáo của tôi.

HK: Anh có tin là việc du nhập chủ nghĩa hậu hiện đại vào Việt Nam sẽ có lợi cho giới sáng tác và cho văn học của chúng ta?

ÐL: Tôi nghĩ nếu giới sáng tác Việt Nam nhìn rõ được xã hội của mình, vừa tổng quan vừa tỉ mỉ, thì đủ rồi. Có người bảo rằng một xã hội tạp nhạp, vô trật tự, hầm bà lằng như Việt Nam quả là một môi trường hậu hiện đại điển hình, nhưng tôi nghĩ nước mình đã đi xa hơn thế nhiều. Việt Nam không phải là một xã hội hậu hiện đại mà là một xã hội hậu lịch sử. Sau này, trên một trái đất quá tải, hết trụi tài nguyên, khi con người không còn những nhu cầu văn hoá nữa vì phải vần vật kiếm ăn, thì tất cả những xã hội trên thế giới sẽ giống y như Việt Nam ngay bây giờ. Ai dám bảo nước ta lạc hậu?


Nguồn: tienve.org

NGUYỄN VIỆN - SƠ YẾU LÝ LỊCH / CHO ĐẾN MỘT NGÀN NĂM / THỂ LOẠI ĐẦU ĐẤT / CƠN ĐAU THẮT GIỮA HAI ĐÙI / HỒI ỨC TRONG MÁU / KHÔNG ĐẦU KHÔNG CUỐI / CHUNG QUANH LÀ BIỂN / CHẾT KHÔNG NHẮM MẮT / THÍ ĐIỂM CỦA TỰ DO / LỀ ĐƯỜNG CHUỘT - văn


SƠ YẾU LÝ LỊCH


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
===========================================
SƠ YẾU LÝ LỊCH 
PHẦN I: LỊCH SỬ BẢN THÂN
1. Họ và tên: ..............

Theo lời bố tôi kể lại, việc đặt tên tôi là một ngẫu hứng bí ẩn. Suốt nhiều tháng trời khi biết mẹ tôi mang thai, bố đã nghĩ đến việc đặt tên cho tôi. Ông nghĩ đến ước vọng cũng như ý nghĩa sự tồn sinh cho tôi, nhưng cho đến khi tôi được sinh ra, ông cũng chưa vừa ý với bất cứ cái tên nào đã chọn trước đó. Chỉ đến lúc ôm tôi vào lòng, đứa con đầu tiên và là con trai của ông, ông mới bật thốt: “Thằng giống”. Tôi là giống của ông vừa mọc lên trên mặt đất này và vì thế tôi được gọi là Giống. Nguyễn Giống, trong niềm hân hoan mãn nguyện của ông. Tôi vừa là giống của ông và đồng thời cũng sẽ là kẻ đi gieo giống. Sau này, cũng có khi tôi tự hỏi, cái giống của mình thì có đáng gì để được đi gieo trên mọi miền đất xa lạ? Nhưng Chúa bảo hãy sinh hoa kết trái. Thì tôi cứ sinh hoa kết trái mà cũng không biết để dành cho Chúa hay cho tôi. Hay cuộc sinh tồn này vốn thế? Và mỗi số phận thì cứ để cho nó vận hành theo cái cách của riêng nó? Thế nào là tốt xấu với tôi và với Chúa? Những câu hỏi cũng không làm ngập ngừng hơi thở dồn dập trong những cuộc gieo giống.
Và khi đến lúc tên tôi trở thành một hồ sơ lưu trữ trong guồng máy hành chính và an ninh, tôi cảm nhận được một cách rõ ràng hơn hết thảy mọi thứ tôi đã làm để hình thành nên số phận mình. Tôi được xếp loại. Cái tên Nguyễn Giống không còn mang ý nghĩa của một bản thể mà chỉ còn là một sự vụ. Điều đó làm cho tôi bị tách rời ra giống như các miếng ghép, đặc biệt là những khi tôi bị công an đeo bám theo dõi. Bản thân tôi mất tính thuần nhất và rất nhiều khi tôi phải sống riêng rẽ với những phân mảnh của mình. Đó là một cách tồn tại.
Tồn tại. Tồn tại. Tồn tại.
Âm vang của sự tồn tại hay tiếng kêu thảng thốt của tôi giữa im lặng của thời gian và cái hoang vu trên mặt đất cũng không dấy lên được điều gì khả dĩ mang đến cho tôi niềm hy vọng về sự tồn tại của mình
Âm vang của sự tồn tại hay tiếng kêu thảng thốt của tôi giữa cái ồn ào của thời gian và sự chật chội trên mặt đất cũng không làm cho sự va đập của tôi vào lòng thế giới một ý nghĩa thiết tha nào.
Thằng giống đi gieo giống.
Và nhiều khi tôi cảm thấy mình bị mất tích.
Tên tôi đôi khi vang lên đâu đó như một lời mời gọi hay chỉ là tiếng tôi đi tìm mình đã bị đứt gãy với toàn bộ cái gọi là truyền thống hay tổ tiên. Tôi bị mất nguyên quán. Sự tồn lưu của tôi vì thế giống như một cuộc lưu vong. Tính lưu vong càng trở nên khốc liệt hơn khi tiếng nói và sự hiện hữu của tôi bị chối bỏ, bị khai trừ, bị truy đuổi, bị hăm họa bởi sự toàn trị của cuộc sống. Dù thế nào, tên tôi không thể là một trong những cái đồng nhất về loại hình.
Khi sinh ra tôi, cái nguồn mạch thiêng liêng nối kết tôi với tổ tiên vẫn được xác định nhưng nó bị chính cái ý chí hiện hữu bôi xóa. Tôi từ chối gánh vác lịch sử dòng giống cũng như phủ định tính kế thừa gia sản di truyền.
Thằng giống không đi gieo giống.
Việc không có quyền chọn lựa cho sự có mặt của mình làm tôi khủng hoảng suốt cả đời. Chính vì thế, rất nhiều lần tôi muốn tự tử. Dường như đấy là cơ hội duy nhất do ta tự quyết định.

2. Nam, nữ:..........

Thằng giống không đi gieo giống.
Trong sự xác tín về phái tính không thể không kể đến tính ba hoa khoe mẽ của giống đực. Tiếng hống và bộ bờm của con sư tử đực. Tiếng gáy và bộ lông sặc sỡ của con gà trống. Tôi không có nhu cầu phải khẳng định điều gì, ngay cả đó là việc mình có phải là đàn ông hay không. Tuy nhiên tôi vẫn sống như một người đàn ông là biết yêu và chiều phụ nữ. Nhưng không để phụ nữ ràng buộc mình.
Tôi không thích những người đàn ông làm ra vẻ “hầm hố” cũng như những gã óng ả. Bản lãnh đàn ông đích thực không phải là cầm ly rượu hay bia chai tu một hơi như quảng cáo, hoặc ngậm điếu thuốc trầm tư cho trí tuệ hay phải đeo mang các thứ hàng hiệu. Tất cả mọi phô trương đều đáng vất vào sọt rác.
Người đàn ông trong tôi chỉ có sự khinh bỉ.
Người đàn ông trong tôi là một ngọn lửa thiêu đốt mọi thứ nó đi qua.
Và tôi không cho phép mình trở thành đồng bọn với bất cứ ai.
Tôi chọn sự tuyệt tự cho sinh phận mình.

3. Ngày, tháng, năm sinh:............

Ngày nào cũng là ngày sinh nhật tôi.
Nhưng có một ngày tôi đã cất tiếng khóc chào mặt đất. Trên ngón tay cái bên phải tôi có thừa một ngón nhỏ xíu. Khi tôi chuẩn bị đi học, bố tôi đã cắt bỏ cái ngón thừa ấy của tôi. Mặc dù được đem chôn cẩn thận trong sân nhà, nhưng bố tôi bảo, mỗi khi nhớ đến cái ngón bị cắt lìa ấy, bố đều cảm thấy thương xót như một phần thân thể mình lưu lạc. Tôi cũng nhớ cái ngón lủng lẳng nhỏ xíu ấy, nhưng nó không gợi cho tôi một cảm xúc nào. Tôi luôn luôn sống với một sự thật là chết đi mỗi ngày và tái sinh mỗi ngày. Bởi thế, mọi sự mất còn trong dòng chảy nhân sinh với tôi giống như những bọt bèo.
Và thời gian sẽ chẳng bao giờ là những cột mốc.
Tôi đã được rửa tội sau khi sinh ra 5 ngày với tên thánh là Đôminicô. Và được dạy là có một thiên thần bản mệnh.
Nhưng máu tôi không phải máu thánh.
Tôi không cảm thấy có mối liên hệ với ông thánh quan thày dòng Đa Minh này. Nhưng tôi vẫn cảm nhận có một thiên thần bản mệnh thật sự trong mọi bước đi của tôi. Mấy ông thày tử vi lại bảo có những âm hồn bảo bọc tôi. Tôi tin có nhiều thế giới trong vũ trụ và có những giao lộ giữa các thế giới đó.
Tôi đã từng đứng giữa các giao lộ của những thế giới khác nhau và điều đó cho tôi một cảm thức nhất quán về sự tương thông phi thời gian, phi không gian.

4. Thường trú số nhà: ......... Đường:............... Phường, xã:.........
Quận, huyện:....................

Có khoảng 1.130.000 kết quả (0,20 giây) cho cụm từ “Tôi đã bị đuổi khỏi nơi cư trú” và có khoảng 1.250.000 kết quả (0,15 giây) cho cụm từ “Số người đã bị đuổi khỏi nơi cư trú”. Đó là kết quả của Google vào thời điểm 23.4.2011.
Có rất nhiều lý do và hoàn cảnh của việc bị đuổi khỏi nơi cư trú. Từ một kẻ ở nhờ nhà vợ cho đến những nông dân bị lấy đất cho các dự án của chính quyền.
Thật ra, một triệu người hay một tỷ người bị đuổi ra khỏi nhà hay tự buộc phải ra đi không cho một ý nghĩa nào về sự không chốn dung thân của con người. Có lẽ con người cũng không nên trông đợi vào một sự an cư nào kể cả sự quan phòng của Chúa.
Tôi luôn đứng trên bờ vực và tôi nghĩ mình cần phải nhảy.
Nhưng nhảy như thế nào lại không phải là điều dễ dàng.
Tôi tự hỏi nếu không phải tôi đang đứng trên bờ vực mà tôi đang nằm trên giường thì cuộc sống tôi có khác?
Chúng ta luôn có những địa chỉ khác nhau và không cần phải nhớ chúng ta đã từng ở địa chỉ nào. Hãy mặc mẹ bọn công an khu vực, bọn quản lý hộ khẩu, bọn kiểm soát an ninh. Vô sở trú hay vô sở trụ là một địa chỉ chính xác để tôi tìm về. Và nhảy xuống.

5. Dân tộc:............          Tôn giáo:............

“Theo truyền thuyết dân tộc Kinh, những người Việt đầu tiên là con cháu của một thần rồng tên là Lạc Long Quân và một vị tiên tên là Âu Cơ. Hai người này lấy nhau và đẻ ra một bọc 100 trứng và nở ra 100 người con. Những người con sinh ra cùng một bọc gọi là "cùng bọc" (hay còn gọi là Đồng bào) và "đồng bào" là cách gọi của người Việt để nói rằng tất cả người Việt Nam đều cùng có chung một nguồn gốc.
Nếu xét xa hơn nữa thì Lạc Long Quân, tên thật là Sùng Lãm, là con của Kinh Dương Vương, vua nước Xích Quỷ và Long Nữ; còn Âu Cơ là con gái của vua Đế Lai. Lạc Long Quân nối ngôi cha làm vua nước này. Bờ cõi nước Xích Quỷ phía bắc giáp hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông giáp biển Nam Hải, phía tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc).
Kinh Dương Vương tên thật là Lộc Tục, là con của Đế Minh, cháu ba đời của vua Thần Nông. Đế Minh đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Con cả của Lạc Long Quân và Âu Cơ trị vì dưới tên Hùng Vương, và là vị vua đầu tiên của người Việt. Vì thế, người Việt thường tự xưng là con rồng cháu tiên.”
(Wikipedia)

Dân tộc của rồng.
Tổ tiên tôi sinh ra từ trứng của rồng. Người họ đầy vẩy. Sau hơn bốn ngàn năm biến thái, những chiếc vẩy biến thành các hình xăm. Những hình xăm mang đủ các biểu tượng của nền văn minh Trung Hoa lẫn Ấn Độ. Thời đại toàn cầu hóa, những hình xăm bị xóa để lại các vết sẹo. Các vết sẹo biến thành bài vị và được đặt lên bàn thờ.
Tôn giáo của rồng.
Từ im lặng dấy lên tiếng ồn. Tiếng ồn tạo ra màu sắc. Màu sắc tạo ra sự ngưỡng vọng và cầu khẩn.
Các vết sẹo được phát tán thành ấn. Ấn được vẽ theo những mong ước tài lộc. Tài lộc trở thành đạo của rồng. Nghi thức thiêng liêng nhất của đạo rồng là múa rồng. Tuyệt đỉnh công phu của múa rồng là leo lên ngọn cột thẳng đứng hái lộc.

6. Trình độ văn hóa:...............
Ngoại ngữ:...............

Trình độ văn hóa mang tính cộng đồng.
Khu phố tôi ở được gắn bảng hiệu “khu phố văn hóa” trên một cái cổng lớn. Chẳng có lý do gì tôi lại không phải là một công dân có văn hóa. Ít ra tôi cũng đã leo lên được 4 cấp độ. Từ một cá nhân văn hóa, gia đình văn hóa, tổ dân phố văn hóa đến khu phố văn hóa.
Tuy nhiên, tôi cho rằng trình độ văn hóa đích thực của một cá nhân hay một dân tộc là khả năng biết xấu hổ của cá nhân hay dân tộc đó.
Nếu như trong mục “Nam, nữ” ở trên, tôi đã bộc bạch là “người đàn ông trong tôi chỉ có sự khinh bỉ”, thì cùng với sự khinh bỉ, một cái nhìn ngược vào bên trong , tôi cũng luôn biết xấu hổ với những điều đáng xấu hổ của mình. Như vậy, trong bản chất, văn hóa cũng là một khả năng phản tỉnh, khả năng nhìn lại. Và nó tạo ra sự cày xới của ý thức với hành động.
Trình độ văn hóa của tôi là khả năng phản tỉnh và lên tiếng của tôi trước cuộc sống.
Ngoại ngữ là một thế giới khác.

7. Ngày tham gia tổ chức (nông hội, hội phụ nữ, công đoàn):..........
Tại:............................

Tôi chưa bao giờ có khái niệm về tổ chức cho đến sau ngày 30-4-1975 khi chế độ Cộng sản áp đặt lên cuộc sống toàn xã hội.
Tôi biết mỗi tổ chức là một cách quản lý con người trong bộ máy của chế độ. Tôi nhìn thấy tính bi kịch của nó (từ sự sợ hãi tới sự nịnh nọt) và trong tôi chỉ có sự thương hại với tất cả những con người của mọi thứ tổ chức ở mọi thứ cấp bậc. Chưa bao giờ tôi chứng kiến sự rẻ rúng con người đến thế. Có một sự kiểm soát chặt chẽ đến nỗi nếu anh không tham gia vào bất cứ tổ chức nào thì anh cũng sẽ bị đẩy vào một trong các tổ chức trên. Xã hội không cho phép anh đứng bên ngoài sự lãnh đạo của Đảng. Chỉ đến khi nền kinh tế thị trường bắt đầu phát triển, quyền tư hữu được xác lập, quyền cá nhân mới được hình thành.
Tuy thế, tôi cũng đã không thoát được một thời gian dài là một đoàn viên công đoàn khi đi làm trong các cơ quan nhà nước.

8. Ngày vào Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh:........... tại:.............

Thú thật, tôi ngưỡng mộ về sự nhiệt thành của một số người làm cách mạng. Nhưng tôi ngạc nhiên không hiểu được tại sao người ta (từ một anh nông dân mù chữ đến một anh trí thức) có thể luôn luôn lập lại đúng như một con vẹt tất cả mọi ý kiến, mọi phát biểu, mọi suy nghĩ, mọi quan điểm, lập trường một cách máy móc đến không sai một dấu phẩy?
Không kể tới những điều kiện của lý lịch mà tôi không đủ, tôi không thể tự biến mình thành một con vẹt và một con cừu.

9. Ngày vào Đảng Cộng sản Việt Nam:................. tại:................

Đã không làm vẹt và làm cừu thì tôi cũng không thể trở thành người nuôi vẹt và chăn cừu.

10. Quá trình bản thân (tóm tắt từ lúc 12 tuổi đến nay, làm gì? Ở đâu?):

Tại sao lại phải khai lý lịch từ năm 12 tuổi?
Tôi không tìm được câu trả lời thỏa đáng.
Đó là thời điểm bắt đầu hình thành nhân cách?
Đó là lúc các âm mưu phản loạn nẩy mầm?
Đó là lúc bắt đầu có ý thức về hành động của mình và có thể chịu trách nhiệm về hành vi của mình?
Đó là khởi điểm của một chuỗi các hành động cần được theo dõi?
Dù sao, cũng phải khai báo thành thật thôi.
Mặc dù đã bắt đầu vào học cấp 2, tức là Trung học đệ nhất cấp thời ấy, nhưng tôi vẫn là đứa trẻ thích sờ tí mẹ. Buổi tối tôi vẫn thích nằm với mẹ và chỉ sờ vú mẹ tôi mới ngủ được. Mẹ tôi chiều tôi cho đến khi tôi sờ được tí của một cô gái khác.
Đó là năm tôi 13 tuổi.
Cô gái học cùng lớp với tôi và đẹp. Hình như do lòng thương hại, cô đã đồng ý đi chơi với tôi trong vườn lài. Cũng hình như vì tội nghiệp sự thèm khát của tôi, cô đã để cho tôi ôm trong vườn vắng. Và hình như muốn bố thí, cô đã để cho tôi sờ tí. Tôi đã sờ tí cô đến hết năm học.
Năm 14 tuổi.
Tôi bắt đầu viết nhật ký. Đây là một đoạn nhật ký tôi còn giữ được: “Cô giáo dạy tiếng Anh của mình đẹp lắm. Có lẽ là đẹp nhất trên đời. Bởi vì lúc nào mình cũng thấy cô trong suốt. Lúc nào mình cũng thấy cô lồng lộng. Lúc nào mình cũng nhìn thấy cô... như thể sáng lòa. Mình ước mong sao được ở bên cô suốt đời.”
Năm 15 tuổi.
Tôi nghĩ mình đã là một người lớn. Bởi vì tôi đã đủ dũng cảm để viết cho cô giáo một lời tỏ tình: “Cô ơi, em yêu cô”.
Năm 16 tuổi.
Tôi đổi trường học. Công việc đầu tiên ở trường mới của tôi là tìm xem cô bé nào đẹp nhất. Kết quả là tôi bị bọn ma cũ đánh cho một trận tơi tả. Cũng nhờ trận đòn đó mà cô gái tôi tìm được đã xót xa yêu tôi.
Cô đã yêu tôi đến khi chúng tôi cùng đậu tú tài 1.
Cô gái nghỉ học lấy chồng là một sĩ quan cộng hòa. Tôi tiếp tục học ở một trường khác với những ông thày rất nổi tiếng như Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Sĩ Tế, Lữ Hồ...
Khi lên đại học, tôi gặp những ông thày nổi tiếng khác: Vũ Khắc Khoan, Kim Định, Lê Tôn Nghiêm, Nguyễn Văn Trung, Lê Xuân Khoa, Đặng Phùng Quân...
Lúc này, chỉ có gái đĩ thương hại tôi.
Cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam – Bắc đối với tôi đã bắt đầu ngay sau khi gia đình tôi bước xuống tàu há mồm di cư vào Nam, lúc ấy tôi 5 tuổi. Chúng tôi đã bước vào một chiến tuyến khác với mọi hệ lụy. Nhưng bản thân tôi chỉ có sự đối kháng thật sự khi bị đặt dưới sự cai trị trực tiếp của chế độ Cộng sản với những trải nghiệm về sự sai lầm và giả dối của nó.
Máu đổ từng ngày từng giờ.
Một người anh của tôi dù đã chết cả tuần lễ trước, nhưng khi nhận xác anh từ trong ngăn kéo một tủ lạnh của quân y viện Cần Thơ, vẫn tiếp tục hộc máu. Xác mang về đến nhà, anh tôi lại hộc máu khi mẹ tôi ôm xác anh.
Sau thời gian được hoãn dịch vì lý do học vấn, tôi được hoãn dịch tiếp vì lý do công vụ. Nhờ thế tôi không mang nợ máu, nói theo kiểu những người chiến thắng, chỉ những kẻ thua trận mới mang nợ máu. Nhưng dù máu của ai, mùi máu cũng làm tôi lợm giọng. Tôi không thể ca tụng máu, cho dù đó là máu chiến thắng mang hồn nước. Nhưng cũng không ai cho phép tôi ca tụng hòa bình. Bởi ca tụng hòa bình là phản bội máu. Chỉ có những kẻ ca tụng hoa lá cỏ và gái gú là vô can. Cho dù không mang nợ máu, tôi cũng là tội đồ.
Khi chiến tranh chấm dứt vào ngày 30-4-1975, máu thằng em tôi lại chảy khi nó tìm cách vượt biên và bị bắt. Một người anh họ của tôi bị đánh cho đến chết khi về nông thôn tìm đất cày.
Những vết máu hôm nay vẫn loang lổ trên mặt đất.
Tôi 26 tuổi khi đất nước thống nhất. Xác định cuộc đời mình chấm dứt. Tôi thuộc về một thế hệ bị bỏ đi. Bạn bè tôi bị bắt đi cải tạo hoặc ngồi tù. Những kẻ may mắn ra đứng chợ trời. Những kẻ không may đi kinh tế mới cầm cuốc. Một cuộc đổi ngôi khốc liệt. Tôi cũng ra đường bán các thứ tinh hoa của miền Nam từ sách báo, chén bát, vàng bạc, kim cương đến quần áo cũ.
Khi 50 tuổi, tôi mới lần đầu trở về quê quán và nhìn Hà Nội ngàn năm văn hiến. Tôi đã không có cảm xúc như tôi vẫn tưởng. “Hà Nội ở dưới ấy” như Mai Thảo đã viết trong đêm giã từ. Tôi trở thành kẻ mất quê hương vĩnh viễn.
Năm 60 tuổi. Tôi biết không còn cơ hội nào nữa. Và tôi sẽ giã từ cuộc đời như một kẻ bé mọn.
Có thể tôi bỏ sót một số việc như đã từng dạy học, đã từng làm thơ, đã từng đi cày... Tôi không khai vì xét thấy những việc đó không ảnh hưởng tới an ninh quốc gia cũng như không làm cho tôi thành danh hay thành công. Nhưng tôi cần bổ sung một chi tiết mà tôi cho rằng đã khắc họa một nét cá biệt trong lý lịch tôi.
Đó là thời gian những năm cuối cấp hai. Tôi có hai nhóm bạn tách biệt. Một nhóm chỉ tụ tập đi đánh lộn với đầy đủ dao búa. Thằng bạn thân nhất của tôi đến giờ này có cháu nội ngoại vẫn là một đại ca khét tiếng. Nhưng bạn tôi bao giờ cũng là một tay anh chị coi trọng đạo nghĩa giang hồ và khí tiết quân tử. Một nhóm bạn khác lại có máu văn nghệ. Chúng tôi đã lập nhóm “The black dogs” và cũng đập phá mọi thứ có thể đập phá. Tôi cho rằng sự “nổi loạn” trong giai đoạn thiếu niên là cần thiết. Và có thể cần thiết đến suốt đời đối với một người chọn văn chương làm sự nghiệp.

PHẦN II: QUAN HỆ GIA ĐÌNH
11. Họ tên cha: ..................

Tôi không ra gì, nhưng bố tôi rất nổi tiếng.
Tên khai sinh của ông là Nguyễn Du. Tôi được di truyền từ ông hai thứ, một là thích làm thơ, hai là mê gái. Với cả hai thứ đó, nam nhi chi chí. Suy từ tôi ra ông, chẳng làm hai thứ đó thì còn nên làm gì trên đời?
Làm thơ và tán gái.
Chuyện làm quan của ông đã rõ. Chẳng phải ông đã thú nhận chỉ là một thứ hàng thần lơ láo!? Tôi cũng đã từng lơ láo hàng thần như ông. Thế gian này, mua vui cũng được một vài trống canh. Thì hãy cứ vui. Ông đi hát cô đầu. Nhịp phách ngất ngưởng. Tôi đi hát Karaoke ôm. Úmbala mật. Ông cố tôi là Nguyễn Trãi thì cũng thơ và gái thế thôi. Quan trường cũng oan nghiệt với ông tới mức. Một ông cố khác là Nguyễn Dữ, quan trường mới chập chững đã đứt gánh. Ông về quê sáng tác truyện quỉ thần để bày tỏ lẽ xuất xử của mình với thế sự. Cứ xem thế thì dòng họ nhà tôi, hoạn lộ hôn ám. Chỉ có ông nội Nguyễn Nghiễm là hanh thông, tuy nhiên ông cũng lấy đến tám bà vợ.
Chẳng làm thơ, tán gái thì làm gì?

Sinh năm:........................
Nghề nghiệp (chức vụ và cấp bậc) trước và sau 30-4-1975:.................
Chỗ ở hiện nay:.........................................

Tại sao lại đặt cột mốc trước và sau 30-4-1975 cho lý lịch của mỗi con người?
Ngày chấm dứt chiến tranh, ngày hòa bình, ngày thống nhất đất nước. Đó cũng là ngày phán xử. Kẻ thua người thắng. Ngày định phận. Kẻ có công người có tội. Và mỗi lần khai lý lịch là mỗi lần xác nhận cái sự thua thắng, công tội đó. Một lằn ranh không cho phép ai vượt qua. Một sự chia cắt vĩnh viễn giữa các con người, giữa các công dân.
Không được quyền quên.
Trước ngày 30-4-1975, bố tôi có thời gian đi làm sở Mỹ. Nhờ thế có tiền in thơ. Việc đi làm cho Mỹ khiến sau ngày giải phóng ông cũng khốn khổ. Một vài ông cán bộ văn nghệ nằm vùng tố cáo bố tôi làm tay sai cho địch với tang chứng là các tác phẩm đồi trụy phản động. Trong vụ án Hồ Con Rùa, bố tôi bị bắt. Tù 3 năm. Ngoài ra bố tôi còn bị truy cứu về tội âm mưu chạy theo vua Lê Chiêu Thống, cho nên bị quản thúc tại nhà thêm 3 năm nữa.
Trong 3 năm bị quản chế, bố tôi viết hồi ký. Tôi hy vọng rằng, khi chế độ kiểm duyệt không còn khắt khe, tôi sẽ in cuốn hồi ký đó.
Sau thời kỳ đổi mới, nhờ có chút ít chữ nghĩa và biết làm thơ, nên bố tôi được mời ra cộng tác với nhà văn hóa huyện. Họ giao nhiệm vụ cho bố tôi thành lập câu lạc bộ thơ lục bát.
Thành thật mà nói, nhờ có câu lạc bộ này, những năm cuối đời của ông cũng bớt tẻ nhạt.
Tôi không biết hồn ông hiện nay ở Thăng Long hoài cổ hay Nam Kinh vong quốc.

12. Họ tên mẹ:................

Vốn là người gốc Minh Hương, mẹ tôi là con của Vương gia Thanh Tâm Tài Nhân. Sau khi nhảy xuống sông Từ Đường tự vẫn, mẹ tôi  được một ông chủ ghe thương hồ vớt và cứu sống. Mẹ tôi theo ông đến xứ An Nam tị nạn triều đình Mãn Thanh.
Bố tôi gặp mẹ tôi trong một lần nghe bà đàn hát. Biết bà là Vương Thúy Kiều, bố tôi xin cưới ngay, mặc dù khi ấy bà đang mang thai mà không cần biết người để lại hậu quả cho mẹ tôi là Từ Hải, Kim Trọng hay một thằng sở khanh nào khác. Cũng may, bà chỉ còn một mình, bố tôi mới lấy được. Tôi nghĩ Vương gia, ông ngoại tôi chẳng khi nào chịu gả bà cho một gã trai Việt.

Sinh năm:........................
Nghề nghiệp (chức vụ và cấp bậc) trước và sau 30-4-1975:.................
Chỗ ở hiện nay:.........................................

Trước 30-4-1975, mẹ tôi làm đĩ 15 năm. Sau ngày 30-4-1975, khi có chiến dịch đốt sách, tiêu hủy toàn bộ tàn dư văn hóa đồi trụy phản động của chế độ cũ, mẹ tôi sợ quá đứng tim chết. Bà nhớ đến câu ca dao “Đàn ông chớ kể Phan Trần - Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”.
Tôi không biết mẹ tôi hiện nay đang ở thiên đàng hay địa ngục.

13. Họ và tên vợ (hoặc chồng): .........................

Cung thê trong tử vi của tôi vô chính diệu. Vì thế tôi không thể định hình được người nào gọi là vợ. Phụ nữ với tôi là một vật thể không xác định được cả trong mối tương quan với tôi hay chính bản thân họ.
Trong thâm tâm, tôi vẫn thầm ước lấy được một cô vợ người Miên.
Tôi thích màu đen của gái Miên. Màu của linh hồn của hư vô của mọi bí mật. Tôi thích một cô gái Miên làm vợ vì tôi đang bước đi trên miền đất của tổ tiên cô ấy. Tôi muốn tất cả những tổ tiên của dòng giống cô ấy nhìn thấy tôi và chứng giám sự hiện hữu của tôi trong cô ấy tha thiết như thế nào. Tôi muốn cô ấy chính là đất của tôi. Và trên miền đất ấy, tôi bùng nổ. Tôi muốn cô ấy biến tôi thành lửa. Và tan biến. Luôn luôn tan biến.

Sinh năm:........................
Nghề nghiệp (chức vụ và cấp bậc) trước và sau 30-4-1975:.................
Chỗ ở hiện nay:.........................................

Trước 30-4-1975.
Có thể cô chỉ là một sợi tóc của người cha và một móng tay của người mẹ. Cha cô đi lính ngụy. Mẹ cô là Khmer Đỏ.
Sau năm 1975.
Cô vẫn là một sợi tóc của người cha và một móng tay của người mẹ. Cha cô đi đá gà. Mẹ cô đi buôn lậu ngà voi, sừng tê giác.

14. Họ tên các con: tuổi, làm gì? Ở đâu?:.............................

Tôi biết nhiều phụ nữ, nhưng không có con vì tinh trùng loãng. Cũng có thể vì biết nhiều phụ nữ đâm ra loãng tinh trùng.

15. Họ tên anh, chị, em ruột: tuổi, làm gì? Ở đâu?......................

- Anh Hai tôi là con cùng mẹ khác cha. Thi rớt tú tài, thay vì đi hạ sĩ quan Đồng Đế, anh chọn lính nhảy dù, thiên thần mũ đỏ. Anh từng tham gia nhiều trận đánh lớn như ở Cổ Thành Quảng Trị năm 1972. Hành quân ở đâu, trong ba lô anh luôn có ít nhất một tập thơ của bố và vài tờ tạp chí văn chương định kỳ của Sài Gòn. Anh bảo “Văn tế thập loại chúng sinh” là tập thơ cho số phận con người, cho cái chết của chính anh đã máng trên đầu súng. Còn đọc vài tờ tạp chí văn chương là cách anh thoát ra khỏi cái số phận đó. Những lần về phép, sau khi xả xui trong các xóm đĩ, anh thường rủ tôi đi nghe nhạc. Cũng như tôi, anh không thích nhậu.
Tôi không biết anh yêu ai vì anh không bao giờ nói về những người phụ nữ của anh. Tuy nhiên, khi anh chết, có một cô gái đã đến đưa ma anh và mỗi tháng vào ngày anh hy sinh, cô đều đặt một bó hoa trên mộ. Lần cuối cùng và cũng là giỗ đầu của anh, tôi đã gặp cô. Tôi nói nên để anh siêu thoát. Cô gật đầu và không bao giờ quay lại.
Sau 30-4-1975, nghĩa trang quân đội được giải phóng. Gia đình tôi bốc mộ anh và đem cốt tro vào nhà thờ.

- Chú Tư em trai tôi trước ngày 30-4-1975 còn đang đi học. Mặc dù cho rằng đi học chỉ là một cách đúc khuôn mình, chú ấy vẫn đến trường với tham vọng sẽ phá bỏ mọi thứ khuôn. Sau 30-4-1975, nhận ra mái trường xã hội chủ nghĩa chỉ đẻ ra các con vật vừa hèn vừa ngu, chú ấy bỏ học và quyết định vượt biên. Bị bắt và bị đánh cho đến chết. Chú ấy không đủ bình tĩnh khi bị người quản giáo nhục mạ.
Linh hồn u uất của chú là những ngọn gió.

- Cô Năm em gái út tôi trước 30-4-1975 cũng đang đi học. Sau 30-4-1975 học tiếp cho đến khi xong đại học. Đó là những ngày khó khăn nhất. Mỗi ngày đạp xe 15 cây số đi và 15 cây số về với một loong cơm độn khoai mì và mấy miếng chao. Tuy thế, cũng không khó nuốt bằng những giờ học chính trị và sinh hoạt Đoàn. Cô bảo cái cực hình không phải là phải chứng kiến những đứa nịnh hót và nghe những thứ giáo điều ngu xuẩn, mà chứng kiến sự chịu đựng của chính mình.
Ra trường thuộc loại giỏi, cô Năm đi dạy học ở một trường trung học cách xa nhà 20 cây số. Và vẫn với một chiếc xe đạp trên đường trường 40 cây số mỗi ngày, cô muốn nói với học trò về sự khai phóng đích thực cho con người là gì, nhưng cô không dám nói. Không ai dám nói những suy nghĩ chân thật của mình.
Sau 3 năm đi dạy, em tôi tự tử bằng một liều thuốc ngủ.
Linh hồn tự do của cô vẫn bị cầm tù ở đâu đó.

Ngày… 30  tháng… 4  năm… 2011 
Người làm đơn
(ký tên)
Họ tên: Nguyễn Giống


NHẬN XÉT VÀ CHỨNG NHẬN CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
(Nội dung chứng nhận cần ghi bản lý lịch này đúng hay sai. Nếu sai thì ghi rõ sai ở chỗ nào, có thể nhận xét thêm về tư cách nghề nghiệp và hoàn cảnh người xin việc làm.)

Ngày.............Tháng.............Năm...........
UBND Phường, Xã..............................
 --------------------
Ghi chú của tôi:
UBND Phường làm quái gì biết tôi khai bản lý lịch này đúng hay sai. Có lẽ cũng vì biết thế, nên UBND Phường chỉ đóng mộc ký tên và thu lệ phí 5 ngàn đồng mà không có bất cứ nhận xét nào. Cho nên tôi suy luận rằng, mục đích của thủ tục hành chánh này chỉ để cho các vị trong UBND có việc làm và gây công quỹ cho nhà nước.






CHO ĐẾN MỘT NGÀN NĂM

Năm 1010. Đức vua đã ngự đến nơi này và trong căn chòi của tôi, ngài nói: “Ta là vua của ngươi”. Tôi cũng thật thà thưa lại, như tôi vẫn hằng nghĩ: “Vâng, tâu bệ hạ, bần dân là chủ của vùng đất này”. Thanh âm của tôi chưa thoát ra khỏi căn chòi chật hẹp, đầu tôi đã lìa khỏi cổ.
Năm 980. Không biết ai đã sinh ra tôi, nhưng tôi đã lớn lên cùng với những cây cối xung quanh, những con vật thân thuộc như con gà, con chó và cả mấy con chuột thậm thụt dưới chân vách. Hàng ngày, tôi đi bắt cá trong mấy cái hồ lân cận để đổi lại vài nắm gạo. Và tôi nghĩ cuộc sống như vậy cũng tốt đẹp, nếu như tôi cưới được một mụ vợ.
Cũng không khó lắm khi tôi ngỏ lời với cô gái có bắp chân to nhất vùng, rằng: “Tớ muốn có một người vợ như đằng ấy”. Cô ấy bẽn lẽn hỏi lại: “Thật không?” Tôi bảo sẽ nhờ người đến nói chuyện với thày mẹ cô ấy.
Thế là chúng tôi thành vợ chồng.
Vợ tôi sinh một hơi mười đứa con. Đứa nào cũng khỏe mạnh. Bầy gia súc trong nhà cũng thi nhau đẻ. Vườn tược, ruộng lúa nhà tôi xanh cả một góc trời. Các cụ trong thôn bảo: “Thằng này giỏi”. Tôi thưa lại: “Đấy là nhờ vượng khí của rồng”.
Hồng hoang. Khi ẩn, rồng là khí của đất, những linh hồn người chết được vỗ về, người sống được an lành. Khi hiện, rồng là nước của đất, vạn vật được nuôi dưỡng. Nếu để rồng bay mất, thì lòng người ly tán và mọi nỗi oan khiên sẽ đổ xuống đất. Điều này, tôi nghe mấy ông già nói.
Năm 1000. Các con tôi trưởng thành. Chúng mạnh mẽ và siêng năng. Cũng là lúc tôi được gọi là chủ đất của hai bờ sông Tô Lịch. Các cụ tiên chỉ nói: “Nhà bác ăn nên làm ra, thì cũng nên nghĩ đến người chung quanh”. Tôi bảo: “Các cụ muốn gì, cứ dạy”. Các cụ nói muốn có một cái nhà chung để chòm xóm tụ họp chuyện này chuyện nọ, chứ nhà ai cũng chật quá. Tôi thấy việc này cũng cần, nhất là khi có những chuyện phải phân giải, tôi đồng ý.
Chẳng biết từ khi nào thì cái nhà chung đó được gọi là cái đình. Tôi rất hài lòng khi được nghe đám giai gái ngồi hát với nhau ở sân đình trong những đêm trăng. Nhưng ngày trọng đại nhất với tôi chính là ngày các cụ quyết định phải có một cái gì đấy được tôn kính trong đình. Một cụ nói: “Chúng ta cần chọn một người xứng đáng nhất để con cháu noi gương”. Tôi tự nghĩ, xét từ lúc có trí khôn, chẳng ai hơn tôi. Nhưng tôi chỉ có thể noi gương chứ không thể hương khói. Bởi vậy, tôi nói: “Thưa các cụ, nói loanh quanh chẳng qua nói thật. Thôn ta không mấy gia đình, cũng toàn là nghèo hèn. Có mỗi gia đình tôi là khá hơn cả, mà tôi thì không đáng được tôn kính như thế, suy đi nghĩ lại, người được gọi là tiền hiền để chúng ta kính nhớ công đức, không ai ngoài đấng đã sinh thành ra tôi”. Một cụ đứng phắt lên: “Ông bố nhà bác hả? Nó là ai, có ai biết không?” Tôi từ tốn: “Có thể không ai biết bố tôi là ai, nhưng nhất định tôi phải có bố chứ phải không ạ?” Có vài cụ cười tủm tỉm, nhưng không ai quyết. Cũng chẳng có gì vội, bởi trưa nào vợ tôi cũng làm một con gà luộc và đem một hũ rượu đến phục vụ các cụ. Đến chiều ngày thứ năm, sau khi các cụ đã ngà ngà say, tôi nói: “Thôi, cứ thế mà làm nhé”. Chẳng ai buồn cãi.
Tuy vậy, tôi cũng không biết phải thờ bố tôi như thế nào. Trong làng có một anh biết đọc chữ Nho, anh ta nói: “Để tôi lo”. Anh ta lấy một miếng gỗ, đục khắc mấy chữ trên đó, đưa tôi, anh nói: “Đây gọi là bài vị. Kể công đức của bố anh”. Tôi hỏi lại: “Thế anh biết bố tôi à?” Anh ta nói: “Không, nhưng công đức của các vị tiền hiền thì như nhau”. Tôi hỏi tiếp: “Thế anh viết cái gì?” Anh ta vui vẻ: “Thành hoàng, người đã sinh ra người đã lập nên cái đình này, nhân - nghĩa - lễ - trí - tín vẹn toàn”. Tôi đãi anh ta một bữa rượu thịt. Tôi không biết đọc, nhưng ý nghĩ bố tôi là một hàng chữ làm cho tôi hãnh diện.
Hôm đưa bài vị bố tôi vào đình là một ngày hội. Cả làng vui chơi ba ngày liền. Tôi tốn mất ba con trâu và chục hũ rượu.
Năm 1010. Cùng với việc xây thành, nhà vua cũng cho xây chùa để an dân.
Năm 1013. Vợ con tôi cải táng tôi rồi cho vào cối đá xay nhuyễn, xong bỏ vào một hũ sành và lén chôn trong góc sân chùa. Vợ con tôi muốn tôi sớm hôm được nghe kinh kệ.
Năm 1840. Tôi đầu thai vẫn là một nông dân ngay trên vùng đất cũ của mình, nhưng trong một gia đình Công giáo.
Năm 1861. Vua Tự Đức ban hành chiếu chỉ cấm đạo lần cuối. Máu rồng loang lổ khắp nơi. Cuối năm đó tôi bị quan sai triều đình bắt sau khi toàn bộ gia sản bị cướp đoạt.
Năm 1862. Tôi bị chém lần thứ hai bởi đức tin Công giáo của mình, trước sự chứng kiến của hai người đàn bà thân yêu, mẹ và vợ tôi. Đầu tôi bị bêu giữa chợ, trên má nổi bật hai chữ “Tả đạo”. Mẹ và vợ tôi mang cái xác không đầu về cuốn chiếu chôn trong nghĩa địa làng.
Năm 1988. Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II tôn phong tôi hiển thánh, bởi một số phép lạ tôi đã làm.
Năm 1975. Trong trại cải tạo các sĩ quan của chế độ Sài Gòn vừa sụp đổ, Thiếu tá Tuyên úy – Linh mục Đôminicô Phan Văn Ph. đã kể những câu chuyện về những người tử đạo Công giáo Việt Nam cho bạn tù nghe để an ủi và khích lệ họ trong cuộc sống khắc nghiệt. Đại úy Biệt động quân Nguyễn Văn N. – ông cũng có một mẹ già và một người vợ trẻ như tôi - bị xuất huyết bao tử, chờ chết. Cha Đôminicô làm phép xức dầu cho ông và khuyên ông ta cứ tiếp tục cầu nguyện. Và ông ta đã nhớ đến tôi như một người đồng hương và cùng cảnh ngộ lao tù. Ông ta thầm thì với tôi: “Xin giúp con, cho con qua cơn khốn khó này. Nếu phải chết, cho con được gặp mẹ và vợ lần cuối như xưa kia Người đã được như vậy”. Tôi nhận lời ông ta. Không những được gặp mẹ và vợ, tôi còn cầu xin Chúa cho ông sống để gia đình ông ta và những người tin vào Chúa được hạnh phúc. Các nhân chứng đều kể lại rằng, ông ta đã không ăn và không uống thuốc mười ngày, cho đến khi gặp mẹ và vợ thì hồi tỉnh.
Năm 1977. Gia đình ông Nghiêm Quang L. di dân vào vùng kinh tế mới ở Lâm Đồng. Vừa đến nơi thì ông ngã bệnh. Chạy chữa hết tiền bệnh cũng không khỏi. Vợ con lâm vào cảnh chết đói. Ông cầu nguyện với tôi: “Con cùng đường rồi. Xin phó thác vào Chúa và xin Người nhủ lòng thương”. Tôi đến với ông trong đêm và nói: “Ông không có bệnh gì đâu, hãy đứng dậy và vác dao vào rừng”. Và ngày hôm sau ông ta đã thức dậy như một người khỏe mạnh.
Năm 1889. Đức tin Công giáo không thể ngăn cản tôi tiếp tục đầu thai. Trở lại quê cũ, so với khi lập nghiệp lần đầu, ruộng vườn nhà tôi đã giảm đáng kể.
Năm 1954. Lần thứ ba tôi bị chém chỉ vì có vài mẫu ruộng trong đợt cải cách ruộng đất. Thằng con trai cả đi theo cách mạng bất lực nhìn bố bị hành quyết một cách tủi nhục. Có một lấn cấn nhỏ trước khi chết, là tôi không biết có sự đổ vỡ trong tôi về tình phụ tử, hay sự phá sản trong niềm tin cách mạng của nó. Tôi chỉ biết rằng sẽ rất khó để đầu thai khi tôi vẫn nhìn thấy thằng con là một đảng viên của một đảng đã giết bố nó vì sự cần mẫn lương thiện và may mắn hơn người khác.
Năm 1010. Khi đầu tôi rơi chạm xuống đất, đức vua đã nhìn thấy rồng bay lên. Mặt đất chỉ còn giun và các con mạo nhận họ hàng nhà rồng nhưng không có linh hồn.
Năm 2009. Vào một buổi tối, ông nhà văn tôi quen đang phân vân trước bảng hiển thị của Google trên máy vi tính. Tôi cầm tay ông gõ hàng chữ “cho đến một ngàn năm”. Click chuột: Kết quả 1 - 10 trong 10 cho "cho đến một ngàn năm". (0,25 giây). Trong đó, chỉ có một kết quả “cho đến một ngàn năm của một người nông dân” là tôi. Thế là chuyện của tôi được kể. Tuy nhiên, tôi chẳng mong ước điều gì, ngoài việc cầu mong linh hồn tôi được an nghỉ ở đâu cũng được, miễn là đừng đầu thai nữa, vì tôi đã nhìn thấy ánh thép lóe lên từ phương Bắc.
(Giỗ mẹ)

29.9.2009





THỂ LOẠI ĐẦU ĐẤT

1.
“Chúa đã gọi ông Antôn về.” Vị linh mục nói trong lễ tang ở nhà thờ. Ông Antôn là bố tôi. Ông Antôn đã chết hơn một năm rồi. Hôm giỗ đầu, tôi mời họ hàng nội ngoại hai bên đến nhà ăn giỗ. Mọi người vui vẻ. Nhưng tất cả anh em ruột thịt của tôi đều vắng mặt, bởi họ đang ở Mỹ. Nước Mỹ và Việt Nam, theo cách nói của chính phủ, mối quan hệ đang phát triển tốt đẹp. Tất nhiên phải tốt đẹp vì kinh tế Việt Nam khá lên được là nhờ xuất khẩu qua thị trường Mỹ và khoản kiều hối khổng lồ gởi về. Nhưng anh em tôi vắng mặt vì không muốn tốn tiền. Vả lại, làm giỗ ở đâu chẳng được, cứ gì nhà tôi. Tuy nhiên, người vắng mặt quan trọng nhất, tôi cho rằng chính là bố tôi.
Những năm cuối đời, ông đã sống với tôi sau khi hồi hương. Mặc dù chỉ sống ở Mỹ có vài năm, chưa kịp có thẻ xanh để làm thường trú nhân, nhưng khi trở về Việt Nam, ông cũng không phải là công dân Việt. Phải mất đến gần mười năm, tôi mới xin nhập hộ khẩu được cho ông. Dù sao, ông Antôn cũng đã chết. Tàn tro của ông, tôi gởi trong nhà thờ, mong ông được gần Chúa.
Trước khi chết, ông muốn đi ỉa. Tôi chùi đít cho ông. Và tôi phát hiện ra, cái hậu môn của ông không khép lại được nữa. Ông muốn đi ỉa lần thứ hai, tôi đỡ ông dậy, nhưng ruột già cũng đã tê liệt, cứt không tống ra được. Tôi bảo: “Thôi, thày ngủ đi.” Bố tôi gật đầu. Nằm quay mặt vào tường, bố tôi chết.

2.
Cái chết của bố tôi lặng lẽ. Không phiền ai. Nhưng đây là lúc tôi cảm thấy cần viết một điều gì đấy về bố tôi cũng như về sự chết của con người. Cho bố tôi. Nhưng bố không biết chữ, liệu bố có đọc được bằng linh cảm không nhỉ? Dù thế nào, tôi cũng phải viết điều gì đấy cho bố.

3.
Bố đang ở đâu, nếu bố có một linh hồn?

4.
Thế nào là một linh hồn?

5.
Bố.

6.
Đang.

7.
Ở.

8.
Đâu.

9.
Nếu.

10.
Có.

11.
Một.

12.
Linh.

13.
Hồn.

14.
Có lần, bố tôi nói: “Tao sẽ nói với mẹ mày” về việc tôi mất nết bỏ bê nhà cửa. Khi ấy, mẹ tôi đã chết. Như thể mẹ tôi cũng có một linh hồn và đang ở đâu đó, vẫn sống theo cách của con người.
Dù sao, tôi vẫn tin rằng, bố đã tìm đến được với mẹ và em gái tôi (cũng đã chết). Ở một nơi rất gần và có thể chạm vào được. Khi đã là một gia đình, mối quan hệ đó trở thành vĩnh viễn.

15.
Khi thắp nhang, tôi thấy lòng ấm cúng.

16.
Sự luân hồi làm cho sự sống trở nên bình đẳng. Và bởi thế mọi mối quan hệ chỉ là giả định. Cuộc sống dương gian là “hiện tại” và đích thật hay chỉ là trung chuyển?

17.
Bố có buồn không? Thời gian quá đỗi hiu quạnh. Nếu linh hồn nương náu ở “hư không”, thì “hư không” có là “bể khổ”?

18.
Bố tôi đã cắt hai tinh hoàn vì u xơ tiền liệt tuyến, nên cuối đời không cảm thấy bức bách về tình dục. Tôi cho rằng đấy cũng là điều may. Tuổi già, ham muốn khó giải quyết vì con mắt khắc nghiệt của người đời. Sống, càng già càng cần dũng cảm.

19.
Có lẽ cũng không còn bao lâu nữa sẽ đến ngày tôi về cùng cha mẹ. Và đến lượt tôi, có thể linh hồn tôi cũng sẽ quyến luyến lần khân sống quanh quẩn với các con mình.
Tôi chợt nhận ra, cái đạo thờ ông bà của người Việt Nam, hoá ra cũng nằm trong máu một người Công giáo như tôi. Có thể coi đây là một hệ tư tưởng nền tảng của người Việt. Nó chi phối đời sống xã hội cũng như tâm linh của người Việt.

20.
Tôi tin rằng, linh hồn người chết có khả năng phù hộ cho người sống. Đó là sự hỗ trợ năng lượng từ một bản thể.

21.
Một ngôi nhà càng cũ, nghĩa là càng có nhiều thế hệ gia đình sống trong đó, càng có thể tạo ra những trường tâm linh đặc biệt.

22.
Tôi không có kỷ niệm nhiều với bố. Ký ức của tôi về ông là tiếng đàn nhị kéo ò e chọc ghẹo những buổi chiều thảng thốt. Những buổi chiều hốt hoảng. Những buổi chiều hoang mang. Những buổi chiều ráo hoảnh. Những buổi chiều lê thê. Những buổi chiều se sắt. Những buổi chiều trốn chạy. Những buổi chiều buồn thiu. Những lan man chiều.
Tiếng đàn nhị như tiếng khóc. Ấm ức.
Thời trẻ, bố tôi chơi nhạc cho phường bát âm trong những đám rước ở nhà thờ. Và ông ôm cây đàn sang bên kia thế giới. Tiếng đàn tôi nghe giờ đây như tiếng gió. Đôi khi, nó cũng giật giọng trong những đêm mất ngủ. Tôi thắp nén nhang cho mọi người trong gia đình tôi đã qua đời. Và tôi trò chuyện với họ. Thời gian có ý nghĩa gì không khi mọi sự đã là vĩnh hằng?

23.
Trong chiếc quan tài của ông, tôi bỏ thêm cho ông một cái chăn. Kinh nghiệm của một người từng lang thang không nhà không cửa cho tôi ý nghĩ cần thiết của một cái chăn ấm, dù đó là hư vô. Riêng với cây đàn, tôi đã phải rất lưỡng lự. Giữ lại làm kỷ niệm hay để ông đem theo? Cuối cùng tôi đã quyết định để tiếng ò e đi theo ông khuấy động nghìn thu tĩnh mịch.

24.
Tôi đã không biết làm gì ngoài việc gọi điện thoại báo tin cho mọi người, khi biết chắc rằng bố đã chết. Cho đến khi có người bạn đến, anh đã giúp tôi liên lạc với nhà táng và đắp tấm chăn che kín ông. Có nhiều thứ niềm tin chung quanh một cái chết và cách thức tổ chức một đám ma. Tôi chỉ biết mỗi một điều là ông sẽ không bao giờ khuất.

25.
Có rất nhiều thứ linh tinh ông để lại. Những cây kéo nhỏ để tỉa râu và những bao nylon đủ kích cỡ được xếp nhỏ lại và buộc bằng sợi dây cao su. Mặc dù râu của bố tôi không còn nhiều nữa sau khi cắt tinh hoàn. Một vài sợi mọc ngược ngạo trở thành thú vui để ông nhổ nó bằng một cái nhíp. Người già nào cũng có những thói quen lẩm cẩm. Cái vớ vẩn để giết thì giờ.

26.
Có những linh hồn báo ứng. Họ cần một thứ gì cho cuộc sống ở bên kia, hoặc muốn chu tất một sự dang dở ở bên này. Đôi khi chỉ là sự nhắn nhủ hay báo tin cho người thân. Cái khả năng kết nối hai miền âm dương vẫn còn là một bí mật cần khám phá.

27.
Bố tôi nói: “Tao nghe thấy chúng nó bàn nhau muốn hại mày.” Tôi cười hỏi lại: “Bố tính sao?” Bố bảo: “Làm sao tao tính được, hãy liệu giữ mình con ạ.” Tôi cũng chẳng biết giữ mình làm sao. Vẫn cứ làm những điều mình cho là đúng.

28.
Sự hoảng loạn đã bắt đầu. Nhiều người bị bắt, bị vu khống và nhục mạ trước khi bị kết án tù. Điều ấy không ngăn cản được càng ngày càng có nhiều người nói sự thật. Và sự thật đang trở thành niềm hy vọng cho nhân phẩm con người. Bố tôi, người dưới suối vàng, nói: “Cái chết là sự thật sau cùng.” Tôi sẽ đối diện với cái chết cũng như nỗi sợ hãi như một sự thật hiển nhiên.
Bố tôi cũng nói: “Sự dịch chuyển sẽ bứt chúng ta ra khỏi gốc rễ của mình.” Đây chính là điều tôi đang trải nghiệm. Rồi sẽ đến ngày chúng ta bị xoá mất căn cước, vì chúng ta bị bán đứng.

29.
“Không có tội thì tạo ra tội.” Nhiều người bị bắt theo kiểu đó. Cuộc sống vốn đã là một nhà tù. Ở một điểm nhìn khác, không ai không là nạn nhân của chính mình. Bố tôi bảo: “Không có cách bay theo chiều thẳng đứng.”

30.
Ai sẽ khóc cho những nông dân bị mất đất. Ai sẽ khóc cho những ngư dân bị đánh đập, bị giết chóc, bị cướp đoạt ngay trên vùng biển của mình. Ai sẽ khóc cho những người bị bắt bớ vì sự chính trực. Sống là hệ luỵ. Bố tôi bảo: “Thế giới đảo ngược.” Ý nghĩ nằm ở đầu các ngón chân. Khi tiếp xúc với đất, ý nghĩ sẽ bị giày xéo.
Dù sao, ý nghĩ không thể không tiếp xúc với đất. Chỉ với đất, con người mới tìm thấy hơi thở và sự sáng tạo.

31.
Trên bàn thờ tổ tiên, bố tôi bảo: “Không có vĩ nhân. Không có tư tưởng. Chỉ có sự nguỵ tín và áp đặt.” Vâng, con hiểu rồi. Tư tưởng của chúng ta là sự tôn thờ.

32.
Dân tộc có hơn bốn ngàn năm văn hiến. Nhưng có một ngàn năm mù chữ và ba ngàn năm học chữ của dân tộc khác. Cái chữ Nôm dang dở đã bị vứt vào sọt rác.
Tư tưởng Phật vào Việt Nam là Phật giáo hơn là Phật học.
Tư tưởng Lão - Nho vào Việt Nam là Lão giáo, Khổng giáo hơn là Lão học, Nho học.
Văn minh Tây phương vào Việt Nam cũng qua cánh cửa đức tin của các cha cố hơn là học thuật.
Thế thì, hãy khóc lên đi chữ nghĩa của tôi.

11.10.2009






CƠN ĐAU THẮT GIỮA HAI ĐÙI

Đứng trong phòng tắm, trên tay cầm lưỡi dao lam vừa được bóc ra khỏi tờ giấy bọc, chờ cho đôi mắt có ánh xanh của quỉ liếm xuống lưỡi dao xong, nó đặt lưỡi dao lên chiếc bồn rửa mặt, tụt quần xà lỏn xuống. Tay trái nó cầm con cu kéo dài ra, tay phải cầm lại con dao lam. Đôi mắt có ánh xanh của quỉ khép chặt. Miệng nó mím lại. Máu xối ra, không có một âm thanh nào khi con cu bị lưỡi dao sắc lẻm cắt ngọt, ngoài tiếng hét trong đáy lòng nó. Tiếng hét kéo dài trong lúc cái đầu mẩu của con cu vẫn nằm trong hai ngón tay của bàn tay trái. Nó ngất đi trong phòng tắm. Tiếng hét đau đớn vẫn vang vọng. “Em phải lên đường thôi. Bỏ lại cơn chán chường. Bỏ lại những thói quen cũ. Bỏ lại những gương mặt lờ nhờ không khí sắc”. Anh tự pha cho mình một ly café và ngồi xuống. Ngày chủ nhật không có Chúa. Anh không biết phải sống thế nào trong những ngày này. Ông anh cao quí phát hiện ra nó nằm giúm dó trong buồng tắm, máu lênh láng. Mang đi cấp cứu, con cu nó được gắn lại. Ông anh bảo mày là đàn ông, cần phải chứng thực mày trong cái lỗ của đàn bà. Nó nói không phải, tôi là đàn bà. Hãy cho tôi là đàn bà. Ông anh tát cho một cái nói mày làm nhục gia đình. “Em sẽ đi Cali. Lang thang ở đó một tháng. Em cần bình tĩnh lại”. Ly café đã nguội rồi. Anh vẫn ngồi ở chỗ quen thuộc và người bốc khói. Ở giữa hai đùi, bởi một sức trì kéo sâu thẳm, cái mu trơn láng từ từ lõm xuống rồi rách ra thành một cái khe. Ở giữa cái khe có một nỗi khao khát. Người nó toát mồ hôi. Bác sĩ ơi, làm ơn giải phẫu cho tôi. Hãy cho tôi là đàn bà. Bác sĩ bảo đâu cần thiết phải thế, cậu cứ đến rạp hát Vườn Trầu, ở đó sẽ có những người giải quyết cho vấn đề của cậu. “Em rất nhớ những ngày lang thang ở Sài Gòn. Những lần nhậu suốt đêm với lũ thiên tài loi choi. Giờ đây chỉ có một mình em vật lộn với những thứ thủ tục vớ vẩn”. Anh sợ đến lúc sẽ phải gục xuống vì mệt mỏi. Em có muốn anh tả cảnh cho nghe không? Nắng nhạt và lòng hoang mang. Khí hậu Sài Gòn dường như đang thay đổi. Anh nghĩ nếu có em, thì em lại bảo có điều gì không thay đổi đâu. Trong rạp không nhìn thấy người nhưng vẫn nghe thấy những tiếng rúc rích. Nó ngồi đại xuống một chiếc ghế. Trên màn ảnh những chiếc xe đuổi nhau. Tiếng bánh xe rít trên mặt đường ken két như tiếng người ta bú nhau. Một người giống đàn ông ngồi xuống bên cạnh, hắn nói nhỏ máy lạnh lạnh quá, rồi sờ vào đùi nó vuốt ve nhè nhẹ. Một cảm giác rờn rợn chạy khắp người. Bất thình lình bàn tay ấy bóp mạnh cu nó. Nó hất bàn tay đó ra. Người giống đàn ông ấy nói: “Em thương anh mà, sướng đi anh”. Nó đứng lên rời khỏi rạp. Những con chim mang mầm bệnh bay từ phương bắc xuống trốn rét đậu kín trên mặt đường. “Em nhận ra tự do chỉ là ảo tưởng”. Nhưng con người cần có ảo tưởng để sống. “Tình yêu cũng là một ảo tưởng”. Và điều ấy đẹp đẽ biết bao, phải không? “Em không nghĩ thế”. Bác sĩ ơi, tôi cần một người đàn ông thật sự yêu tôi như tôi là một người đàn bà. Thì cứ đến rạp Vườn Trầu thử xem. Nó lại đến rạp Vườn Trầu. Có một người đàn ông tụt quần nó ra và ấn con cu của hắn vào lỗ đít nó. Không p ải chỗ ấy, nó kéo quần lên bỏ chạy. “Em đã gặp nhà văn Moris. Cám ơn anh đã giới thiệu. Em phải thú nhận rằng, bà ấy cũng chẳng có gì ghê gớm”. Không, anh chỉ muốn nói là bà ấy “dễ thương”. “Đấy là một từ đểu. Em không có ý định yêu bà ấy”. Vậy thì em có ý định yêu anh không? “Vì anh dễ thương?”. Từ nhà nó đến bệnh viện gần mười cây số. Đã gần mười năm, ngày nào nó cũng đáp xe buýt đến gặp ban giám đốc bệnh viện với một thỉnh cầu duy nhất xin giải phẫu chuyển đổi giới tính. Ban giám đốc bệnh viện bảo không có thẩm quyền giải quyết. Cậu nên đi Thái Lan, giá cũng không đắt lắm. Ba má ơi, cho con tiền đi Thái Lan. Mày điên à? Anh chị ơi, cho em tiền đi giải phẫu. Kiếm đâu ra tiền mà cho mày. Bác sĩ ơi, y tá ơi xin giúp tôi. Chúng tôi có muốn cũng không thể giúp cậu, bởi chúng tôi không được phép. Vậy thì tôi phải xin phép ở đâu? Cậu thử lên sở y tế xem. Ông sở y tế ơi, cho phép tôi thành đàn bà. Cậu đừng giỡn chơi như thế, cho phép cậu là đàn bà hay đàn ông thuộc thẩm quyền của ông hộ tịch bên sở tư pháp. Ông hộ tịch sở tư pháp ơi, cho phép tôi thành đàn bà. Cái này chưa có chủ trương, để chúng tôi xin ý kiến bộ. Bạn anh bảo: “Một mặt, chúng ta phải chu tất cho bản năng mình được thỏa mãn. Mặt khác, chúng ta cũng có nghĩa vụ dâng hiến mình cho sự thỏa mãn của nhân loại”. Anh nghĩ, làm tình với em, trong cùng một lúc anh hoàn tất được cả hai đòi hỏi ấy. “Anh ạ, đấy là sự gian lận”. Tại sao lúc nào em cũng nói năng nghiêm trang? “Vì em là con gái”. Không phải thế, là con gái thì em phải đưa đẩy giăng câu lừa đảo. Người đàn ông từ nguyên thủy đã là kẻ mắc bẫy. Ông bác sĩ không đeo kính, không trắng trẻo, không bảnh bao. Trông ông ta như một gã thợ đục. Nhưng ông ta có một giọng nói trầm ấm. Bác sĩ ơi có thương em không? Bác sĩ mổ cho em nhé. Em sẽ trở thành người đàn bà của bác sĩ. (Cu nó dựng lên). Bác sĩ cắt bỏ nó đi nhé. (Máu chạy rần rật hai bên thái dương). Bác sĩ khoét cho em một cái lỗ để em được ôm ấp bác sĩ trong ấy. (Hai bàn tay nó để kẹp giữa hai đùi). Bác sĩ bóp cho hai vú em to lên. Em sẽ mặc những cái xú chiêng đẹp nhất, những cái quần lót xịn nhất. Bác sĩ thích gì em cũng chiều. “Hãy kể cho em nghe anh đang làm gì”. Anh chỉ muốn nói anh đang sống thế nào. Phía trước anh là một khoảng trống, phía sau anh cũng là một khoảng trống. Trên đầu anh là em. Dưới chân anh là sâu bọ. Bên phải anh có một người đeo kính đen. Bên trái anh có một người đội mũ. Anh có thừa không khí để thở, mặc dù không khí ấy có mùi của những con bọ xít. Thực chất em là đàn bà. Bởi thế em yêu anh, em cần anh. Em muốn được anh ôm ấp. Em muốn được nghe giọng nói ngọt ngào của anh. Em sẽ tặng anh tấm hình em để tóc dài nhé. Gã chụp hình bảo em giống con gái lắm. Thì em chẳng là con gái là gì. Anh có thích không? Em muốn được hiên ngang đi với anh giữa phố. Em muốn cho tất cả mọi người biết em là đàn bà, mà là người đàn bà được anh yêu cơ đấy. “Em sẽ đến với anh khi nào em thấy cần thiết”. Người đội mũ đã chuyển sang bên phải. Và tất nhiên người đeo kính đen sẽ phải đổi chỗ sang bên trái. Trên đầu anh vẫn là em. Em không cảm thấy cần thiết ngồi như thế ư? “Tất nhiên là không. Ngồi như thế em có thể nhìn thấy rất xa, nhưng thật sự em cũng chỉ muốn nhìn gần”. Em đã nhìn thấy anh uống rượu. Những lỗ chân lông trên khuôn mặt anh nở ra rất to giống như một cục đá ong, nóng bỏng. Khuôn mặt ấy áp xuống bụng em. Và bụng em to dần lên mang thai anh. Em muốn mang thai anh suốt đời em. “Cây chùm gửi đã chết. Mặt đất nứt nẻ thoát ra những ánh chớp. Em nhớ bữa đi ăn cơm trưa với anh và anh đã rủ em về khách sạn ngủ”. Ngủ cũng là một từ đểu. Khép đôi mắt lại, bao giờ anh cũng thấy lửa bừng lên như rừng cháy. Bẽ bàng thay, anh vẫn ngủ với em trong dự cảm của sự khước từ. Theo cách ấy thì việc em có mặt hay không cũng là hiện hữu như nhau. Nhưng dẫu sao, anh vẫn mong ước em thật sự ngủ với anh. “Làm tình hay an nghỉ?”. Không có gì khác nhau giữa hai điều ấy. Người bảo vệ bệnh viện chặn lối không cho nó vào. Ông ta nói: Cậu không được đến đây quấy rầy. Tại sao lại nói tôi quấy rầy? Chúng tôi không giải thích nữa, cậu về đi. Nó rút con dao Thái Lan ra bảo nếu không cho tôi vào, tôi sẽ tự cắt ngay tại đây. Đấy là quyền của cậu. Nó cởi cúc quần. Người bảo vệ quay mặt đi. “Ở đây có rất nhiều người hát rong và người điên. Sáng nay em đã cảm thấy vui lên khi mường tượng ngồi uống café với anh”.

9.2.2004






HỒI ỨC TRONG MÁU

1.
Những cuốn sách được nghiền nát rồi hòa với nước làm thành một thứ thuốc chích bơm thẳng vào máu đã tỏ ra là một liệu pháp hiệu nghiệm trong việc giáo dục và đào tạo những nhân cách tiên tiến. Chính vì thế mà tôi tiếc khi phải đem bán từng cuốn sách. Nó chẳng được mấy bát cơm hay mấy ly cà phê. Chắc chắn là đã từng được bơm cái thứ nước hòa với bột sách ấy, khi có những lúc tôi không kiểm soát được chính mình. Zarathoustra đã nói như thế hay Alexis Zorba chịu chơi xúi giục, tôi vẫn ngồi lì ở một góc phố nhâm nhi cô gái bán cà phê và cả những cô gái tất tả đi qua với cái mông lép. Không thể nào biết chuyện gì sẽ xảy ra khi đột nhiên những cuốn sách bị lôi ra đường rồi châm lửa đốt. Họ bảo như thế là tốt hơn. Tốt hơn thì nhất định nên làm. Nhưng tôi bảo tôi cần mấy đồng bạc để trưa nay ăn cơm. Họ bảo muốn ăn cơm thì hãy lao động. Đúng là như thế. Chúa cũng bảo như thế. Nhưng tôi vẫn muốn bán mấy cuốn sách cũ hơn là đem đốt. Ít ra thì cũng có một ly cà phê sáng để nhâm nhi cô gái bán quán và nhâm nhi những cô gái đi ngoài đường. Và khi chúng ta nhâm nhi nhau, máu thịt chúng ta nuôi nhau chẳng là cũng bõ bèn biết bao cái thời gian vàng bạc châu báu trên trần gian này. Tôi đã cầm quyển sách từ khi bốn năm tuổi gì đó ở nhà một ông giáo làng và chưa kịp nhận ra mặt chữ thì đã phải di cư theo ý của đấng toàn năng đến một khu rừng cao su đang mưa. Tôi nhận ra một điều là cứ mỗi khi tôi làm một cái gì đó có tính cách thay đổi thì trời mưa. Những hạt mưa rơi nhanh từ trời xuống những chiếc lá xanh. Từ những chiếc lá xanh, những hạt mưa rơi chậm xuống mái bạt. Âm thanh trên lá, âm thanh trên bạt và cả tiếng gió xạt qua đám lá, cào trên tấm bạt tôi đã nghe rất rõ và ngửi thấy cả mùi hôi của đất bốc lên. Tôi chẳng bao giờ quên những âm thanh đầu tiên và cái mùi muôn thuở ấy cũng như hình ảnh của ngôi nhà bốc cháy. Đồng tiền có những dòng chữ con gái (tôi đoán thế), một bên viết: Một con vịt xòe ra hai cái cánh, bốn con vịt xòe ra bao nhiêu cái cánh? Ở mặt phía bên kia, dòng chữ viết bên cạnh con rồng: Chúc “you” luôn hạnh phúc. Tôi bỗng nhiên nghi ngờ mọi sự. Bốn con vịt có phải thực sự xòe ra tám cái cánh? Và “you”, you có hạnh phúc không? Và dù bốn con vịt có bao nhiêu cánh đi nữa, you có hạnh phúc hay không, đồng tiền ấy tôi vẫn đổi được một tách cà phê và mấy điếu thuốc. Quyển sách đã gấp lại bằng câu “Thật tình ta chẳng hiểu gì hết, tuyệt nhiên không. Nó là thế đấy” không để lại một chút ám ảnh nào. Cơn mưa cào trên mái bạt gần năm mươi năm trước bây giờ vẫn cào trên mái bạt. Quán cà phê góc phố nhấp nhổm bỏ chạy. Bọn nó tới. Cô chủ quán nói anh làm ơn ngồi sát vào chân tường. Tôi lúc nào cũng ở chân tường. Ông cậu rao bán thuốc chuột ở một cái chợ bé như một cái mẹt. Tôi không hiểu nổi làm sao ông vẫn kiếm đủ tiền để hút thuốc phiện. Cuộc phiêu lưu của ông kết thúc ở tuổi bốn mươi chín khi ông không còn rao được nữa dù thuốc chuột của ông vẫn công hiệu. Lúc ấy máy cassette chưa thịnh hành, người ta vẫn phải khóc và tụng kinh bằng mồm của mình. Cô chủ quán vội vàng dọn dẹp bàn ghế. Chiếc xe dép từ từ chạy qua. Những người ngồi trên xe chỉ trỏ với khuôn mặt đe dọa. Khi họ đi khuất, cô chủ quán lại bày bàn ghế ra. Tim cô vẫn đập thình thịch trong lồng ngực. Tôi bảo muốn vào viện tim mà chờ được tới phiên mình khám thì hoặc đã ngoẻo hay là tự khỏi bệnh. Cô gái cười. Tôi hỏi em cao thước mấy? Một thước năm mươi. Tôi bảo em cao thêm hai tấc nữa thì làm người mẫu được. Tại sao lại cứ phải làm người mẫu. Danh giá lắm à? Không danh giá thì cũng dễ kiếm tiền. Bằng cách làm điếm à? Không, nói thế oan. Người mẫu tất nhiên là đẹp, mà đẹp thì nhiều cơ hội lắm. Tôi lại chỉ thích bán cà phê thôi. Vì sao? Vui. Nhưng kiếm tiền sao bằng người mẫu. Cũng không hề gì, niềm vui của em là một ngày có vài chục ngàn, diễu những người đàn ông tư lự và cười với những người đàn ông bông lơn. Tôi là người để em diễu hay cười? Để khóc. Em có năng khiếu tấu hài đấy. Đóng kịch bây giờ cũng nhiều tiền, em thích đóng kịch không? Ngày nào em cũng phải diễn với khuôn mặt niềm nở. Phát minh mới trong công nghệ sinh học, thuốc chuột đa năng có thể dùng để uống hoặc xoa bóp đều công hiệu như nhau, bà con cô bác mua hai gói bổn hiệu tặng thêm một gói. Ông cậu chắc chắn phải niềm nở hơn em. Chuột chết nhiều đến độ vị sư già tụng kinh cầu siêu bảo ông này nghiệp chướng chồng chất không thể siêu thăng được. Lời cảnh báo ấy chẳng có ý nghĩa gì trong sự mơ hồ của thế giới, nhưng nó đã biến thành nỗi sợ hãi khi mười hai đạo tì khỏe mạnh không nhấc được chiếc quan tài lên. Mợ tôi và mọi người trong họ xúm vào lạy lục ông sư: Xin thày mở lòng từ bi cứu độ, tốn kém bao nhiêu cũng cố lo toan cho chu đáo. Ông sư nói: Sống đi đường nào, chết về nẻo ấy. Cứ để cho người chết giải quyết việc của mình. Mọi người cầu xin: Hãy giải oan cho chúng tôi. Ông sư nói nghiệp ai người ấy gánh, phúc ai người nấy hưởng. Họ hỏi lại sư: Thế thày bảo chuột có phải là sinh linh không? Tất nhiên đó là sinh linh, còn có thể là kiếp phận của một ai đó. Nếu những con chuột chết đòi báo oán thì sao? Người chết đã chết rồi. Người sống cần phải được tử tế, thày bảo thế có đúng không? Tất nhiên là đúng. Vậy thì chẳng những cần phải giúp cho ông giết chuột siêu thăng mà cả những nỗi niềm oan khuất của chuột cũng cần phải được một phen phổ độ. Ông sư nói: Cái khó không phải tôi khó, nhưng khó là chỗ làm sao mời được bảy mươi hai vị sa di để cùng hành lễ. Xin thày cứ chỉ dạy. Nếu mọi người tha thiết thì tôi xin mách bảo, ở thiền tự Lăng Nghiêm hiện có bảy mươi hai sa di được tuyển chọn đặc biệt tinh tuyền đang tu tập ở đó, hãy thỉnh họ đến đây. Ôi thế thì khó thật. Có tiền mời chưa chắc đã xong. Lúc ấy, anh Hai tôi còn nhỏ, nhưng tật hay nói leo, oang oang cái mồm: Tiền thì đã đành, nhưng còn có cách sai người khác nữa là dùng quyền. Mình không có quyền thì mượn quyền người khác. Mẹ tôi bảo, mày chỉ được cái hóng hớt. Thứ dân mạt hạng như mình thì mượn đâu ra quyền mà hành người khác. Một ông bạn của mẹ tôi đột nhiên lên tiếng. Ông nói rất nhẹ nhàng: Cháu nó góp ý hay đấy, tôi có người bạn làm lãnh đạo ở đây, để tôi nhờ thử xem. Chẳng biết câu chuyện lòng vòng thế nào. Chỉ trong vòng mấy tuần trà, bảy mươi hai vị tăng sinh nghiêm cẩn và trẻ trung đã có mặt trong sân nhà cậu. Anh Hai nói nhỏ vào tai tôi:Mày hãy cầu cho quốc thái dân an. Tôi hỏi lại: Cầu cho cậu siêu thoát chứ? Tất nhiên rồi, cậu mà không siêu thoát thì quốc thái dân an thế chó nào được. Cậu thì liên quan gì đến quốc gia đại sự? Không phải cậu liên quan mà chuột liên quan. Tôi sợ lại phải nghe anh Hai lý sự nên không hỏi nữa. Các vị sư đã xếp thành hai hàng. Họ chắp tay ê a tụng kinh. Giữa tiếng chuông tiếng mõ, tôi buồn tình cũng lẩm nhẩm đọc:Nhất dương chỉ, nhị thiên đường, tam quốc chí, tứ đổ tường, ngũ vị hương... Cậu thì chắc đã đủ tứ đổ tường, nhưng cháu chỉ thích ngũ vị hương. Năm em Spice Girls, em nào cũng sướng. Đột nhiên cỗ quan tài bốc cháy. Ông cậu được tắm lại một lần nữa giữa sự kinh hoàng của mọi người. Vị cao tăng an ủi: Đấy là điềm lành khi chúng ta chứng kiến nhãn tiền một cách giải thoát. Ở trước nấm mộ, chờ lúc mọi người đã ra về, tôi viết vào tờ giấy dòng chữ: “Nơi an nghỉ của người đã sống và chết trong lửa” rồi lấy cục đá dằn trên mô đất mới đắp. Kể ra cũng hơi cường điệu, nhưng tôi nghĩ ông cậu chẳng phải đã thật sự sống với ngọn lửa bàn đèn và chết trong quan tài bốc cháy sao. Tôi nhìn thấy vú cô gái trong áo khi cô cúi xuống đặt bình trà lên bàn. Ngọn lửa trầm lặng âm ỉ và buồn phiền. Ông cậu cũng đã từng bỏ nhà đi giang hồ gần mười năm theo một gánh hát. Nghe đâu ông cũng đã sống với một bà trong Nam. Chẳng biết điều gì đã khiến ông quay trở về quê nhà để tất tưởi và câm nín trong tiếng rao bán thuốc chuột với một nhịp điệu không bao giờ thay đổi. Em cho anh thêm mấy điếu thuốc lẻ. Tôi hỏi cậu làm gì trong gánh hát. Cậu bảo viết tuồng. Tôi nói viết tuồng thì cần gì phải đi theo đoàn. Cậu nói cũng có thể không cần, nhưng cậu đi là vì cậu muốn viết cho một người đóng. Người cậu yêu? Cũng không hẳn vậy. Còn có một bà khác phải không? Cậu nói có những điều người ta không thể vượt qua được. Đấy có phải là đàn bà không? Cậu im lặng. Công nghệ sinh học làm chuột chết không đau dù đứt từng khúc ruột. Anh không hút thuốc dổm đâu nhé. Yên tâm, đồng chí cứ bình tĩnh mà suy nghĩ. Tôi có thể suy nghĩ điều gì ngoài một nỗi mơ mộng bọt bèo. Nhiều lần đi xem kịch và tiếp xúc với cả những cô đào cải lương, tôi vẫn tự hỏi đâu là cái cậu mê đắm. Những người đàn bà nghệ sĩ, cậu nói, chỉ thực sự là họ trong vai diễn. Lúc ấy, họ có đôi cánh của thiên thần, con mắt của quỉ và cái miệng của chiêm bao. Tôi lại chỉ thích thấy đàn bà trong lúc đói. Có thể bảo cậu kể chuyện giang hồ, nhưng chưa bao giờ tôi dám hỏi tại sao cậu nghiện. Một lần khác, cậu nói không có một giới hạn nào mà người ta không thể vượt qua. Tôi bảo cậu không nhất quán. Cậu cười: Thượng đế cũng có nhất quán đâu. Sau đó cậu nghiêm trang: Đó chính là cái bí ẩn nhất của tạo hóa. Tôi nói Thượng đế thì quả là không hiểu được, nhưng ngay cái việc cậu lấy vợ làng cũng là điều khó hiểu với tôi. Đấy, một ông rất mực dân chơi, thế mà lại lấy một bà nhà quê vừa dốt nát vừa xấu. Hôm ăn lễ hỏi, tôi nghe kể lại, mẹ tôi đã khóc sướt mướt. Mẹ thương cậu. Tại sao cậu lại chấp nhận số phận hẩm hiu để sống với một người đàn bà nửa người nửa khỉ? Gia đình người đàn bà ấy không giàu. Bà ngoại tôi chỉ nói một câu duy nhất: Nó là một cô gái đức hạnh. Có một điều gì đó đồng cảm giữa cậu và bà ngoại về đức hạnh của đàn bà chăng. Em đi chơi với anh không? Anh mua tặng em cái gì nhé. Tặng anh đủ rồi. Anh thì cần phải bù lỗ hơi nhiều. Tôi chỉ biết rằng không bao giờ cậu dám đi chung với mợ ngoài đường. Tôi tưởng tượng cuộc nói chuyện giữa bà ngoại và cậu. Bà nói: Tao đã chọn cho mày một chỗ. Cậu trả lời: Con không muốn lấy vợ. Bà: Muốn hay không muốn cũng cần phải lấy. Cậu: Thôi được, tùy ý mẹ. Ngày tàn phai. Cậu ngồi giữa buổi chiều và cảm thấy sự phù phiếm của mình. Không uống rượu, sự vô vị làm cho nỗi hoang mang trở nên không chịu nổi, cậu đến nhà lão tổng nằm bẹp ở đó nuốt khói. Em cứ bay đi. Không có thiên thần nào chết giữa không trung cả. Nhưng Thượng đế chết trong rượu. Em vẫn hát bằng lời của anh. Nhưng người đàn ông trong anh đã chết. Chúa bảo người ta chỉ thực sự sống sau khi chết. Nhưng người ta đã hiểu sai cách nói ấy. Tôi đứng dậy. Ngày khô khốc. Tất cả mọi ngọn lửa đều tắt. Không thể hút thuốc được nữa.Hãy tưới xuống thể xác tôi héo úa những giọt nước em nín nhịn. Tôi mò mẫm giữa phố. Thượng đế đã sai lầm. Ngày cậu lấy vợ, mẹ tôi bỏ đi. Bà ngoại chỉ im lặng. Việc giao tiếp bà giao cho mấy ông chú. Quan viên bốn họ vui vẻ ăn nhậu. Tôi tìm đàn bà trong quán xá. Cậu kể chuyện tình của cậu đi. Cậu bảo giản lược lại thì mọi chuyện tình đều giống nhau. Nhưng cháu muốn biết chi tiết. Nụ hôn ngây dại. Ai ngây dại? Chỉ có nụ hôn ngây dại. Cháu muốn biết người ngây dại. Không phải đàn ông cũng không phải đàn bà. Sao lại thế? Nó là một con quỷ. Cháu có sợ quỷ không? Cháu chưa gặp. Quỷ thì không cần phải tìm. Những người đi một mình thường hay thấy nó. Tôi vẫn đi một mình chờ đón cơn cám dỗ. Quỷ bảo tôi phải bù lỗ. Những người đàn bà ngoại tình nhìn đi nơi khác. Trong giấc mơ, cô gái chỉ cười. Một khoảng cách không bao giờ vượt qua được chính là sự nhút nhát. Tận cùng của khát vọng, tôi là một xác chết. Ở mỗi nơi cậu tới, cậu đều biết đàn bà ở đó chứ? Một cách nào đó. Làm thế nào cậu thoát được họ? Linh hồn của đàn ông vốn bị giam giữ trong ngục kín của đàn bà như một thứ tông truyền. Sao cậu biết? Vì cậu ở trong ngục. Tôi cảm thấy được an ủi. Đám trẻ nhỏ vẫn hùa lên rao lớn khi nhìn thấy cậu từ xa “tin vui đến khắp mọi nhà, trung tâm công nghệ sinh học vừa phát minh ra một loại thuốc diệt chuột mới công hiệu như thần, chuột không muốn chết cũng phải chết... ” . Ông bán thuốc chuột trở thành một phần ký ức của bọn nhóc. Bản thân ông bán thuốc chuột không bận tâm điều gì ngoài việc kiếm đủ tiền buổi trưa ghé nhà lão tổng hít khói. Bà ngoại tôi chỉ có cậu là con trai. Suốt bao năm cậu bỏ nhà đi không thư từ. Người cùng đi với cậu năm xưa là ông bác, anh ruột bố tôi, qui cố hương trước nói lại với mẹ rằng, cậu đang đi tìm cái mà chính cậu cũng không biết. Tôi mệt. Nhịp tim đập nhanh trong lồng ngực. Dẫu thế nào, tôi cũng cần phải sống. Cậu đã tìm thấy gì trong cuộc đời này? Tôi ngã sấp xuống. Những ánh chớp của sao băng đi qua đầu, tôi thấy từ cuối trời đằng đông hiện lên một người đàn bà mặc tang trắng, tà áo quét từ bắc xuống nam, trên tà áo lóng lánh những giọt nước mắt như đính kim cương. Mặt người đàn bà câm nín. Ánh mắt nghiêng như đang bỏ đi. Bà từ chối thế giới ư? Tôi bỗng hỏi. Người đàn bà không trả lời. Chân bà co lên và bà bắt đầu bay. Sau đó tôi chỉ còn nghe thấy tiếng khóc. Người đàn bà đầu tiên tuyên dương cái giống đực của cậu là cô gái bán hột vịt lộn. Đêm ấy, bởi lòng trắc ẩn, cậu đã ăn đúng mười hột vịt lộn cuối ngày. Và khi ăn xong, trời đã khuya lắm. Cậu nói trong cơn say: “Qua đã giải quyết cái ế ẩm cho em, bây giờ em cũng giải quyết giùm qua chỗ nằm chớ?”. “ Ông nói chi kỳ vậy?”. “ Có chi mà kỳ, chỉ bởi qua không biết về đâu đêm nay. Em có giúp qua không?”. Tôi nói cậu cải lương. Cũng chính nhờ cải lương mà biết thế nào là đàn bà. Cuối cùng cậu ngủ ở đâu? Trong bếp nhà cô ấy. Cậu ngủ ở đấy mấy lần? Năm lần.Và lần nào cậu cũng phải ra đi trước khi trời sáng? Ừ. Những người phu quét đường lầm lũi. Tiếng động đầu ngày chỉ là những tiếng ú ớ của sự nuối tiếc. Tôi thích uống cà phê từ lúc trời còn mờ tối để nhìn thấy một ngày vất vả và lo toan. Những chuyến đi và sự từ biệt. Rừng cao su ngút mắt, chưa bao giờ tôi đi hết cánh rừng ấy suốt thời thơ ấu. Một đôi lần trong năm tôi thấy nó đẹp, khi tất cả mọi chiếc lá đã rụng hết, chĩa những cành khô lên trời, và khi những chiếc lá non xanh tươi thức giấc vào đầu xuân, chúng tôi đi tìm những mảng cao su khô dưới đất. Vào mùa hè, nắng làm khô vỡ quả, những tiếng nổ ròn trên ngọn cây, chúng tôi đi nhặt hột. Hột cao su có vân và màu rất đẹp, nhất là khi nó vừa nóng hổi rời cành. Tôi vẫn lưu luyến khi phải bán tất cả chúng và được đong trong một cái thùng sắt. Đó là thời gian cậu trở về sau lần giang hồ thứ hai. Và cậu không còn đủ sức để cúi lưng nhặt từng hột cao su nữa. Tôi hỏi: Cậu đã lấy mợ rồi sao còn lại đi? Cậu bảo vì cậu cần phải gặp lại một mợ khác. Bà ấy có con với cậu à? Không phải vậy, bà ấy muốn gặp cậu lần cuối cùng để biết tình yêu có thật hay không. Dường như với cậu không có gì là thật cả, phải không? Sự thật chỉ là khái niệm và nó dễ bị ngộ nhận. Chóng mặt. Tôi thấy những đứa bé bị nhốt trong những cái vòm tối, chúng kêu la đòi ra ngoài. Nhưng người đàn ông cầm gậy đứng chắn ngoài cửa, ông ta cũng la hét bảo đừng đi đâu cả. Và rồi tôi thấy nước dâng lên. Nước nhấn chìm tất cả trong ruột của nó. Lúc nào bụng tôi cũng óc ách. Không người đàn bà nào có con với cậu sao? Cậu nghĩ là có. Tại sao chỉ là nghĩ thôi? Vì cậu chưa từng thấy một đứa nào. Những người đàn ông mọc sừng giữa trán, răng nanh chĩa ra khỏi mồm. Họ đứng trên đồi cao, hai cánh tay vươn ra mỗi lúc một dài. Không một con vật nào thoát khỏi bàn tay họ. Và khi miệng họ ứ máu, sấm sét nổi lên đốt cháy tất cả mọi cánh rừng biến trái đất thành quả cầu lửa. Người đàn bà thứ hai của cậu là ai? Một mụ nạ dòng thơm như lúa. Người đàn bà cho cậu biết sống không thể thiếu tình dục. Bà như sa mạc khát nước. Hoang vu và vô độ. Bà ấy có tiền, cậu nói. Thời gian ấy cậu sung sướng. Nó thật là một cuộc rong chơi. Nhưng niềm vui nào cũng cần phải thay đổi. Cô đào hát đong đưa cái mỏ dẫn cậu đến những bến bãi xa vắng. Từ bên cánh gà, cậu se thắt bao dự cảm đớn đau. Vũ điệu và tiếng hát của cô như nỗi lòng của thiên cổ gởi vào chút phù du. Cậu điêu đứng bờ vực. Cảm giác về sự bất lực làm bồn chồn gan ruột. Một khoảng cách rất gần nhưng không thể vượt qua. Tài năng cậu và cô đào lệch nhau ở tâm thế. Tiếng hát vùi dập cậu vào hư vô. Nhan sắc thiêu đốt cậu trong hỏa ngục. Cậu đã làm một chuyện vô vọng là viết cho cô ấy diễn. Nó là một bi kịch thực sự của số phận. Bởi vì đã không bao giờ đạt tới được điều cậu muốn là cô ấy phải bay thẳng lên trời. Chỉ có tuyệt đối mới đáp ứng được cho tuyệt đối. Nhưng cậu chỉ là một con lừa. Ngày và đêm kéo lê cái số phận qua những lối mòn. Cậu đem niềm u uất vào cơn chiêm bao của khói thuốc phiện. Cô đào rũ cậu như rũ một chiếc áo rách. Cậu lê la các bến xe chia phần với lũ gái điếm. Cậu bảo sống giữa trời mới thấy trời cũng hẹp. Bọn gái điếm móc túi khách và trấn lột lẫn nhau theo một thứ trật tự riêng của nó. Cái thi vị duy nhất của cuộc sống này là không bận tâm đến ngày mai. Buồn vui nào cũng là cuối cùng. Và cậu, trong tận cùng sâu thẳm, nhìn thấy bản ngã nở hoa trên cành cây khô. Đấy cũng là thời gian cậu nhận ra rằng mọi thứ ngôn ngữ đều thừa. Hút, ngủ và chơi gái. Những ký họa phóng túng trên giấy làm cho các cô gái phục lăn phục lóc. Những ngón đàn hào hoa không chỉ làm cho gái điếm mà ngay cả mấy bà chủ quán cơm quán nước cũng mềm nhũn. Ngày ấy, có một cô bé trong veo như nước phiêu bạt đến địa ngục. Cậu không thể cầm lòng được, bảo sẽ vẽ cho cô ấy một tấm. Chưa kịp làm thì cô bé bị một đám mất dạy đưa về nhà chơi tập thể . Vỡ tử cung, cô bé chết đau đớn và sợ hãi. Cậu uống rượu liên tiếp một tháng và trong sự chếnh choáng của cảm giác, cô bé trong veo ấy luôn luôn ở trước mặt cậu với đôi mắt ngơ ngác. Cậu nghĩ cần phải giải thoát khỏi ám ảnh này bằng cách vẽ cô ấy lên vải. Và cậu đã vẽ một cô gái trong veo đến độ cậu nghĩ ánh sáng vẫn chiếu xuyên qua cô ấy. Và đôi mắt của cô ấy nhìn cậu vẫn ngơ ngác. Và cô gái vẫn bước ra với cậu. Và cậu vẫn xuất tinh bất kể ngày hay đêm. Cậu xanh mướt thịt da và vàng đục đôi mắt. Các cô gái điếm hỏi nhau, ai đã làm cho cậu đến nỗi này. Không ai trả lời được câu hỏi ấy và họ quyết tìm sự thật. Và không phải chỉ có một người nhìn thấy mà tất cả những kẻ tò mò đều nhìn thấy cô gái từ trong tranh bước ra. Họ làm lễ cúng và đốt bức tranh không cho cậu biết. Sau đó cậu ốm liệt một tháng. Lúc đó cậu không còn một ý nghĩ nào về chuyện sống hay chết. Một trạng thái lơ lửng và vô vị, không có chỗ để tới cũng như không có nơi để quay về. Nắng làm cho tôi say và tôi thấy: Những con quỉ đen chui lên khỏi mặt đất, chúng không có sừng, cũng không có đuôi, chúng nhẵn nhụi và trơn láng như con lươn. Tôi thấy lũ quỉ bò vào đám đông và chui vào trong quần họ. Sau đó tôi thấy, tất cả đàn ông và đàn bà đều cứng như gỗ. Họ đi lại khó khăn nhưng tiếng nói lại uyển chuyển và ngọt ngào. Và tất cả họ đều nói giống nhau, dự báo một cuộc thay đổi về tính giống. Tôi hỏi một người bất chợt gặp: Xin lỗi, ... là đàn ông hay đàn bà? Họ lạ lùng nhìn tôi rồi bỏ đi. Tôi nhìn cả thế giới và hét: Ai là đàn ông? Không có ai trả lời. Tôi lại hỏi: Ai là đàn bà? Cũng không có ai trả lời. Lũ quỉ thò đầu ra khỏi dây kéo (quần) cười khúc khích. Tôi nhìn thấy ở gốc cây có người đang ngồi thiền. Lửa cháy chung quanh người ông ta. Tôi nhìn thấy củ của ông ấy thòi ra. Cậu bảo làm đàn ông đã khó làm đàn bà còn khó hơn. Sao vậy? Cháu cứ nghĩ xem, để thỏa mãn là đàn bà mà vẫn đức hạnh có phải khó không. Lúc ấy, tôi chẳng hiểu mấy điều cậu nói. Thoát chết sau cơn bệnh, cậu nghĩ không thể sống với mấy cô gái điếm nữa, dù họ đã quá tận tụy với cậu. Cảm giác trong veo của một linh hồn vừa được tẩy rửa, cậu bước vào thế giới tự tại và lặng lẽ. Không bất cứ một ràng buộc nào. Cậu có thể hành động mà không phải nghĩ ngợi. Những hồi niệm với cô đào hát trở nên mãnh liệt và khoan dung. Và cậu nghĩ đã đến lúc có thể vẩy tay cho cô ấy bay thẳng lên trời được. Cậu đi tìm gánh hát cũ. Dưới mái hiên đình, cô đào năm xưa ngồi ôm con cho bú. Một vẻ đẹp bình dị vô song của con người làm cho cậu lúng túng. Và cậu nghĩ , chẳng để làm gì nếu cô ấy bay thẳng lên trời, cứ để cho con người bám vào đất của nó bằng cái hạnh phúc nhỏ mọn của mình. Cậu thanh thản ra đi. Cô đào hỏi: Sao anh không ở lại? Cậu bảo: Anh chỉ muốn nhìn thấy em thế nào. Cô ấy hỏi lại: Thế anh thấy em thế nào? Cậu nói: Anh nhìn thấy em hạnh phúc. Cô đào: Anh không nhìn thấy hết. Cậu: Anh không cần nhìn thấy hết. Cô ấy gởi cho cậu một giọt nước mắt. Cậu để lại cho cô ấy một khoảng trống để điền những lời ca xa xăm. Sau đó còn dịp nào cậu gặp cô đào hát không? Tôi hỏi. Thực ra, cậu vẫn quan tâm dõi theo từng bước đi của cô ấy, và cậu nhận ra rằng, đàn bà chỉ chín mùi sau khi có con, tiếng hát của cô ấy vì thế có sức nặng hơn. Cậu có phải hối tiếc không? Không, khi chúng ta ngộ ra điều này thì cũng là lúc chúng ta bước vào mê lộ khác. Không có điểm dừng cho kẻ đi tìm. Fuck you. Con đười ươi ngẩn ngơ trước cơn mưa. Rát cổ. Người bạn cậu hỏi, tại sao cậu không viết? Viết thì được tích sự gì? Xúi trẻ con ăn cứt gà. Tôi ngồi xay những cuốn sách thành bột theo từng chủng loại. Thập toàn đại bổ gia truyền. Một cân dâm thư với ba lạng cẩm nang du lịch rẻ tiền. Bốn lạng gương danh nhân với một lạng tự học Tây ban cầm trong vòng bảy ngày. Hai lạng tư vấn tiêu dùng với bảy lạng Việt Nam sử lược. Năm lạng tự học tiếng Anh với chín lạng hướng dẫn kế toán thực hành. Một lạng võ hiệp kỳ tình với nửa cân kinh kệ. Sắc ba ngày ba đêm thành cao. Mỗi ngày ăn một miếng bằng móng tay thì hiệu quả sức khỏe có thể sánh với Hạng Vũ, thông minh có thể sánh với Trương Lương, bền bỉ có thể sánh với Lao Ái. Thế rồi cậu đi đâu? Cậu lên rừng sống chung với một người bạn. Căn chòi dựng bên bờ một con suối nhỏ. Hằng ngày cậu đi bắt cá, còn người bạn đốt rừng làm rẫy. Vào mùa nắng, bọn cậu chặt cây làm than. Có những người đàn ông đi xuyên rừng mua tất cả những thứ gì có thể mua được. Bọn cậu trao đổi lương thực và quần áo với họ. Thuốc đâu cậu hút? Đấy là thời gian cậu muốn cai. Nhưng thực ra đó không phải là lý do để cậu lên rừng. Cậu vẫn tin rằng khi chúng ta lắng nghe, chúng ta có thể nghe thấy mọi bí ẩn. Những cô gái che mặt vẫn đi ngang phần đất của bọn cậu. Họ mang theo cơm nước và dao. Để chọc ghẹo họ, cậu nằm chắn ngang con đường mòn giả như xác chết. Rồi cô gái đã cúi xuống. Khi vừa đúng tầm tay, cậu mở mắt và vít cổ cô gái. Cô gái chỉ ú ớ trong miệng. Ngày chết tiệt ấy, cô gái lại chỉ đi có một mình. Cậu kéo khăn che mặt của cô ta ra, một đôi môi khô câm nín từ muôn trùng mấp máy. Ngươi phải nói. Ngươi phải nồng nàn giãi bày khát vọng. Nhưng cô gái vẫn câm nín như cô vẫn câm nín như thế từ lúc làm người. Cậu khựng lại. Cô gái bỏ đi. Ngày hôm sau, cô đi vòng qua con đường khác. Cậu lẽo đẽo theo sau kéo co một niềm im lặng. Vào tới vùng cây buông, cô vẫn không thèm nhìn cậu, lẳng lặng chặt. Cậu giằng con dao khỏi tay cô ta, chặt điên cuồng từng tàu lá. Cô ta vẫn không nói gì. Khi cậu nghỉ tay, cô ta rót cho cậu cốc nước rồi dùng tay áo lau mồ hôi trên mặt cậu một cách dịu dàng. Cậu muốn ôm lấy cô ấy mà không thể. Có cái gì đấy từ cô ta cho cậu biết đừng để bị khinh miệt. Nó không phải là sự thánh thiện hay cao cả. Mãi sau này, cậu mới biết đó chỉ là sự ngay thẳng, mà cậu không đủ ngay thẳng để đặt trái tim mình vào lòng bàn tay cô ta. Tôi hỏi cậu: không phải tại vì cô ấy câm điếc sao? Không, nó là phẩm hạnh lễ giáo. Tôi nhìn thấy cậu nằm úp mặt xuống đất, cả cánh rừng đổ xuống người cậu, bắt đầu là những chiếc lá, sau đó tất cả mọi cây đều bật gốc. Ngọn lửa của cô gái thiêu sống cậu. Và cậu đã nghĩ về lễ giáo theo một cách khác. Cậu nói với cô gái: Em đã làm biến đổi anh. Cậu nghĩ là cô ấy hiểu điều cậu nói. Cô ấy nhìn cậu thấu suốt vào bên trong. Cậu cảm thấy xấu hổ. Ngọn lửa liếm nhanh vào trảng cỏ. Những con thú bỏ chạy tán loạn. Tôi nhìn thấy cả chuột và mèo, nai và cọp, khỉ và voi, gấu và những con lợn rừng. Tất cả chúng đều sợ hãi như nhau. Cơn ghiền thuốc làm cậu vật vã. Cậu tự tát vào má mình, đấm vào ngực mình. Cô gái giữ tay cậu lại. Tiếng gầm gừ thoát ra từ cổ họng của cô ta tắc nghẹn. Đến lượt cô ta tự tát vào má mình, đấm ngực mình. Cô gái đã hiểu nhầm cậu. Tập trung hết nghị lực để tự trấn tĩnh, bọt mép sùi ra, cậu chắp hai tay lại và hét lớn: Không phải thế . Rồi cậu bỏ đi. Những đám ma vẫn đi qua lối này, con đường đầy ngập tiền giấy, những tờ dollar 100 lật phật theo gió. You vẫn hạnh phúc phải không? Mà you có cần gái không? Lén lút như you thì đời cũng mất sướng. Đưa tiễn you có bao nhiêu người khóc. Hỏa thiêu đài khuất nẻo giữa những người đập đá. Người ta bảo trong đá có ẩn ngọc, nhưng giấc mơ của những người đập đá là chỉ mong quẳng được cái búa. Lâu đài của you bị nguyền rủa bởi máu của những kẻ vô tội. Nhưng you vẫn là con ma nhát người. Thượng đế ở trong sa mạc với những công trình cát của người. Cậu ẩn mình trong đám lá. Những cô gái vẫn bịt mặt đi qua khu đất của cậu. Thời gian ở trong tấm vải che mặt ấy. Và thời gian làm chứng cho những nỗi niềm của họ. Con người phải tự che giấu mình dưới nhiều lớp áo và tự biến đổi mình như những hình nhân. Xin thưa với các cụ: Các cụ có thích gái trẻ không? Có ai trong các cụ không từng mua bán dâm hay quan hệ nam nữ bất chính không? Sự ca ngợi thánh đức hay tôn vinh tình dục trong sáng tạo nghệ thuật chẳng có gì khác nhau. Phẩm hạnh của người sáng tạo không phải ở chỗ anh lành mạnh hay dâm đãng. Chúa bảo: Ai trong các ngươi tự cho mình không có tội thì cứ ném đá người đàn bà này. Hãy để cho đàn bà lên tiếng. Và đừng làm quan tòa vì quan tòa cũng bị xét xử . Âm ti rất buồn phải không? Người ta dâng cúng you nhiều thứ, nhưng lại quên gửi cho you một cô gái. You thấy không, mọi nhà tổ chức đều luôn có những thiếu sót. Hãy tha thứ cho trần gian vì trần gian hệ lụy đa đoan. Có lẽ cậu sẽ ở lại mãi trong rừng và chết ở đó trong sự bình an của cây cỏ. Cậu đã chọn một chỗ nằm vĩnh viễn trên đỉnh đồi, nơi chiều chiều cậu vẫn leo lên nhìn hoàng hôn đổ xuống. Và cậu vẫn đo đếm bằng bước chân từ chỗ sống đến chỗ chết. Mấy trăm bước một kiếp người. Quá đơn giản để tiễn đưa nhau. Nhưng cây cỏ mất bình an vì những người cầm súng xuất hiện trong rừng. Cậu trở lại thành phố. Cóc nhái cũng vào thành phố. Cả ngày lẫn đêm cậu nghe tiếng cóc nhái kêu. Cậu nghĩ đến âm nhạc. Nghĩ đến lời cầu nguyện của những bà mẹ cho những đứa con. Nghĩ đến sự giải thoát kiến chấp. Cậu vào chùa lánh nạn. Rắn rết cũng vào chùa. Cả ngày lẫn đêm cậu thấy rắn rết cắn nhau và chúng cắn cả người. Cậu ra ngoài lập một cái am riêng, sống chay tịnh bằng công quả cúng dường của con Phật. Nhiều người bảo cậu buôn bán thần thánh. Cậu chỉ cười. Tiếng nói của con người trở nên ác độc. Ngôn ngữ xảo trá. Dưới chân đức Phật và trước mặt người đời, cậu từ chối đối thoại. Cậu kinh kệ bằng tiếng chuông, tiếng mõ. Nghe tiếng chuông và tiếng mõ của cậu, ma quái và âm hồn được an tịnh, cường quyền thì xao xuyến. Đấy là tiếng của hư không gọi về. Cơn nhá nhem thời cuộc nhiều oan trái. Người ta buộc nhau từng lời nói. Cậu mang tiếng đàn ra giãi bày, nhưng kẻ có tai thì ít, người lắm mồm thì nhiều. Cậu nhận ra rằng, sự yên tĩnh không phải ở không gian hay thời gian. Đóng cửa am, cậu theo dòng người chạy ngược chạy xuôi tránh khỏi bị chết oan. Người đàn bà vẫn làm công quả quét dọn trong am đòi đi theo cậu. Cậu bảo trong tâm cậu không có Phật, trên đầu cậu không có Phật, dưới chân cậu không có Phật. Bà ấy hỏi thế Phật ở đâu cho bà ấy theo. Cậu bảo Phật ở trong chùa, cứ vào trong ấy mà tìm. Bà ấy nói, thày đi rồi Phật ở với ai? Cậu bảo Phật ở với ma. Bất ngờ, bà ấy vội quay vào am. Sau này, cậu nghe tin bà ấy chết cùng với cái am đổ nát bởi bom đạn mà không biết thực sự bà ấy đã chứng ngộ chân lý hay chỉ vì một nỗi niềm tuyệt vọng. Tôi hỏi, tử vi của cậu có sao đào hoa ở cung thiên di phải không? Cậu bảo không quan tâm tới tử vi. Hãy sống như mình nghĩ. Đàn bà thích đàn ông liều mạng. Tôi vẫn bước tới hỏa thiêu đài, trên tay cầm một nắm tiền âm phủ. Cánh đồng đá lởm chởm. Tôi nói với người thanh niên đang ngửa cổ uống nước, hãy để dành cho mình một ít tiền làm giấy thông hành qua bên kia thế giới. Hắn nói: Ông cứ đi trước đi, đừng chờ. Quả là thông tuệ, tôi bảo, phải đấy. Và tôi cầm lấy cái búa của người đập đá, đập điên cuồng xuống những cục đá tảng. Một cục đá to vỡ ra, ở giữa rỗng, hiện ra hình một con cá hóa thạch. Thời gian bị nhốt lại. Tôi cầm cục đá lên ngửi. Mùi tanh của đại dương phảng phất. Khi ấy nước tràn ngập mặt đất và nối liền với trời bởi cuồng phong, Thượng đế phán: Hãy có. Tiếng nói của sự sống ứa ra ướt hai bàn tay. Đưa cục đá cho người thanh niên, tôi nói: Cục đá này bán cho người buôn đồ cổ được nhiều tiền đấy. Hắn bảo: Tôi chia cho ông. Tôi nói: Cám ơn, tôi không có ý định đi chung với anh. Tôi bước vào hỏa thiêu đài. Ba bốn cô gái đang ngồi sàng tro để nhặt cốt. Tôi hỏi: Giá hỏa táng bao nhiêu? Một trong số các cô gái nói: Làm thủ tục ở trên văn phòng. Một chiếc xe tang rồng rắn ập tới. Một người đàn ông của hỏa thiêu đài kéo chiếc xe đẩy tới. Các đạo tì đưa chiếc quan tài xuống đặt ngay ngắn trên xe đẩy. Người đàn ông kéo chiếc xe đẩy tới trước một cửa lò. Vị linh mục quàng dây hành lễ lên vai. Những ngọn nến được thắp trên nắp quan tài. Xin Chúa cho linh hồn Anna được nghỉ yên trong ánh sáng nghìn thu của Chúa. Này người, hãy nhớ mình là cát bụi... Người đàn ông đẩy chiếc quan tài vào trong lò qua hai ống lăn, rồi chất thêm củi vào trên đầu quan tài, sau đó người đàn ông tạt xô dầu vào đống củi. Khép cửa lò, người đàn ông dùng ống lửa phụt qua một cái lỗ tròn. Quan tài bốc cháy. Chúa sẽ dùng lửa để xóa sạch thế gian và xây lại trong ba ngày ngôi đền của ngài.
Cút
mẹ
chúng
mày
đi
cho
khuất
mắt.
Cuộc chiến tranh lằng nhằng. Súng bắn từ bên phải. Súng bắn từ bên trái. Súng bắn phía trước mặt. Súng bắn phía sau lưng. Cậu cũng chẳng hiểu được sao mình vẫn sống. Cuộc chiến không có kẻ bên lề. Cái chết thực sự không quan trọng, cậu dửng dưng và vô nghĩa. Quả lựu đạn gài sau tấm truyền đơn gắn dưới gốc cây kêu gọi hòa bình. Cậu bảo thằng nhóc, xé tấm truyền đơn đi. Thằng nhóc giật tấm giấy xuống cùng lúc với quả lựu đạn rơi. Thế giới chết lặng. Không, thế giới câm. Quả lựu đạn không nổ. Thôi thì hãy hút một điếu thuốc để cái chết đến từ từ. Cậu đưa bao thuốc cho thằng nhóc. Từ trong đám mây, tôi thấy ông thần đèn trùng trục bước tới và cúi rạp người xuống: “Thưa chủ nhân, xin được phục vụ ngài”. Tôi bảo: Hãy châm lửa cho thằng nhóc. Tức thì lửa từ trên đầu ông thần đèn bốc lên như ngọn đuốc.Từ rừng cao su đến trường khoảng năm cây số, tôi đi bộ qua sương sớm qua nắng trưa qua mưa chiều. Rừng âm u có rất nhiều ma. Ban ngày cũng có ma. Một hôm bụng rất đói, con ma hiện ra bắt đầu bằng cái mũ, rồi lớn dần lên to như cái nhà. Nó nuốt tôi vào bụng. Trong cái vòm tối của dạ dày của con ma, tôi quờ quạng và ngửi thấy mùi cỏ rất thơm. Tôi bốc một nắm bỏ vào miệng. Con ma rú lên rồi tan biến. Nắm cỏ vẫn còn nằm trong miệng tôi. Nuốt. Con ma đã nằm trong bụng tôi. Từ đấy, tôi hay nhìn thấy ảo tượng và nghe thấy tiếng nói trong không khí. Đôi khi lão xà ích già cũng cho tôi đi nhờ trên chiếc xe ngựa ọp ẹp của lão. Lão bảo không có hai mặt trời trên thế gian. Tôi bảo điều ấy thì chắc chắn rồi và mặt trời là của ban ngày, mặt trăng là của ban đêm. Lão nói, một ngày kia mặt trời sẽ chiếu sáng cả ban đêm. Tôi bảo lão nói vui thật. Lão bảo đấy là niềm tin không phải là chuyện nói cho vui. Ít lâu sau, lão bị bắt, chẳng biết sống chết ra sao. Và tôi cũng đã hiểu như lão, một ngày kia mặt trời sẽ chiếu sáng cả ban đêm. Càng ngày càng có nhiều người cầm súng xuất hiện. Mẹ tôi lo lắng muốn đưa cả gia đình tìm nơi an toàn. Bà cầu nguyện xin Chúa quan phòng. Người mẹ của con người hiện ra trong giấc mơ, nói cứ đi đi, mẹ không bỏ con của mẹ. Sáng hôm sau cả nhà tôi dắt díu nhau về thành phố. Tôi phải bỏ học. Cả nhà tôi túm tụm trong cái chái nhà ông bác. Mẹ tôi lâm bệnh. Tôi đi bán bánh mì. Bánh mì ăn xong lại đói, tôi ước ao bánh hằng sống để khỏi vất vả, nhưng bánh hằng sống chỉ có trong thánh kinh. Ông Adam đã bị nguyền rủa và con cái của ông đã giết nhau. Không có tiền, bác tôi không bán gạo. Các em tôi ngồi khóc. Người hàng xóm thương tình bảo cứ sang nhà bà ấy đong thiếu, lúc nào có tiền thì trả. Chẳng bao lâu, tôi bị nám phổi vì lao lực. Mẹ tôi vẫn nằm bệnh. Bà cầu nguyện xin Chúa quan phòng. Người mẹ của con người lại hiện ra trong giấc mơ, soi sáng. Ngay ngày mai, con hãy ra chợ, đến quán bún của bà Phó, hỏi nhờ bà ấy một chỗ ngồi. Đấy là chỗ để con sống và chỗ để các con của con được học hành. Sáng hôm sau, mẹ tôi đã đứng lên như chưa hề bệnh tật gì, bà đi ra chợ và thấy có một quán bún nằm ngay trên lối đi chính của chợ. Mẹ hỏi: Thưa bà, bà có phải là bà Phó không? Bà ấy bảo: Tôi đây. Mẹ nói cần một chỗ ngồi để bán hàng, có thể chỉ giúp không. Bà ấy vui vẻ bảo: Con gái tôi vừa lấy chồng, bà có thể dùng cái sạp của nó, ngay bên cạnh đây, và có thể bán bất cứ cái gì. Bà ấy nói thêm: Để cho dễ, bà bán đồ ăn như tôi cũng được. Ừ, cái dễ nhất mà bà nội trợ nào cũng có thể làm được là nấu một nồi bánh đúc, mẹ nghĩ thế và sẵn mượn một cái cối xay gạo. Cả nhà tôi thay nhau vần cái cối xay bằng đá để xay gạo thành nước nấu bánh đúc. Mỗi lúc mệt lả, tôi lại thấy con ma lù lù hiện ra, nó nuốt tôi và tôi nuốt nó. Trên các tầng trời, các thiên thần ca hát với kèn đồng. Tôi thấy người đàn ông đeo tang trên đầu bước qua các đám mây. Ông ta đi tìm xác người. Ông đi đến đâu trời khép lại đến đó. Cho đến khi cả bầu trời tối lại, tôi nghe có tiếng nói: Thế giới bị phân rẽ bởi sự sống và sự chết. Hãy đi tìm kẻ khước từ cuộc sống và vượt qua cái chết. Bố tôi tìm được việc làm. Tôi vào nhà thương thí uống thuốc ròng rã một năm rồi đi học lại. Nhờ ơn trời, tôi học hành cũng không dốt. Cô bé ngồi đầu dãy bàn bên kia nhìn tôi thầm lặng. Mỗi khi đứng lên, ngồi xuống hay làm một việc gì đó, tôi luôn luôn nhìn cô như chờ đợi một sự đồng ý. Cô chỉ chớp mắt. Phải đến hơn một năm sau, tôi mới thay đổi cách thức tùng phục của mình bằng một lá thư tỏ tình rất ngắn, rằng: ” Tôi không nhìn thấy ai ngoài em, hãy dẫn đường cho tôi”. Ký tên: “Người mù”. Lá thư kẹp trong cuốn sách. Ngày hôm sau, cô bé trả lại cuốn sách bên trong có lá thư trả lời: “Ông ngốc ơi, cầm tay tôi đi”. Ký tên: “Người dẫn đường”. Tôi sung sướng tê liệt đến hơn một tuần lễ mới hẹn được cô bé đi chơi. Nhưng hẹn rồi cũng chẳng biết đi đâu. Ngày ấy, tôi vẫn là một cậu bé nghèo. Quần áo mặc thừa của ông chú. Chưa bao giờ vào quán nước. Tôi dẫn cô bé ra bờ sông và chỉ đủ tiền mua một gói lạc rang mang theo. Nhờ mấy hột lạc, tôi cầm tay em và trở thành người mù vĩnh viễn. Cậu trốn việc cầm súng bằng cách xin làm cán bộ kỹ thuật. Cuộc chiến tranh tạo ra đình đám, ngày nào trong làng cũng có giỗ. Cậu theo ông phụ trách thông tin văn hóa xã vào trong làng giết thời gian bằng những cuộc nhậu mờ mịt. Không say không về. “Vô” đi ông cán bộ. Ờ phải vô mới biết nông sâu thế nào, phải không cô em? Cô em cũng vô đi cho biết dài ngắn ra sao. Những con tép sống nhảy lách tách trên đĩa. Cho xin mấy lát chanh. Này, tôi vắt chanh bỏ vỏ. Cô giáo làng ngồi nhìn cậu đăm chiêu. Nghe đâu gã thông tin văn hóa thường ghé nhà cô. Cậu hỏi: Thưa cô, cửa nhà cô có gài lựu đạn không? Cô giáo nổi quạu: Có cả mìn nữa đó. Cậu bảo: Mìn định hướng thì tôi không sợ. Tôi đi cửa sau. Mọi người cười ồ. Nào, vô. Trên bàn thờ, khói hương nghi ngút trước tấm hình một cô gái. Cái chết không được giải thích. Cô giáo nói với ông già: Bác Ba đờn đi. Ông già: Tôi đờn thì cô phải ca. Ông già với cây đàn cò treo trên vách bên cạnh bàn thờ. Tiếng gió cạ trên những lá lúa. Tiếng của thanh vắng dưới vòm cây. Từ là từ phu tướng. Bảo kiếm sắc phong lên đàng.Vào ra luống trông tin chàng. Năm canh mơ màng... Cậu thầm hỏi cô giáo: Đoạn trường cô đã qua chưa mà u hoài thế? Rồi cậu cất giọng bông lơn: Sen xa hồ, sen khô hồ cạn. Còn lựu xa đào thì lựu ngả đào nghiêng... nỡ nào rẽ thúy chia uyên... Vỗ tay. Mấy cô bé hàng xóm đứng xem cũng vào cuộc. Ông văn hóa thông tin đứng lên điều khiển chương trình liên hoan ca nhạc tài tử cấp xóm xem ra đúng bài bản truyền hình trực tiếp. Cậu đưa cô giáo về nhà, tới cửa thì cậu ngã xuống vì say. Trong nhà cô giáo, nửa đêm cậu tỉnh. Hơi thở của cô giáo rất thơm. Có tiếng đập cửa và tiếng ồn ào bên ngoài: Xét sổ gia đình. Cô giáo ra mở cửa. Tiếng hỏi hách dịch lỗ mãng: Có người lạ trong nhà không? Cô giáo điềm đạm: Người lạ thì không có, nhưng có người quen. Bọn lính xộc vào đòi xem giấy cậu. Chúng yêu cầu cậu đi theo chúng. Ra tới chợ, cậu được giao cho ông sếp của chúng. Gã trung úy nhìn cậu: Thôi về đi ông nội. Cậu không biết nên về nhà mình trọ hay về nhà cô giáo. Cậu hỏi gã trung úy: Theo ông thì tôi nên về đâu? Gã để tay lên báng súng: Không nên mất ngủ vì chuyện vặt, thời gian không còn nhiều đâu. Đúng là thời gian không còn nhiều, cậu trở lại nhà cô giáo để cảm thấy cuộc đời không phí, dù rằng đấy chỉ là một đêm của Phật tính vô sắc tướng. Gã trung úy bị phục kích tan nát thân thể. Dư âm của tiếng nổ vẫn váng vất suốt mấy chục năm và nó làm cho một số người co rúm lại trong sự sợ hãi. Cô bé năm xưa của tôi vẫn còn ngồi bên bờ sông. Bọn điên tụ tập lại dưới lòng đường, tôi nghe chúng la hét: Hãy trùm áo mưa lên đầu kẻo nắng sẽ thiêu đốt cả tổ tiên chúng ta.Và dưới ánh nắng chói chang, bọn điên rú lên từng cơn man dại. Chúng kéo nhau đi từ phố này qua phố kia, kêu gọi người trong nhà hãy che mặt vì ánh sáng có thể làm mù mắt tất cả những ai chờ đợi nó. Cậu bảo có những người đàn bà là sinh thể của ta, nhưng cũng có những người đàn bà đưa ta đến mộ địa. Sau buổi tối gần nhau bên bờ sông với “người dẫn đường”, tôi cảm thấy có một khoảng cách không vượt qua được để đón nhận nhau. Hơn một tháng sau, chúng tôi mới lại có dịp để đi chơi chung với nhau, nhưng tôi cũng vẫn không biết cách làm cho tình yêu có thể trở nên thân mật. Tình trạng này kéo dài suốt hai năm cho đến lúc cô bé nghỉ học đi làm. Tôi vẫn là một cậu bé ngớ ngẩn mỗi sáng dậy thật sớm ra đứng ở bến xe nhìn người yêu bước lên chiếc xe lam mù mịt khói. Ba năm lẳng lặng như thế, rồi tôi cũng đi làm. Có tiền, một cô gái có bầu vú nhão nhẹt đã khai hóa cho tôi thành đàn ông. Thêm năm năm nữa đi ngược đường, trước lúc cô bé lấy chồng, chúng tôi đã ngồi ăn với nhau, với cô bé để không hối tiếc, với tôi một cơ hội cuối. Và tôi đã biết tôi phải làm gì, nhưng tôi cũng chẳng hiểu vì sao, cả hai chúng tôi lẳng lặng xa nhau. Không bao giờ gặp lại cô ấy nữa. Trong giấc mơ tôi, người vẫn về, vẫn thiết tha, nhưng cứ mỗi lúc sắp được ôm lấy nhau thì giấc mơ tan. Một khoảng cách kỳ lạ chia lìa chúng tôi cả trong giấc mơ. Bốn mươi năm sau, tôi vẫn nghĩ đến điều này dù lòng đã dửng dưng. Số phận tôi trên bàn tay mềm mại bé bỏng đã im lìm. Cậu bảo đàn bà là một con đỉa. Tôi nhìn thấy trên bầu trời những xác người chết trôi. Từ trong miệng họ nước không ngừng ứa ra. Những con chim bồ câu ngậm cành ô liu bay qua bay lại. Tiếng đập cánh của chúng giống như tiếng ống bễ thổi trong lò nung. Góc phía tây, con thuyền gỗ đã gãy hết cột buồm nằm úp xuống phân trần với thế gian sự tuyệt vọng của mình. Tôi hỏi tại sao cậu không viết văn? Cậu bảo muốn làm nhà văn thì không được hèn, mà cậu thì không phải là người có đủ dũng khí để nói sự thật. Người viết sử có sai thì còn có người khác viết lại, nhưng nhà văn viết sai thì không ai viết lại cho anh được. Tôi bảo đừng bắt nhà văn phải vác thập giá. Cậu cười bảo cũng không ai bắt anh phải là nhà văn. Tôi quay trở lại khu đập đá, người thanh niên không còn ở đó. Tôi bước vào chòi lá trống trơn. Cái búa tạ nằm chỏng lỏn trong góc. Cầm cái búa lên, tôi hùng dũng bước tới giữa vườn đá và nhìn thấy trên tất cả mọi tảng đá đều có chữ. Nâng cái búa lên, tôi đập xuống như giết người.

2.
Ông tổ dòng họ nhà hắn đến cái cái xó làng mà bây giờ hắn nhận là cố hương từ giữa thế kỷ 19. Từ quốc lộ số 5 Hà Nội đi Hải Phòng, đến ga Phú Thái rẽ vào khoảng bảy cây số thuộc địa phận tỉnh Hải Dương, ngôi làng giấu mặt phía sau một cái làng khác sầm uất ngoài hương lộ qua một lối đi trên sống mũi. Qua ba bốn lần thiên di vì giặc giã, người làng hắn vẫn giữ cái truyền thống hèn mọn của mình là giấu mặt sau những thôn xóm sầm uất khác. Ông tổ hắn vốn người họ Dương, vì trốn tránh lệnh truy nã của triều đình nên đã cải họ thành Nguyễn và đến thôn Đũn với một lòng kính tín tuyệt đối vào sự che chở của chúa Trời. Con gái thôn Đũn mê ông vì sự chăm chỉ siêng năng và một tinh thần mạnh mẽ khác thường. Tuy trốn tránh nhưng ông chẳng hề che giấu niềm tin của mình. Không có cha cố để rửa tội theo luật, cả gia đình vợ vẫn theo ông tìm nước thiên đàng bằng cách đọc kinh sáng tối. Cái dòng dõi ấy vẫn giữ trọn niềm tin của mình cho đến năm mươi năm sau mới có một vị linh mục đến đặt sự cai trị của hội thánh La Mã và lập nên một xứ đạo. Hơn một nửa thôn Đũn đã được rửa tội. Chẳng biết Chúa có thiên vị không mà tất cả những người theo đạo ở Đũn đều làm ăn khấm khá hơn những gia đình khác không tin Chúa. Cha già Nhữ là một vị linh mục nghiêm khắc. Mỗi lần thấy bóng dáng cha là bọn trẻ con bỏ chạy, bất kể đang chơi trong sân nhà thờ hay trong chuồng gà nhà mình. Một nỗi sợ hãi không chỉ bởi roi vọt, nó là sự sợ hãi của tội lỗi. Chẳng cứ gì trẻ con, người lớn gặp cha cũng sợ. Cây ba-toong trong tay ông có thể quất vào bất cứ ai. Ngoài mười điều răn của Chúa, sáu luật điều của hội thánh, còn có luật pháp của riêng cha để cai quản xứ đạo. Bọn trẻ con lúc nào cũng thích vi phạm luật của cha trong việc vẽ bậy trên nền sân gạch tàu của nhà thờ, hoặc lén giật chuông vài cái rồi bỏ chạy. Biết mặt tội phạm là ông xách ba-toong đến nhà đánh cả bố mẹ nếu dám cản trở việc trừng phạt của ông. Ngày ông đến đã được đón rước long trọng với đủ giáo dân của cả hạt và kèn trống ầm ĩ. Người ta trải lá dưới chân ông và lấy lọng che trên đầu ông. Tất cả các vị hương lão đều quì xuống đón nhận phép lành của ông. Ngày đưa tiễn ông về nước Chúa còn trọng thể hơn gấp ngàn lần. Khi ông còn hấp hối nằm trên giường bệnh, thì cả họ đạo đã lớp trong lớp ngoài đứng đọc kinh vang cả một góc trời. Người ta cầu cho ông được chết trong tay Chúa, trong khi ông chánh trương quì dưới đất liên tục gào lên vào tai vị cha già và gào với trời xanh: “Giêsu Maria Giuse xin cứu lấy linh hồn Antôn”. Đến lúc mỏi mồm, ông chánh trương liền ghé sát vào mũi cha già để biết chắc rằng ông đã tắt thở thì đứng lên lau nước mắt. Mọi người đều hiểu cha già của họ đã lìa cõi thế. Tất cả đàn bà con gái đều khóc rống lên. Những người đàn ông thì tụ lại với nhau, họ chuẩn bị cho công việc mai táng. Một cơn mưa từ trời bất ngờ đổ xuống. Cơn mưa tầm tã kéo dài đúng một tháng, nước ngập lênh láng như một trận hồng thủy không phân biệt được đâu là cao thấp. Người ta phải dùng bốn cái cọc tre để định vị lỗ huyệt và dùng một tảng đá lớn để ấn cái quan tài cho chìm xuống. Cả làng đứng dưới mưa. Tiếng đọc kinh lẫn trong tiếng gió rít nghe âm u như lời khẩn cầu từ vực sâu. Ban kèn tây với kèn ta thi nhau thổi, tạo nên một màu sắc khác của cái chết. Trên tay mỗi giáo dân có một cành huệ trắng. Theo thứ tự, các bậc chức sắc trong giáo họ lần lượt ném cành hoa xuống mộ địa rồi đến người đã công đức nhiều tiền nhất cho việc ma chay này. Đấy cũng là người đã đóng góp nhiều nhất cho việc xây dựng nhà thờ. Người ấy cũng là ông cụ nhà hắn. Hôm khánh thành nhà thờ, ông cụ nhà hắn được vinh dự cầm dây chuông kéo tiếng đầu tiên. Tiếng chuông vang lên thiêng liêng và thâm trầm cũng là lúc cái dây chuông giật ngược lên làm cho ông cụ mất thăng bằng ngã xuống nền gạch gãy sống mũi. Từ đó cái mũi ông cụ vẹo qua một bên trông như lúc nào cũng đang đánh hơi. Khi ném cành huệ xuống mộ, ông ngửi thấy ngay mùi thối rữa của xác người. Mặc dù nước lênh láng nhưng những cành huệ cũng đủ tạo nên một nấm mộ to lớn. Sau đó, tất cả làng quay trở lại khuôn viên nhà thờ ăn uống. Người ta phải giết đến năm con bò mới đủ. Những sự tích về cha già được người ta kể lại với nhau bằng tất cả sự linh thiêng và nuối tiếc. Ông cụ nhà hắn nói:”Khi cha già bàn với tôi về việc xây dựng nhà thờ, tôi nói rằng giáo dân mình nghèo, nên liệu cơm gắp mắm. Nhưng cha già bảo, cần phải xây nhà Chúa cho nguy nga để xứng với danh ngài và nhất là để cho dân ngoại thấy đạo của ngài mang lại vinh quang cho con người. Tiền bạc thì ông khỏi lo. Chuyện đó đã có Chúa. Không phải là tôi không tin Chúa, nhưng tôi không tin là cha già có thể mò ra một số tiền lớn để xây như ý cha muốn. Nhưng cuối cùng thì ngài cũng làm cho chúng ta có một ngôi thánh đường mà không ai trong chúng ta không hãnh diện. Các ông có biết tổng số tiền mà làng ta góp được là bao nhiêu không? Nó chưa được một phần năm mươi đâu nhé”. Một lão già ngồi bàn bên cạnh chõ mõm vào: “Thế mà cụ cũng được vinh dự giật dây chuông đầu tiên đấy”. Ông cụ nhà hắn đứng lên:” Tao bảo cho mày biết, không phải tao thì đứa nào dám láo nào?”. Lão già thối mồm cũng đứng lên:”Ông bảo ai láo?”. “Tao bảo mày đấy. Đừng có học đòi cái thói con nhà tôm cứt lộn lên đầu nhé”. Mọi người can ngăn dìu hai ông lão ra hai chỗ khác. Dù không còn đối thủ nhưng hai ông vẫn chửi nhau cho đến lúc ông nào cũng say mèm. Khi tỉnh rượu, ông cụ nhà hắn còn lẩm bẩm:”Tao phải dạy cho mày một bài học”. Ngoài cánh đồng, những cành huệ trên nấm mộ mới bập bềnh theo dòng nước trôi đi từ từ để lại ngôi mộ trống với tảng đá nhấn chìm cỗ quan tài trong nước. Mưa vẫn tiếp tục và nước vẫn tràn trong nhà. Thóc trong bồ nẩy mầm, nhưng con người cứ rũ ra rồi chết. Cơn dịch bệnh làm chết hơn một nửa dân làng. Cái lão già thối mồm chưa kịp học bài học của ông cụ nhà hắn cũng rũ xuống chết. Ông cụ nhà hắn gom ít tài sản đem con cháu qua vùng bên tá túc.
Những
xác
chết
làm
chứng
gian
về
thiên
đường.
Khi mặt đất trở nên khô ráo và những giọt nước mắt của con người đã cạn, ông cụ nhà hắn mang con cháu về và trách móc Thượng đế rằng:”Sao ngài nỡ giết bỏ những thợ gặt?”. Rồi không ngại ngần, ông cụ chấp nhận làm thông gia với một gia đình bên lương. Ngày ấy, con gái làng còn sống sót rất ít. Họ ngoại nhà hắn buôn bán chữ nghĩa thánh hiền trên cái gò làm gốm ở vùng bên mà ông cụ nhà hắn cùng con cháu đã tá túc suốt những ngày tai ương của hồng thủy. Bà cụ ngoại nhà hắn hiếm muộn chỉ có hai con trai, ông lớn thông y lý số hành nghề bốc thuốc và cho chữ thiên hạ vào dịp lễ tết, ông trẻ dạy học và hưởng đặc ân của mẹ trên mấy sào ruộng cho cấy thuê. Ngày mạt vận, bà cụ ngoại đau yếu ốm liệt cho người bảo ông lớn cắt thuốc cho bà. Ông lớn xem tinh tú trên ngón tay rồi bảo người nhà:”Không cần chữa”. Ngay tối hôm ấy, ông lớn về nhà bà cụ ngoại nói trên giường bệnh của mẹ mình:”Bà phải giao mấy sào ruộng lại cho tôi vì tôi là trưởng nam, tôi có quyền hưởng”. Bà cụ lạnh lùng bảo:”Mày làm giấy giao quyền trưởng nam lại cho thằng út, tao sẽ cho mày mấy sào ruộng ấy”. Ông lớn ngồi viết ngay và đưa giấy cho bà:”Tôi sống bằng cơm gạo chứ không sống bằng cái sĩ diện”. Bà cụ ngoại sai người mời toàn bộ gia tộc bên chồng đến chứng kiến, gạt nước mắt giao tờ giấy nhận quyền trưởng nam cho ông trẻ:”Con hãy nhận cái này. Đừng để nhục vì cơm áo”. Rồi bà gọi người hầu lấy lá chuối lót tay đuổi ông lớn ra khỏi nhà. Đêm ấy bà qua đời. Trên mảnh đất của tổ phụ, lúa vẫn tươi tốt nhưng con trai trưởng của nhà ấy sau này đã bị phong trào cải cách ruộng đất đấu tố giữa sân đình làng, người tá điền trung hậu dí đầu tên địa chủ xấu số xuống đất bắt liếm phân người tạ tội và xỉa xói bản chất gian ác của giai cấp bóc lột. Tên địa chủ chưa hưởng được bao nhiêu lộc của tổ tiên đã hộc máu chết trong nhục hình. Đám con cháu thất tán và trong một thời gian dài suốt hai thế hệ phải sống trong sự bạc đãi của đấu tranh giai cấp. Mẹ và cậu hắn thuộc dòng ông trẻ, đức độ không thiếu nhưng do động mồ động mả cũng không thoát được nghiệp chướng oan nghiệt.

3.
Nhà mày có rượu không? Ông bác sau hơn hai năm mới gặp mặt hỏi. Tôi nói nhà cháu không có rượu, nhưng nếu bác muốn uống thì rượu gì cũng có. Được. Tôi đưa ông bác về nhà sau khi ghé qua tiệm rượu chơi một chai whisky. Ông bác phấn khởi ra mặt, bảo rượu Tây cơ à. Vâng, tôi nói để cho bác lên đời. Mẹ mày, ăn với nói. Cháu vẫn nghe kể về bác, cháu rất thích. Bố mày nói à? Không, mẹ cháu. Tao cũng nghe nói mẹ mày hách lắm. Mẹ cháu buôn thúng bán bưng có gì mà hách. Buôn thúng bán bưng mà mấy thằng dân biểu phải đến nhà xin phiếu, không hách thì là gì. Thôi uống đi bác. Ông bác khà một tiếng rồi dằn ly xuống, khen: Tây nó vẫn là Tây. Ông nói thêm: Mê cái gì khổ cái ấy. Cháu thấy bác có khổ đâu. Trông thế thôi, mấy thằng nhà giàu ở khắp vùng Đũn chỉ nghe thấy tiếng ho của tao, chúng đã vãi đái ra, nên rượu thì không thiếu nhưng không phải lúc nào cũng vui. Thằng chánh tổng cũng đã từng bị tao tát cho gãy mấy cái răng vì đòi bắt tao. Bác đi ăn cướp nó đòi bắt là phải rồi. Mẹ mày, mày quên là chính lũ chúng nó mới là bọn cướp cạn. Tao đi ăn cướp thật, nhưng tao còn biết chia cho đứa khác, bọn nó có chia cho ai đâu. Có chứ, nó chia cho quan trên. Mẹ mày, chúng nó cùng một lũ. Thế bác không phải cùng một lũ khác sao? Ừ, một lũ mẹ mày. Mày không phân biệt được chính tà. You có phân biệt được chính tà không? Khi nước cuốn lên hút tất cả tôm cá quẳng lên bờ, you ra oai thần lực và con người khiếp sợ neo đậu thuyền bè vào bến, you vần vũ trên bầu trời và tiếng rống của you làm con người vỡ mật. Dự báo thời tiết có giông rải rác và đợt gió lạnh đông bắc. Pháp luật cũng thua bác à? Bác có để cho pháp luật sờ đến đâu mà thua với thắng. Nói chuyện với mày chán bỏ mẹ. Nghe tao hỏi này: mày biết đàn bà chưa? Chắc là chưa. Chưa hay là rồi chứ sao lại “chắc là chưa”? Tại vì chưa chắc đã là biết. Mẹ mày chơi chữ với ông. Nghe cháu hỏi này: bác biết “chơi” là gì không? Với tao là vét sạch, thế còn với mày? Ngậm miệng ăn tiền. Mẹ mày, đểu. Cháu còn phải học tập bác. Tôi chờ cơn mưa trên chiếc xe gắn máy chạy giữa đường cong của buổi chiều. Cô gái thọc tay vào túi quần (tôi), hỏi: Chim đâu rồi? Bay rồi, tôi nói. Sao bay? Sợ. Tại sao lại sợ? Chết non. Bao giờ về? Không về nữa. Nó đi đâu? Tìm tổ khác. Em giết nó trước khi tìm thấy tổ khác. Ừ, giết được cứ giết. Làm chim bảy món nhé? Tùy. Thế rồi cơn mưa đến. Cô gái bảo: Chim ướt cánh rồi. Tôi nhìn cơn mưa qua những chiếc áo trùm cánh dơi. Bàn tay cô gái vỗ về trong đũng quần, miệng nói: mưa hay thật.Ừ, mưa che giấu con người vào u tối. Cô gái bảo mưa cổ vũ cho cái sướng được tuyên dương con chim ướt cánh của anh giữa đường phố. Còn rượu nữa không? Bác còn uống được thì cháu chiều. Alô, mang ngay một chai Chivas đến nhé. Quẳng mẹ cái điện thoại của em đi. Vô ngôn như cái cối xay có phải được việc không.Đừng tưởng cái cối xay không biết nói. Tao bảo mày câm mồm. Những cô gái líu ríu dưới cái dù màu đỏ của thế kỷ trước để cho mưa tạt ướt chiếc áo mỏng. Anh làm thơ đấy à? Thơ cái mả mẹ mày, hiếp dâm. Anh nói với em thế à? Ừ, mày là con đĩ. Tôi quẳng con đĩ xuống đường. Những gã đàn ông đói khát bâu lại như một đàn ruồi. Mày có biết đàn ông chân chính là thế nào không? Dạ, cháu học tập bác. Hãy chiếm đoạt cái không thể chiếm đoạt. Bằng cách đi ăn cướp ạ? Hạ sách. Bác bảo cháu phải làm gì? Hãy vẽ một cái ngai vàng rồi ngồi vào đấy. Bác tha cho cháu, con cháu nhà họ Dương giỏi lắm là đi ăn cướp thôi. Mẹ mày, cụ tổ nhà mày có tự ti thế đâu. Thôi bác uống đi, xong đánh một giấc, mộng kê vàng có là bao. Mẹ mày, lại còn yếm thế nữa. Thì mua vui cũng được một vài trống canh. Cứ cho là được một vài trống canh, thế mày lấy cái gì mua vui?
Thưa bác,
địt
một
phát
vào
thiên
thu
vạn
đại.
Ông bác lăn ra cười, nước mắt đầm đìa, nước mũi tèm nhẹp; cho đến khi tiếng cười khàn đục tắt lịm lưng chừng giữa đôi môi mím, nước mắt nước mũi đóng váng trên lớp da mặt nhăn nheo, ông bác chỉ còn là một cái xác vô tích sự ăn vạ nhân gian một chỗ nằm. Em thèm lắm rồi. Thì anh đã tặng em cả gấu, cả chó, cả ngựa, cứ thế mà giải trí lành mạnh.Em chỉ muốn giải trí bằng anh thôi.Đừng có mà chổng mông kêu giời thế. Có mông không chổng thì chổng cái gì? Ông bác kể rằng, trong cái chòi giữa cánh đồng để gác dưa, những người đàn bà mặc xống đi qua đấy chẳng mấy ai không bị ông đòi thuế mãi lộ. Bà nào có khoai thì đưa khoai, không có khoai thì đưa bánh, nếu không có bánh thì cứ nằm ngửa ra. Có một người đàn bà nghiêm trang và sạch đẹp vừa có bánh vừa có khoai, vẫn cứ đòi nằm ngửa ra giữa chòi. Bữa ấy, ông bác đã thu đủ thuế, bảo người đàn bà: Về đi, tha cho mày. Người đàn bà nói: Tôi đến đây có phải để xin ông tha đâu. Ông bác nhìn người đàn bà và hỏi: Muốn trả thù chồng à? Người đàn bà gắt: Hãy chứng tỏ bản lĩnh tiếng tăm của ông đi. Ông bác cười ha hả (thế ra mình cũng có tiếng tăm cơ đấy) bảo người đàn bà chờ. Ông bác bước ra ruộng tìm quả dưa chuột to nhất. Người đàn bà quì xuống ôm chân ông cầu xin: Hãy đánh tôi đi, hãy chửi tôi đi. Ông bác dùng một chân đạp người đàn bà ra và chửi: Đồ đĩ ngựa. Đôi mắt người đàn bà mờ dại: Hãy chửi nữa đi, chửi tục vào, tôi xin. Ông bác ngần ngừ rồi cũng chửi cho sướng miệng. Ông chửi từ trên xuống dưới, chửi từ trái sang phải, chửi toàn bộ súc sinh. Người đàn bà hưng phấn toàn thân bấu vào ông như những con đỉa hút máu. Bất chợt ông bác thấy quả dưa chuột không còn cần thiết nữa, ông đút quả dưa chuột vào miệng người đàn bà và chứng tỏ ông là đàn ông như thế nào. Về sau, mỗi lần người đàn bà này đến, ông bác kính yêu của cháu đều bắt bà quì xuống và bò từ cửa vào như một con chó. Phần thưởng cho bà là một quả dưa chuột to nhất ông đút vào miệng bà cùng lúc với chiếc cọc sắt ông đóng vào lòng bà. Điều tai hại nhất của việc này là người đàn bà đã tôn vinh ông như một vị thần và đòi bỏ chồng theo ông. Ông bác của cháu buộc phải bỏ chạy. Không gác ruộng dưa nữa thì bác làm gì? Xét cho cùng, đi ăn cướp vẫn là công việc gay cấn và thỏa mãn cái thú tính nhất. Người ta bảo đánh đĩ mười phương, chừa một phương lấy chồng, nhưng để trốn chạy người đàn bà ấy, bác quyết định đánh cướp nhà lý trưởng Bân tại ngay cái làng Đũn rách nát sau hai năm hạn liên tiếp. Nhờ bố nó giàu nên mới ngoài hai mươi, thằng nhãi đã được bố mua cho chức lý trưởng. Bác ghét thằng ấy vì nó tự cho là người đàn ông duy nhất trong vùng được con gái mê. Nó quên là cứ trần xì ra, cái ngữ như quả ớt của nó thì con gái nào thèm. Bác chuẩn bị rất kỹ, từ bả cho chó đến dây thừng để trói người nếu cần thiết. Bác cũng sai bọn đàn em chuẩn bị một cái thuyền to. Đêm ấy, tất cả chó lợn nhà nó đều bị bả chết, toàn bộ người trong nhà bị xông thuốc mê bất tỉnh. Sáu thằng đàn em quang gánh vét sạch đồ đạc xuống thuyền. Bác phá tủ vơ hết vàng bạc tư trang gói trong túi vải đeo trên vai. Trước khi đi, bác vén váy tặng con vợ ba của nó quả dưa chuột. Bọn bác xuống Hải Phòng chia của rồi tạm tản đi mỗi người một ngả. Bác mua một cái thuyền khác làm nghề chở hàng, nay đây mai đó, những tưởng là yên chuyện. Một buổi sáng tinh mơ khoảng hai tháng sau, không biết bằng cách nào, con vợ ba của thằng lý trưởng đã đứng trên mũi thuyền bác với cái tay nải quần áo. Ai trong các ngươi được ta chọn, thì cha ta ở trên trời cũng sẽ chọn người ấy. Số phận của các ngươi không phải là đã được định đoạt từ muôn thuở sao. Bởi thế ta bảo các ngươi, hãy chuẩn bị sẵn linh hồn, để khi con người đến, các ngươi được thanh thản ra đi. Người đàn bà ấy tuổi Dậu, bác tuổi Sửu, hợp số kỳ lạ. Chỉ trong một thời gian ngắn, với tài quán xuyến của bà ấy, bác mua thêm một cái thuyền nữa. Rồi một thời gian nữa cũng không bao lâu, bác mua được cái nhà nhà trên phố Dinh. Đấy là cái nhà mà gia đình tôi đã sống ít ngày cuối cùng trên đất Bắc trước khi xuống tàu di cư vào Nam. Phía sau căn nhà có một nghĩa địa Tây và con đường sắt chạy qua. Lần đầu tiên tôi đã nghe thấy tiếng còi tàu và tiếng bánh sắt nghiến trên đường ray rầm rập để mơ tưởng về phía trước những con đường hoan lạc. Sau này, tôi đã nhiều lần đứng một chân trên con tàu dịch chuyển cùng với gà lợn chỉ để chửi thề sự khắc nghiệt của cuộc sống. Và năm mươi năm sau, tôi mới có cơ hội ngồi yên bình trên con tàu để trở về nhìn lại căn nhà trên phố Dinh, nhưng khi đó cả cái tên phố Dinh cũng đã không còn nữa, và cái nghĩa địa Tây đã biến thành một khu dân cư tạp nhạp. Em muốn úp mặt vào mùi hương của quá khứ để ngủ. Đừng đánh thức em. Đừng cho lũ ruồi đến gần. Đừng bắt em phải bận tâm về tương lai. Hãy để cho em yên bề trong mộ phần anh.

4.
Những người đàn ông thuộc bên ngoại nhà hắn dường như đều bị đeo gông bởi một lời nguyền rủa. Tất cả họ, khi lớn lên đều rời bỏ gia đình và không một ai trở về, trừ ông cậu nghiện hút thuốc phiện. Thế hệ sau cũng vậy, họ lần lượt ra đi và chỉ để lại những tin đồn u ám. Đầu tiên là người anh bị bắt lính ở miền Nam. Anh ta may mắn được nhét vào một đơn vị không phải tác chiến và đóng quân ngay trong thành phố trung tâm. Một năm anh ta có những ngày phép và những ngày nghỉ khác, nhưng anh ta không bao giờ trở về căn nhà mà từ đó anh đã ra đi. Người ta kể rằng, cuộc sống thành phố không phải chỗ cho người thất học, và làm lính như anh ta chỉ là thứ đồ bỏ. Bởi vậy, anh ta đã dành thì giờ rảnh của mình cho việc học hành. Vừa kiếm được tấm bằng đủ tiêu chuẩn học sĩ quan là anh ta xin đi ngay. Ra trường, anh ta bị tống ngay vào một đơn vị bộ binh. Ở đấy, người ta không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc đánh nhau, bắn giết. Anh ta lên lon rất nhanh. Trong vòng ba năm, anh ta đã là đại úy đại đội trưởng. Thêm một năm nữa, người ta gắn lon thiếu tá cho anh ta và giao chức tiểu đoàn trưởng. Cùng với việc lên lon nhanh, người ta cũng kể rằng, anh ta rất sát quân. Trận đánh nào của anh ta cũng có người chết. Ở tỉnh lẻ, con gái thích được ngồi trên xe Jeep, và anh ta đã đón dâu bằng chiếc xe Jeep nhà binh của mình một cô gái đẹp nhất tỉnh. Cuộc hôn nhân làm nhiều cô gái ganh tỵ. Trong số những cô gái muốn được ngồi trên xe Jeep của anh ta chiều chiều lượn qua các đường phố có cô gái con của ông chủ cây xăng dòng họ công tử đốt tiền trăm để tìm bạc cắc. Dòng máu ngông cuồng ấy vẫn chảy trong cô ta và đến ngày của quỷ, nó trào lên ước muốn đòi dành lại người đàn ông cô mơ ước. Trong một cuộc đi chơi chung chỉ có ba người, hai vợ chồng ông thiếu tá và cô gần bãi biển, cô nói: Em rất thích bắn thử, cho em mượn súng đi. Ông thiếu tá hào hoa cho cô mượn súng. Phát thứ nhất, cô ta nhắm gốc cây dương bấm cò. Mọi người khen cô bắn giỏi. Phát thứ hai, cô quay đầu súng nhắm vào giữa ngực bà vợ. Khi cả hai vợ chồng ông thiếu tá còn đang ngỡ ngàng thì viên đạn đã nổ. Tiếng nổ hòa vào tiếng sóng đập bên ghềnh đá. Bà vợ nằm gục xuống. Viên đạn gần, không ai nghĩ người đàn bà đang hạnh phúc đó có thể sống. Cô gái bình tĩnh nói:” Hãy khai là bị bắn tỉa”. Anh ta vội quay xe đưa vợ vào nhà thương. Bà vợ được cứu sống. Dù không tố cáo chồng, anh ta vẫn phải đi tù với một nỗi oan mãi mãi. Không ai biết sau đó anh ta sống chết thế nào. Đứa con trai của anh ta không biết mặt bố, năm mười tuổi nó được bà mẹ gởi cho ông cậu vượt biên. Ở đâu đó trên mặt đất, nó tự xóa bỏ dòng dõi và nói: “Tôi được sinh ra từ biển”.
Người cháu của ông cậu út thừa hưởng vai trò trưởng tộc, nhưng anh ta chẳng quan tâm gì đến chuyện giỗ chạp. Anh ta nói người sống còn lo không xong lo gì đến người chết. Sau ngày giải phóng năm1975, anh ta đi kinh tế mới. Năm ấy, anh ta ba mươi tuổi và vẫn còn độc thân. Dẫu vất vả vì cày cuốc, anh ta vẫn giữ cho mình cái thú vui đọc sách. Thỉnh thoảng có dịp về thành phố , bao giờ anh ta cũng lê la ra mấy cửa hàng sách cũ tìm mua vài cuốn. Đấy là nguồn gốc mọi tai họa của anh ta. Bọn du kích ở địa phương vẫn nhìn thấy anh ta kỳ lạ. Bản chất cô độc của anh ta trở thành cái nghi ngờ của những kẻ chỉ có thể sống dựa vào số đông. Anh ta bị khám xét nhà. Vài cuốn sách của chế độ cũ đủ tang chứng cho anh ta bị qui kết là phản động. Anh ta bị bắt nhốt hơn một tuần lễ cho đến khi người ta đọc xong những cuốn sách học làm người của anh ta. Được thả về, anh ta nhận ra là không thể học làm người theo sách. Sức mạnh của con người không nằm trong mỗi cá nhân, mà nó được nâng đỡ bởi cái thiết chế xã hội. Kẻ nào nắm được cái thiết chế ấy, kẻ đó có sức mạnh. Anh ta bỏ khu kinh tế mới về thành phố sống lẫn lộn trong số đông. Người ta nói có một vị lãnh đạo chính quyền ở đấy rất giống anh ta, mà không có ai nói anh ta rất giống vị lãnh đạo nọ, bởi vì với họ hàng thì anh ta đã mất tích.
Cũng anh em nhà này, gã là người mang một thành kiến nặng về thế thái nhân tình. Gã cho rằng chẳng có ai là người tử tế, bởi thế gã không chơi với ai. Hơn thế, gã còn cho rằng dòng họ nhà gã cũng chẳng ra gì, toàn một thứ chỉ biết chửi đổng thiên hạ. Gã cặm cụi bơm gas bật lửa, bơm mực bút bi ở một góc ngã tư đường. Đám ma đám cưới trong họ có mời gã, gã cũng không đến. Gã tự coi mình như kẻ từ dưới đất chui lên. Nhưng gã là giống đực đầy đủ bộ phận, bởi vậy gã vẫn có nhu cầu làm tình với một con vật giống cái. Thượng đế là đấng hay thương xót đã run rủi cho gã một cô gái. Đàn bà cũng là một giống vật biết thương người, cô gái yêu quí cái nết cần cù của gã. Bà mẹ cô gái cũng tội nghiệp gã tứ cố vô thân, cho gã về làm rể. Ngày ấy, bố cô gái còn đang bị học tập cải tạo, có một gã đàn ông trong nhà cũng yên tâm hơn là một con chó. Người ta bảo rằng gã sa chĩnh gạo. Khi ông bố học tập cải tạo về đã đưa cả gia đình đi Mỹ theo diện bảo lãnh của nước này. Từ đó không ai biết tin tức gì về gã nữa.
Người đàn ông cuối cùng của dòng họ này đã chọn cho mình một cách ra đi khác biệt nhất. Cậu ta là cháu út của ông bán chức trưởng nam lấy mấy sào ruộng. Khi vừa học xong tú tài thì trời đất thay đổi. Những kẻ nhát gan có bao nhiêu sách đốt hết. Bọn liều thì mang sách ra chợ giời. Một khu phố ngắn biến thành cái chợ sách cũ. Để kiếm miếng ăn, cậu ta cũng mang sách ra bán. Bán hết sách mình thì đi lùng mua sách của người. Cuộc sống tạm ổn, cậu ta tranh thủ ngấu nghiến được rất nhiều chữ nghĩa nhét vào trong đầu. Sự hỗn độn của tư tưởng giống như một đám sâu bọ cắn xé lẫn nhau làm cho tâm thần cậu ta nghiêng ngả. Những cơn đau buốt bất chợt như tia chớp đánh ngang đầu làm lóe lên những ảo tượng kỳ quái, một đôi khi nó lại làm tắt phụt tất cả mọi tinh tú và để lại một khoảng trống đen tối sâu thẳm. Những nhà cai trị nhìn thấy ở đấy mầm mống của đại loạn, sách vở là bọn xúi giục, vì thế họ dẹp cái chợ của bọn rách việc ấy đi. Tất cả sách vở bị tịch thu và châm lửa đốt ngay giữa thanh thiên bạch nhật để thị chúng. Tiếc cái văn hóa thì ít, nhưng tiếc cái vốn liếng thì nhiều, cậu ta thất thểu lang thang đi nhặt giấy vụn. Có người kể đã nhìn thấy cậu ta cho giấy vào miệng nhai sau đó tu nước máy trong phòng vệ sinh công cộng. Điều quan trọng nhất là cậu ta cảm thấy mình hoàn toàn tự do. Điên là một cái quyền tối thượng, nó giải phóng con người thoát khỏi tất cả mọi qui ước. Cậu ta vạch cu đái giữa ngã tư và hò hét ở bất cứ chỗ nào cậu ta muốn. Không ai nhìn thấy cậu ta ăn, nhưng cậu ta vẫn có thể nói tiên tri cho bất cứ ai cần niềm hy vọng. Mọi lo âu trên khuôn mặt của cậu ta dần dần biến đi nhường chỗ cho sự lạnh nhạt và với một chút méo mó ở dưới cằm, khuôn mặt ấy tỏ vẻ khinh bỉ cả nhân gian. Lần cuối cùng người ta còn nhìn thấy cậu ta trên đường, thì khuôn mặt ấy đã thay đổi. Cái miệng lúc nào cũng cười, chưa chắc thượng đế đã biết cậu ta nghĩ gì, bởi vì đấy là cái sản phẩm bị hỏng.

5.
Người đến để làm chứng cho thế gian. Bố tôi bảo: Mày phải làm chứng nhân lịch sử. Con xin bố, bố sinh ra con èo uột như lau sậy, chỉ việc con đứng mà không dựa vào bố đã là vinh quang rồi. Bố đừng bắt lỗi con, bởi tất cả những gì con làm không phải từ cái ý muốn sâu thẳm trong lòng bố sao. Những người đàn bà cũng bảo tôi: Anh phải chứng tỏ mình là đàn ông. Thưa các mẹ, con chỉ có một thằng giống và noi gương các bậc tiền nhân tri túc tiện túc không dám hơn. Các mẹ để con sống để con còn phục vụ tổ quốc. Bố tôi bảo: Nhi nữ thường tình, mày phải đạp dưới chân sự cám dỗ của rắn độc. Trời ơi, bố. Đàn bà sinh ra là để được tôn vinh, con có quì dưới chân họ thì cũng là phẩm hạnh trượng phu nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy, đỉnh cao của thẩm mỹ học thượng thừa. Những người đàn bà nhéo tai tôi, nói: Hãy phục vụ bà trước khi phục vụ tổ quốc nhé. Vâng, con xin nghe lời các mẹ, bởi vì có các mẹ mới có con. Các mẹ sung sướng là con hạnh phúc.Bố tôi quát: Sống phải có lý tưởng cao đẹp. Bố đừng đóng đinh con trên cây thập tự của những thói quen. Đừng bắt con chết vì những điều con không muốn. Và đừng bắt con phải hy sinh cho những kẻ không xứng đáng. Những người đàn bà vây lấy tôi, mơn trớn: Sự vĩnh cửu không dành cho con người, hãy tranh thủ mà tận hưởng cái phù du bọt bèo này. Các mẹ bao giờ cũng là kẻ khôn ngoan nhất trong số những người ngu. Tận hưởng cái phù du không phải chỉ là một cảm giác ngắn ngủi trên đầu ngọn dương cương, mà nhìn thấu suốt cái thế giới đang đổ vỡ. Bố tôi lại quát: Mày không thể đặt cược tương lai vào mông đàn bà. Đúng thế bố ạ, mông đàn bà nhịp lắc không đều, vũ trụ không thể từ tốn mà sinh nở. Những người đàn bà hóa đá cũng cựa quậy: Hãy giải phóng chúng tôi khỏi thời gian, cho chúng tôi chết trong sự đắm đuối mê muội. Được, muốn thì chiều. Các em hãy xếp hàng bên bờ vực và ngửa mặt lên trời cao, mưa sẽ tuôn đổ từ thiên thu tới nghìn trùng, đất sẽ sụt và núi sẽ lở, cây cối sẽ bật rễ và bay lên, các em hãy gieo mình xuống nỗi khát khao tận diệt để hiến tế cho hoang dã cái vẻ đẹp thuần khiết của dục vọng. Bố tôi bảo: Những người đàn ông chân chính không khua chiêng gõ mõ. Điều này thì quá khó. Cả những vị tu hành đức độ cũng không thể im lặng. Họ nói về cái vô ngôn và sự từ bỏ hùng hồn đến nỗi những bà bán cá cũng muốn lên bục giảng. Người đàn bà ngồi gần nhất cắn vào đùi tôi nói nhỏ: Giấc mơ là con đường dẫn tới cái chết. Tôi lặng lẽ đi vào quán trà. Nhạc hòa tấu lẫn trong tiếng cười nói của những cô gái. Anh thích cô nào để tôi giới thiệu? Bà chủ quán hỏi. Tôi nói tôi thích bà chủ vì bà biết cung phụng. Bậy nào, tôi có chồng rồi. Thì cứ để chồng ở nhà nấu cơm, giặt giũ, coi nhà... Trà có mùi hoa và mùi của các vị thuốc. Tôi chế thêm nước sôi. Và tôi muốn đổ tràn ra cho đến khi cái bình thủy khô cạn, nhưng tôi ngại không làm. Sao tôi lại không thể làm những điều tôi ước muốn, dù chỉ là dốc cạn một bình nước trên thố trà? Trời cao nguyên se lạnh và xanh xao gió, những vạt nắng bỏ trốn trên những đám mây, tôi cảm thấy thèm thịt chó chấm mắm tôm, thèm cái vẻ ngái ngủ của con gái. Đổ dốc xuống thung lũng, tôi tìm mùi rừng mới lớn. Gã lái xe ôm bảo, muốn giải trí thì vào tiệm hớt tóc thanh nữ là nhanh gọn nhất. Ngu à, trong tiệm hớt tóc thì làm gì có rừng. Cái ngành công nghiệp may tay này không xuất khẩu thành phẩm mà xuất khẩu phương tiện sản xuất. Vấn đề không phải là nhanh gọn hay chậm rãi gà mờ, cuộc sống đang đòi hỏi chất lượng đỉnh cao, ông có đáp ứng được không? Đừng nhận khuyết điểm qua quýt vì trình độ em có hạn. Tin thời tiết bảo sắp có bão. Mẹ ơi, cho con về nhà. Con đái ra quần rồi. Địt mẹ thằng lang băm, bố mày yếu sinh lý mà mày còn cho cái thực đơn trinh nữ ướp sen thì chầu ông bà sớm à. Mày có biết liệu pháp tinh thần không? Cứ nhìn lên đỉnh núi thì thành trượng phu ngay.

6.

Khi chiếc tàu há mồm mở ra nuốt những người di cư vào Nam năm 1954, hắn còn bé như quả ớt. Thành phố Hải Phòng trong ký ức của hắn chỉ có tiếng còi tàu cắt ngang mặt nghĩa địa. Nhưng những xác chết dưới hầm mộ chỉ nhe răng cười cuộc xê dịch của con người. Chắc hẳn những xác chết cũng nhìn thấy hắn và tất cả những kẻ đang bước xuống tàu há mồm phải đi theo hàng một để nhân viên y tế xịt thuốc sát trùng lên người. Tuy bé xíu nhưng hắn cũng có đủ cảm thức về cái vô lý của nhân phẩm. Một xác chết có râu, đeo kính nói vào tai hắn: Những con chó có khi còn ít bọ chét hơn chúng mày. Cũng có thể, hắn vẫn thấy bà nội hắn bắt chấy bỏ vào miệng cắn. Nhưng một xác chết có khuôn mặt đàn bà nói: Sạch thì cũng có thoát chết được đâu. Hắn chẳng còn nhớ gì về chuyến đi ngoài chuyện ấy. Hắn cũng không biết có bị say sóng hay không. Có thể hắn đã ngủ suốt và khi tỉnh dậy, hắn nghe thấy tiếng mưa rơi trên cái lều bạt giữa rừng cao su bạt ngàn. Đối với hắn, chỉ có tiếng còi tàu và tiếng mưa mang âm sắc của sự sống. Mẹ hắn kể: Những người đi lính cho Pháp bảo phải đi vào Nam sớm, khi đất nước thống nhất rồi về. Mẹ hắn phân vân lắm, đấy là lúc đang buôn bán làm ăn được. Dầu hỏa gánh từ Hải Phòng về quê bao nhiêu bán cũng hết. Lại nữa, bia rượu, thuốc lá bán cho đám lính Tây lời lãi ngon lành như ăn trầu. Ý Chúa thì sao? Mẹ hắn quì trước hình Đức Mẹ cầu nguyện. Bức hình đột nhiên rơi xuống đất. Ngay ngày hôm sau, mẹ hắn gọi ông cậu đến giao giữ giùm căn nhà, rồi đưa cả gia đình xuống Hải Phòng. Mẹ hắn nghĩ, mang theo mấy chục cây vàng chắc cũng đủ tiêu trong vài ba năm để chờ các nhà chính trị giải quyết với nhau cái ý thức hệ. Nhưng cho đến khi căn nhà lá vách đất được dựng lên giữa rừng hoang vu Nam bộ thì hình ảnh quê nhà càng lúc càng xa. Mẹ hắn không bao giờ còn cơ hội trở về nữa, khi làn sóng di cư kế tiếp diễn ra vào những năm sau 1975 đến nước Mỹ xa xôi. Phần hắn, hắn muốn sống và chia sẻ cái số phận mình với số phận dân tộc (quả thật to tát và lãng mạn) như một ngọn cỏ mọc trên đất quê hương chịu dập vùi. Liệu pháp tinh thần của những ngọn cỏ là mọc nhanh và mọc nhiều, biết chết vẫn mọc, và có giết cũng không chết cho dù diệt cỏ người ta đã phải diệt tận gốc. Ở đâu có nắng mặt trời ở đấy có cỏ. Cỏ tự do và cỏ ca hát trên cái hiện sinh phù ảo. Hắn tự tìm cho mình những ý nghĩa bằng cách nghiền bột sách hòa với nước bơm thẳng vào máu. Định lượng chính xác của năm trăm hai mươi ba cuốn sách với tổng cộng mười một ngàn bảy trăm trang đạt chuẩn cho hắn trở thành con người văn hóa. Không đái đường, không ỉa bậy, biết đi thưa về trình. Cho đến năm ba mươi tuổi trên người hắn vẫn không mọc một sợi râu hay sợi lông nào. Hắn vẫn biết thích và thèm đàn bà, nhưng tuyệt nhiên cái con giun ngọ nguậy tầm phào của hắn chưa bao giờ xuất tinh dịch. Bởi thế, điều bí ẩn này trở thành một hấp lực kinh hoàng đối với tất cả mọi phụ nữ có cơ may làm tình với hắn. Hắn có thể kéo cưa hò xẻ cái dương vật đen đủi của hắn trong hố thẳm của khoái cảm cho đến khi người đàn bà kiệt sức mà vẫn cương cứng như một cây sắt. Bố hắn giục: Mày phải lấy vợ và đẻ con cho tao nhìn thấy cái dòng máu mình lưu chuyển. Sau nhiều lần quanh co rồi hắn cũng phải thú thật và xin lỗi tổ tiên rằng: Con lấy vợ thì được, nhưng đẻ con thì bất khả. Y học Tây phương chẳng có giá trị gì trong trường hợp của hắn. Gã lăng băm trên núi Tà Cú xuống xem mạch cho hắn, bảo: Khí huyết bất thường, cần phải uống thuốc lọc bỏ tạp chất trong máu và điều chỉnh chân khí. Lọc máu thì có thuốc của thày, nhưng điều chỉnh chân khí thì hắn phải tự làm lấy bằng phương pháp tự kỷ ám thị và tập dịch cân kinh. Ừ thì cứ thử xem. Mỗi tuần, hắn phải lên núi Tà Cú lấy thuốc và cho gã lang băm kiểm tra kinh mạch. Câu tự kỷ ám thị hắn phải lải nhải bất kể ngày đêm là “Tao là đàn ông, tao sinh ra đàn bà và tất cả lũ chúng mày”. Dịch cân kinh tập ngày hai lần, trước và sau khi ngủ. Trong giấc mơ, hắn luôn luôn thấy người mọc đầy lông lá và nhẩy nhót leo trèo như một con khỉ. Uống thuốc và tập luyện được một năm, từ mu bàn chân những sợi lông hướng thượng một cách bất thường mọc dần lên tới hai ống chân. Đến năm thứ hai, đột nhiên dưới vực đan điền và trong hai khe nách nở xòe những chùm lông màu vàng mượt óng ả. Hắn thử gần đàn bà, nhưng vẫn không thấy tinh dịch xuất. Sang năm thứ ba, khi hắn muốn bỏ cuộc thì cũng là lúc trên mép hắn mọc râu. Những sợi râu vừa đen vừa vàng xen kẽ nhau trông như cái hàng rào. Đến lúc ấy, chỉ cần nhìn thấy đàn bà hở hang là hắn đã vãi ra. Bởi thế , lúc nào hắn cũng đeo băng vệ sinh phụ nữ và không bao giờ bỏ áo trong quần.

7.
Những con quỉ cái nấp dưới gốc cây và quăng những chiếc áo lót cho người đi đường và bọn bán phim sex níu người ta lại. Giá rẻ anh Hai. Anh Hai thích Mỹ, Nhật hay Thái... Đen hay trắng? Con kinh bốc mùi khăm khẳm, tôi há mồm hớp một ngọn gió rồi khạc ra một búng máu.Trần gian chổng ngược hai chân để làm tình với bầu trời. Những người đàn bà vẫn bóp mũi tôi và bảo: Đừng ngửi cái mùi xú uế. Ôi mẹ ơi, con chết mất, xú uế thì cũng phải thở. Không, tao thà giết mày. Tôi cố vùng thoát, một mùi thối hơn cả chuột chết xộc đến. Tôi ọe ra. Cái mùi xú uế vẫn nằm trong bụng và nó thấm qua đường ruột vào máu. Tôi cảm thấy mình đang biến hình. Những kỳ quan của thế giới mỗi ngày một nhiều. Sự dị dạng của các nhân cách được nhân bản. Tôi muốn triển lãm tôi trên những ô gạch của đường đi. Những người đàn bà tát vào má tôi: Mày là đồ đê tiện, đểu cáng. Không khí bị nhiễm độc. Ngồi trên ngọn gió và địt trong mây, tôi vẫn còn đủ lãng mạn để sống cuộc đời này. Nhưng những người đàn bà nhất định giết tôi để giữ sự thanh danh cho thân xác. Tôi không thể trốn chạy. Thời gian mọc nấm trên người tôi. Những sợi lông hóa thạch như gai cứng đâm vào thịt, tôi nghe thấy tiếng của đám đông: Hãy treo nó lên.

5.12.2002






KHÔNG ĐẦU KHÔNG CUỐI

Cô gái bồn chồn khép cánh cửa. Ánh sáng chiếu vào hai bàn tay cập rập. Tiếng ổ khóa kêu cách. Cô quay lưng lại căn nhà rồi bước ra đường. Trước đó gần ba thế kỷ, Sơn ông chống gậy tích trượng đứng trước ngọn núi ở phía Đông Bắc thành Quy Nhơn nhìn đá rừng rồi bất chợt quăng cây tích trượng xuống dòng suối. Sơn ông dựng ở đó một cái am, chơi bời với hổ báo hươu nai. Một trăm năm sau, cây gậy tích trượng trôi xuống đồng bằng và qua tay nhiều người. Nhưng cũng có truyền thuyết cho rằng cây gậy ấy đã biến thành rắn ngay khi Sơn ông vất nó xuống nước. Đối diện với căn nhà của cô gái là một người đàn ông chưa già lắm, nhưng đã phải chống gậy. Ông ta đang đứng trên lề đường và chống cây tích trượng của vị thiền sư năm xưa nhìn cô gái hàng xóm của mình. Cây gậy truyền đến tay ông ta thì đã mòn vẹt chỉ còn một nửa và có hình thù kỳ dị. Cô gái bước ngang bóng ông ta đổ xuống đường và nối hai cái bóng lại với nhau thành một khoảng đen dài tới bụi cây bên kia đường. Trong bụi cây ấy, con rắn ngóc đầu lên khè cái lưỡi nhọn có hai nhánh về phía cô gái. Cây gậy trong tay ông ta lắc lư. Người đàn ông nhìn thấy bộ ngực cô gái rung động và ông thầm muốn ngủ với cô ta. Cô gái biết cái nhìn của người đàn ông đậu trên ngực mình. Nhưng cô không quan tâm. Tất cả mọi đàn ông đều nhìn cô như thế trừ ông sư ở ngôi chùa bên cạnh. Hiếu Ninh hoàng đế, tức Túc tông, chúa thứ bảy đời Nguyễn nghe được những lời ca tụng về Sơn ông bèn cho tên hiệu là Tịnh Giác thiện trì đại lão thiền sư và đặt tên chùa là Linh Phong thiền tự. Đại lão thiền sư đã biết trước việc dấy nghiệp của anh em nhà Tây Sơn trên mảnh đất ngài đang ngồi như một mẫu mực cho sự nổi loạn, tham vọng cá nhân và những xung đột rộng lớn hơn của con người trong các hệ tư tưởng khác nhau, nhưng ngoài cuộc vui chơi với muông thú, ngài chỉ dốc tâm vào việc chú giải kinh Pháp Hoa. Cô gái đi qua cổng chùa trong lúc vị đại đức đang tưới cây. Thày ơi xin hãy tưới lên em để linh hồn em được ẩm ướt nẩy mầm và cửa mình em tràn trề nước nôi cho rộng đường dư luận. Mặt đại đức vẫn rất mực trang nghiêm cúi chào cô khi cô lên tiếng chào thày buổi sáng. Người đàn ông quơ cây gậy vu vơ về phía con rắn nói tôi chỉ muốn được chào em mỗi buổi tối. Fuck night. Con rắn bò vào trong chùa. Cô gái đi tới ngã tư và ngồi lên chiếc xe ôm quen thuộc. Khi cô gái đến chỗ hẹn thì người tình của cô đã có mặt. Anh đang uống dở ly cà phê đen. Anh ta hoàn toàn có vẻ tự tin và bình thản. Nhìn anh, người ta có thể đoán biết anh là người thành đạt.
Em ngồi đi. Anh ta nói.
Cô gái ngồi xuống. Tuy không cảm thấy thoải mái nhưng cô vẫn kêu cho mình một ly sữa tươi.
Sao em không mang đồ theo?
Em nghĩ chuyện mang đồ để sau cũng được. Em muốn biết trước chỗ mình sẽ tới.
Anh tin rằng em sẽ hài lòng.
Họ lên xe taxi. Cô gái nắm tay người đàn ông đưa lên miệng hôn.
Anh sẽ làm cho em hạnh phúc chứ?
Còn hơn thế nữa. Anh ta cười.
Cô gái gục đầu vào ngực người đàn ông. Cô nghĩ rằng cô đã quyết định đúng khi bằng lòng lời đề nghị về làm vợ bé anh ta.
Xuống đi em.
Ông già chống gậy gõ xuống mặt đường những tiếng khô rỗng. Bước chân của ông trùng khớp với tiếng gậy. Ông đi ngang ngôi chùa nhưng không nhìn vào. Vị đại đức vẫn loay hoay với mấy chậu kiểng. Mỗi tiếng gậy của ông già lại tạo nên một tiếng nấc trong cổ vị đại đức và một bước phóng mình nơi con rắn. Chung cư tối tăm và có mùi hôi của rác của những bao cao su bầy nhầy tinh trùng. Người đàn ông nói với cô gái khi mở cửa căn phòng trên lầu ba:
Ở đây rất an toàn.
Đèn sáng. Cô gái nhìn lướt qua chiếc giường có nệm dày. Một cái bàn trên ấy đặt chiếc tivi 16-inch. Một tủ đứng treo quần áo.
Còn thiếu cái tủ lạnh. Cô gái nói.
Người đàn ông không nói gì. Anh ta đưa tay quàng vai cô gái và dìu vào phòng sau. Ở đó có sẵn một bếp gas, một tủ lạnh.
Còn thiếu vài thứ linh tinh anh sẽ đi mua với em. Anh ta nói nhẹ nhàng. Và rồi anh ta bế cô gái đặt ngồi lên kệ bếp, tụt quần cô ta xuống.
Món em là sự sống.
Trong cảnh giới của quá khứ, đại lão thiền sư Tịnh Giác đang ngồi khắc cái ấn Thạch trung kiến ngã. Còn vị đại đức trẻ trong một nỗi hân hoan khác thường nhìn thấy cây cối trổ hết lá thì niệm Nam mô a di đà Phật. Ông già chống gậy bước vào quán cô Ba bảo cho tui một xị rượu và mỹ nữ. Ở thì tương lai, con rắn vắt mình trên cửa sổ nhìn vào đôi vú trắng của cô gái. Cô Ba gọi vào trong: Bay đâu? Một cô gái đẫy đà da thịt bước ra. Nhìn thấy ông già chống gậy, cô reo lên: Anh Năm mới tới. Rồi cô lại bước vào trong cầm ra chai Black and White đang uống dở. Mỹ nữ bảo em đói anh kêu cái gì ăn nghe? Anh Năm gật đầu nói kêu đi. Trong một giây xao động, cái đục nhọn đâm vào tay thiền sư Tịnh Giác, máu tóe ra. Tiếng thở hổn hển của cô gái trên kệ bếp vang lừng ba ngàn thế giới. Vị đại đức trẻ nhắm mắt lại, tiếng niệm của thày đứt quãng. Cô gái trổ hết xuân. Ông già chống gậy mắc nghẹn vội hớp một ngụm rượu. Con rắn mọc thêm một chân. Cận cảnh người đàn ông trung niên mồ hôi lấm tấm.
Em sướng. Cô gái trên kệ bếp nói trong lúc người đàn ông đang súc miệng. Cô nói tiếp:
Anh ở lại với em đến chiều chứ?
Không, anh phải đi làm bây giờ.
Cô gái còn lại một mình trong căn phòng mới. Cô đi tới chiếc giường và nằm vật xuống. Chỉ được một lúc cô lại nôn nao ngồi dậy. Cô bật tivi. Một bài hát quen thuộc vang lên. Cô hát theo và bước tới bên chiếc tủ, mở một cánh cửa ra nhìn. Không có gì ngoài cái mùi hôi của keo dán. Bước tiếp vào phòng trong, cô mở cánh cửa tủ lạnh. Trống trơn. Cô gọi điện thoại cho anh bảo chiều nay đến đón cô đi sắm vài thứ lặt vặt. Anh bảo ngày mai.
Ngày mai thì Tịnh Giác thiền sư đã viên tịch. Sau này, Hiệp biện đại học sĩ Vinh quang tử Đào Tấn đã lên núi tìm cổ tích thấy được một bộ tạng Pháp Hoa kinh giải và bảy cái ấn triện bằng ngọc thạch của đại lão thiền sư. Cây tích trượng bấy giờ nằm trong tay Đào Tấn. Quan bảo tâm đã trụ thì cần chi gậy. Nói xong ông trao cây gậy lại cho nhà chùa và dặn dò chư tăng Linh Phong thiền tự gìn giữ cẩn thận di vật của người quá cố. Cây gậy ấy không một vị tăng nào cầm lên nổi, nhưng một đêm nọ có kẻ ăn mày vào chùa đã cầm nó đi làm cây gậy đánh chó.
Người đàn ông trung niên hỏi cô vợ bé:
Chợ Bình Tây, chợ An Đông, chợ Dân Sinh, chợ Bến Thành, em thích đi chợ nào?
Em thích vào siêu thị.
Ở quán cô Ba, mỹ nữ ôm cổ ông già chống gậy thỏ thẻ:
Anh mua cho em cái váy.
Vào chợ Bà Chiểu nhé.
Không, mua ở shop cơ.
Anh em nhà Tây Sơn đã dấy nghĩa lâu rồi và tiêu tùng cũng đã lâu rồi. Khi Nguyễn Huệ cho quân bao vây thành Qui Nhơn của Trung ương hoàng đế Nguyễn Nhạc thì hai trăm năm sau vị đại đức cầm lòng không đặng, ứa nước mắt. Sự lụi tàn của thế giới mang tính nội tại. Hôm nay vú em quả mận, ngày mai vú em quả mướp. Ông già chống gậy hỏi mỹ nữ:
Em quả mận hay quả mướp?
Mỹ nữ cầm tay ông già nhét vào trong áo mình, hỏi lại:
Quả gì?
Quả vú.
Tịnh Giác thiền sư bảo như thế là ngộ. Hiếu Vũ hoàng đế (chúa thứ tám nhà Nguyễn) nghe thích lắm bèn xuống sắc cho triệu Tịnh Giác thiền sư tới bàn lý luận đạo Phật gần một tháng. Khi Tịnh Giác ra về có quà cáp trọng thể. Người đàn ông trung niên ở với cô vợ bé được hơn ba tháng thì bỏ vì cô luôn qui hạnh phúc ra tiền. Cô vợ bé trở lại quán cô Ba ôm những người đàn ông khác. Cô nói trung thành là ngu dốt. Hoài niệm quá khứ là rởm đời. Người đàn ông nào cho cô nhiều tiền thì cô xưng tụng là hoàng đế. Kẻ làm cho cô sướng cô gọi là thiên tài. Hoàng đế và thiên tài cùng cưỡi trên người cô. Riêng cô, cô không biết gọi mình là gì. Đứa nào bảo cô làm đĩ cô tát cho vỡ mồm. Chiều nay, đại đức đánh chuông. Ánh sáng cuối ngày mờ nhạt, tiếng chuông ngân đến quán cô Ba. Anh Năm vẫn đang uống dở chai rượu. Mỹ nữ ngồi ngáp dài. Hiệp biện đại học sĩ Lương Khê Phan Thanh Giản hạ bút viết:"Tọa khán hải vân sinh". Tịnh Giác thiền sư cười bảo: Nghệ thuật thư pháp của ông kiếm ăn được, treo ấn từ quan đi. Phan Thanh Giản thở dài: Tôi đã có sẵn độc dược và di chúc cho con cháu cấm làm quan, tuy nhiên cần phải ký mấy cái hòa ước cho nó xong vai trò lịch sử đã chọn.
Người đàn ông trung niên bước vào quán cô Ba, hỏi:
Có em nào mới không?
Lúc nào cũng sẵn sàng phục vụ anh. Hàng din.
Bảo đảm không?
Chính mẹ nó giao hàng.
Mẹ nó thì cũng chắc gì bảo đảm được.
Quỉ cũng không dám lừa em.
Người đàn ông trung niên bất chợt hỏi:
Có anh Năm ở đây không?
Anh Năm đang ngồi bên trên.
Bảo anh ấy cho anh gặp.
Cô Ba đứng dậy bước lên cầu thang.
Ở Linh Phong thiền tự có kẻ trốn vợ bỏ con xin quét chùa làm công quả. Một hôm tình cờ nhìn thấy vị sư già lau chùi những cái ấn ngọc, hắn rắp tâm lấy cắp. Phan Thanh Giản nói với Tịnh Giác: Không thể thay đổi dòng chảy lịch sử, đấy là tất cả những gì tôi trải nghiệm được. Cô Ba đã quay trở lại và nói với người đàn ông trung niên:
Anh Năm mời anh lên.
Người đàn ông mở cặp lấy ra một túi vải màu đỏ, đặt lên bàn.
Anh Năm xem đi.
Ông già chống gậy mở túi móc ra sáu cái ấn ngọc, mân mê xem kỹ từng cái. Ông nói:
Thiếu cái Thạch trung kiến ngã.
Em thua.
Chú tìm được thêm cái ấy thì hòa ước năm Nhâm Tuất 1862 Phan Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp ký dành cho chú.
Không biết từ bao giờ, con rắn đã quấn vào cây gậy của ông già và trong một cái mổ nhẹ, cây gậy trở nên mềm nhũn quấn ngược vào con rắn. Trước bốn con mắt kinh hoàng của hai người đàn ông, con rắn và cây gậy từ từ tan biến. Cô gái quay trở lại và tốc váy ngồi đè lên sáu cái ấn ngọc.
Em đây.

6.7.2003






CHUNG QUANH LÀ BIỂN

1.
Để tìm một con đường sống, không có cách nào khác là cứ đi về phía trước. Ông Môise đã làm thế. Thị Mầu cũng đã làm thế. Trong giấc mơ của con người, những thợ gặt rời khỏi cánh đồng, những ngư dân bỏ tàu thuyền, và họ đi về phía vô định. Tôi cũng đã đứng lên và đi. Tự nhủ, ít nhất thì mình cũng đã đi. Tôi nghe thấy tiếng sóng vỗ dưới những chiếc lá mục. Những con sâu cũng đã giãn mình ra và bò đi. Những người đàn bà gồng gánh thời gian trong hõm mắt và bỏ lại tiếng cười, họ bấu chân xuống đất, bước. Tôi nghe thấy tiếng sóng vỗ dưới những viên sỏi. Bu nó đâu rồi nhỉ? Thằng Cu, cái Nhớn, cái Bé vẫn còn ngủ ư? Đánh thức chúng nó dậy và bảo rằng nước đang lên. Cơn lũ từ tương lai sẽ đổ về quá khứ. Những ông thánh không biết bơi sẽ phải chết chìm. Ánh sáng không ở cuối đường hầm. Có những người đã chạy nhanh hơn tôi, họ vượt lên và bám vào các cành cây, như thể nếu mặt đất rung chuyển thì họ sẽ thoát. Tự tại là gì? Ngồi xuống và thiền à? Vấn đề là biết cách hít thở phải không? Đừng để máu nóng dồn lên mặt. Nhắm mắt mà đưa chân. Quá khứ là một cái hố càng lúc càng sâu, các đấng thánh phải kê thêm bệ. Giữa lúc ấy gã mặt sắt xuất hiện, hắn nói: Bình an cho các ngươi. Có người hỏi: Ông có thật không? Gã mặt sắt nói: Hỡi kẻ thiếu lòng tin kia, cứ tát thử vào má ta xem. Bố tôi còn sống cũng chẳng dám thử. Tôi tự nghĩ, đã đến lúc có thể ngồi. Người bên cạnh tôi bảo: Đừng ngồi, bạn sẽ không đứng lên lại được. Tôi như người đàn bà mắc đẻ. Nằm ngửa nhìn trời. Một sinh hai, hai sinh bốn, bốn sinh tám. Biện chứng pháp dịch học là tôi ước có một cô gái mặc váy đi qua. Thẩm mỹ học thượng thừa là cô gái ngồi xuống phủ chùng thân phận tôi. Thích nghi là khả năng tồn tại của loài giống ưu việt. Con cứ hít thở cho sướng đi nhé.
Từ phía núi, đám quan quân xuất hiện. Tất cả họ đều đi vòng kiềng. Trong ba lô của họ, ngoài thuốc sát trùng còn có mặt nạ chống hơi độc. Họ bảo vũ khí nguy hiểm nhất là những cái mồm thối. Tôi, Chu Văn An có ý kiến. Đồng chí cứ nói. Tôi đề xuất chém đầu bảy kẻ nịnh thần. Đồng chí thử nghĩ xem, có cái gì sướng hơn được nịnh? Đề nghị đồng chí rút lại ý kiến. Nếu không thực hiện đề xuất ấy tôi xin từ quan. Cám ơn đồng chí, chúc đồng chí thượng lộ bình an. Chu Văn An về nhà phụ vợ bán thịt chó ở đầu ngõ. Cái Nhớn, cái Bé xót xa bố mẹ nghèo đi làm mát-xa tận Hà Khẩu, Trung Quốc. Chúng nó bảo bọn đàn ông Trung Quốc dai lắm. Mát-xa mỏi cả tay mà vẫn không chịu ra. Hình như bọn chúng đeo đồ giả. Tôi bảo, nghi binh đấy. Chúng nó nói, sờ bằng tay, thử bằng lưỡi, co giật bần bật mà hùng tráng như cột cờ. Tôi bảo, chúng mày không làm chính trị, chúng mày không biết thế nào là lộng giả thành chân. Bọn chúng nói không cần biết chuyện ấy, chỉ cần bạc thật.
Tôi hỏi một người trong đám quan quân: Các bác đi đâu đấy? Chúng tôi đi cứu nước. Đất nước đang thanh bình cơ mà? Hắn chỉ vào tay áo, tôi đọc thấy dòng chữ thêu đỏ thắm: “Cư an tư nguy”. À, thì ra thế. Thành Cát Tư Hãn trước khi chết, miệng lẩm bẩm: Anh hùng… anh hùng… Tôi, trước khi chết, miệng bập… bập… chùn chụt… Song trùng nhị bội. Tê tái quan san. Trùng dương hội ngộ. Đám quan quân vẫn nối bước đi qua. Tôi lại hỏi một người trong số họ: Các bác là chiến sĩ hay liệt sĩ? Liệt sĩ. Tổ quốc ghi công rồi, sao các bác không an nghỉ? Họ cười như thể tôi là thằng ngu. Dù thế, tôi vẫn tò mò tọc mạch, hỏi:Tại sao các bác phải đi vòng kiềng? Chuyện này không nói được.
Tôi nhớ lần đầu mắc bệnh lậu, cũng đi vòng kiềng như thế, nhưng tất nhiên, không thể suy chuyện mình ra chuyện người. Khổng Tử bảo kính nhi viễn chi. Các đấng thánh buồn ngủ. Ngũ Tử Tư vội vàng dâng gái đẹp. Thánh mà ngủ thì còn đâu cương thường. Một đồng chí cán bộ kiểm tục nói với tôi: Hãy bảo trọng giữ thân mình, sống để còn viết. Hóa ra, tôi cũng quan trọng hơn mình tưởng. Đồng chí cán bộ còn nói: Văn ông dự thi được đấy. Văn tôi không giống văn mẫu thì lấy tiêu chuẩn nào để chấm? Đúng là ông ngu thật, văn là người, mà người thì đứa nào đẹp đứa ấy thắng, biết chửa. Thưa anh, em bụng ỏng đít teo.
Ngu thì nghe anh mày dạy này:
Phàm con người ta muốn thành đạt thì phải biết mình biết người, biết trên biết dưới. Trên là thiên cơ, dưới là địa lý. Tất cả các quan xây nhà đều có cửa hậu, theo phong thủy Tả Ao. Nếu cậu biết mình là ai, làm việc gì, thì cũng phải biết vào cửa nào cho đúng với danh phận mình. Có phải cậu viết để phục vụ nhân dân không?
Bỏ mẹ. Xin lỗi nhân dân. Viết chỉ là một hành động thủ dâm. Tôi viết bởi sự thúc đẩy tự sát.
Ông Chu Văn An gõ đầu trẻ con hàng xóm, dạy: “Thời lai đồ điếu thành công dị”. Đứa nào ý kiến ý cò đuổi về chăn trâu. Tôi, ngày xưa đi chăn dê dưới chân núi Ma Thiên Lãnh, thích cách ăn tạp của dê, thích tiếng dê kêu. Chiều đến, dê chăn tôi và đưa tôi về. Bố tôi bảo thái độ bông phèng là một dấu ấn của nô lệ, tao đã cho mày tự do, sao không tự do? Bố ơi, con đã hỏi các bác liệt sĩ rồi, các bác ấy bảo, sau cái chết cũng không tự do.
Từ ngày tôi thất nghiệp, thằng Cu bỏ học, nó bảo để con tự lo, đi theo bạn bè. Tôi bớt được một gánh nặng cơm áo mà lòng đau như cắt. Một gánh nặng khác đè trên vai tôi, có lúc tưởng chừng không chịu nổi. Tôi nghiệm ra một điều, người ta thực sự chỉ sống vì những điều hết sức nhỏ nhặt. Lộng ngôn là mặt trái của sự bi phẫn, tôi thích nghe những người đến ăn thịt chó ở quán vợ chồng tôi chửi tục. Họ chửi từ trên xuống dưới. Khi uống rượu, họ không sợ đi tù. Những lúc ấy, họ là người thông minh nhất. Bố tôi bảo đấy cũng là thái độ của người nô lệ.
Bố ông là ai mà lúc nào cũng ra vẻ minh triết thế? Trước hết đấy là người đẻ ra tôi. Sau hết đấy là người cõi trên. Mỗi lần muốn nghe ông ấy nói, tôi phải thắp nhang, khấn người về. Người về, tóc tai dựng đứng, mắt tóe hào quang, sắc diện bừng bừng. Phán:
Bố của con đây, từ khởi nguyên đến tận thế, nói và không nói, nghe và không nghe, sự thật và giả dối. Nhập.
Con phải làm gì để sống?
Hứ.
Con phải làm gì để được yên ổn?
Hứ.
Con phải làm gì để không sợ hãi?
Hứ.
Bố của con đây, từ khởi nguyên đến tận thế, nói và không nói, nghe và không nghe, sự thật và giả dối. Xuất.

2.
Đầu tiên, tôi thấy cái bàn rung chuyển. Cốc nước sóng sánh rồi nghiêng đổ. Sau mấy vòng lăn, cốc nước rơi xuống đất, vỡ toang, để lại một tiếng kêu tiếp tục rung mãi trong không khí. Những cuốn sách trên kệ cũng từ từ đổ xuống. Trong chốc lát, cả nền nhà bừa bộn giấy và những mảnh thủy tinh. Từ bên ngoài, khói chui vào qua những khe cửa. Nhưng chỉ một lúc, tôi nhận biết đó không phải là khói. Cũng không phải sương mù. Nó là mây. Rồi cả căn phòng bồng bềnh rung chuyển. Tiếng gió rít. Tôi chợt nghĩ, chẳng lẽ căn phòng đã trôi ra biển?
Con quỉ vào nhà, nó nói: Em được sinh ra cho anh. Rồi nó cởi quần áo. Tôi vẫn ngồi trên chiếc ghế xoay trước bàn máy vi tính, nhìn nó bước tới. Mái tóc nhuộm vàng để dài che ngang phần ngực. Chùm lông bên dưới cũng hơi vàng. Ánh sáng trên tường đổ xuống làm những sợi lông măng của nó óng ánh. Con thú vàng. Ánh mắt trắng. Hơi thở xanh. Mùi da đỏ. Nó ôm tôi vòng qua lưng ghế. Mọi cố gắng của anh đều vô nghĩa, nó nói, anh không thể chạy thoát khỏi chính anh.
Tôi bị hiếp.
Nước đã bắt đầu tràn vào nhà. Những quyển sách mỏng nổi lên, lều phều. Tôi bảo, coi chừng những mảnh thủy tinh đâm vào chân. Nó nói, không sao. Tôi nghĩ nó không có máu. Đấy là một thân thể được làm bằng sáp ong. Ngọt nhưng không có linh hồn. Nó nói: Anh cũng không có linh hồn. Tôi bảo linh hồn tôi bị quỉ bắt rồi. Không phải, nó nói, anh không có linh hồn. Vì sao? Đơn giản là chưa bao giờ anh có linh hồn.
Nước đã lên cao tới gần mặt ghế. Tôi bắc ghế lên bàn, rồi leo lên đó ngồi. Con quỉ cũng lên bàn. Nó ngồi vuốt những sợi lông chân. Trong một khoảnh khắc thấu thị, tôi nhìn thấy con quỉ trong suốt. Phía bên trong nó rỗng không giống như một quả bóng bơm đầy hơi. Nó nói: Cái rỗng không là linh hồn. Tôi buồn bã hút thuốc. Những quyển sách bị thấm nước đã chìm cả xuống. Tôi cũng đầy đặc nước. Và tôi biết rằng, chẳng bao lâu nữa, tôi cũng sẽ chìm xuống.
Linh hồn tôi mặc một chiếc áo bằng giấy đỏ. Tà áo viền hoa văn những cây thập tự. Con quỉ dẫn tôi xuống một đường hầm càng lúc càng sâu. Con đường được soi sáng bởi những con mắt cú vọ.
Tôi nhìn thấy rất đông người. Họ tìm cách với lấy nhau, nhưng cánh tay của họ không bao giờ chạm tới người khác. Tôi có cảm giác tiếng kêu của họ đã vượt quá giới hạn của âm thanh thông thường. Khuôn mặt và cánh tay của họ não nề không chịu nổi, tôi bước đến cạnh họ và chọc vào giữa bụng họ bằng một con dao nhọn. Thân thể họ xì hơi và rũ liệt như một đống rẻ rách. Tôi nói: Họ cũng không có linh hồn.
Bất giác tôi buồn ngủ.
Anh sẽ không bao giờ ngủ được, cả đến khi dốc hết tinh trùng xuống lỗ cống.

3.
Dường như ký ức tôi đã đảo lộn những sự kiện. Tôi không còn khái niệm về không gian và thời gian. Thực và ảo. Nhưng tôi biết chắc chắn tôi đang ngồi ở quán nước. Nhìn xéo, tôi thấy người đàn bà trẻ ngồi ở chiếc bàn bên cạnh có bộ ngực rất hỗn, chứng tỏ một nữ quyền lịch lãm. Người đàn bà nói: Em phải về cho con bú. Hôm nào em lại đến? Em sẽ gọi cho anh.
Thằng nhỏ (hay con nhỏ) chờ sữa. Tôi mường tượng cái miệng thằng nhỏ há ra như cái mỏ chim.
Người đàn bà đứng lên, thản nhiên xốc lại bộ ngực. Tôi tưởng tượng tôi bú bầu sữa ấy. Người đàn ông thòm thèm. Họ rời quán.
Đồng chí kiểm tục bắt tay tôi. Anh khỏe không? Cám ơn, khỏe. Anh còn viết không? Nhờ hơi hướng đàn bà, tôi vẫn viết.
Tôi tưởng tượng câu chuyện sẽ tiếp diễn thế này:
Anh có âm mưu chống đàn bà không?
Tôi lúc nào cũng có ý thức chống đàn bà.
Vì sao?
Đấy là mộ huyệt.
Thực ra, tôi rất thích cảm giác dậm hai chân xuống mộ. Chôn một cái gì đó. Xóa sổ một điều gì đó. Đập vỡ một cái gì đó. Đấy chính là lý do tôi đâm đầu vào việc viết lách.
Tôi hỏi đồng chí kiểm tục:
Anh có thấy người đàn bà vừa ra khỏi quán không?
Có.
Tôi lại tưởng tượng: Hắn ngồi trước màn hình máy vi tính, dán mắt vào những cảnh làm tình thu được qua những ống kính cài đặt ở phòng ngủ của các khách sạn, nhà trọ - khu vực hắn phụ trách. Dương vật dựng đứng. Hắn ghi nhận mọi biến thái vượt quá qui phạm của tính nhân dân.
Tôi bảo tôi phải đi theo người đàn bà ấy để chào người đồng chí thân thiết.
Cho tới bây giờ, tôi biết chắc rằng tôi không phải Chu Văn An. Bố tôi không phải người cõi trên. Cái Nhớn, cái Bé, thằng Cu không có thật. Một mình tôi bước trên hè phố theo sau cặp mông người đàn bà lắc, nghĩ về tính nhân dân và thật sự muốn văng tục. Tôi cảm thấy cần phải đổ vào thân xác rỗng không của mình một cái gì đấy. Con quỉ hiện ra bảo: Hãy đổ em vào anh. Nhưng tôi biết rằng, tôi chỉ có thể tìm được sự bình an sau khi giết nó. Con quỉ bảo: Không bao giờ anh giết được em. Bỗng nhiên tôi đốn ngộ. Tôi chỉ có thể giết được tôi. Và tôi nghĩ ra một cái tựa truyện: Chung quanh là biển.

15.10.2003






CHẾT KHÔNG NHẮM MẮT

Sau một tiếng nấc nghẹn, tôi chết. Không kịp sợ hãi. Lẽ ra, tôi cần chuẩn bị cho chuyện này bằng những sám hối và việc làm từ thiện như tất cả bọn ác đang làm để lương tâm thanh thản, nhưng tôi tự cho rằng mình chẳng có lý do gì để chuộc lỗi, cũng như trách nhiệm với những bất hạnh của người khác. Tuy một đôi khi tôi vẫn nói với Chúa của mình, con không chịu nổi sự bất công và nếu có thể được con xin gánh mọi đau thương của nhân loại. Quả thật cũng chẳng có gì đáng sợ hãi. Giống như sự buông xả, mọi thứ trong cơ thể tôi từ từ lịm xuống và tắt hẳn. Tôi thoát ra và nhìn lại cái xác xa lạ. Đấy là tôi hay chỗ tôi trú ngụ thật không có nghĩa gì. Dẫu sao tôi vẫn phải ngồi chờ cho xong việc hậu sự. Người đàn bà thỉnh thoảng mua đồ ăn cho tôi giờ này chắc còn ngủ. Mới hai giờ sáng. Trên máy vi tính những chiếc vòng tròn chạy qua chạy lại giấu trong nó những giòng chữ rất vu vơ “cái chết là cách vượt qua giới hạn của thời gian”. Tôi đã linh cảm thấy cái chết của mình nơi những giòng chữ ấy và cùng lúc từ đáy vực lòng tôi dâng lên ngọn triều ham muốn tắc nghẽn trong cổ họng. Bất định và nôn nóng. Một tay còn cầm chặt con chuột, một tay thõng xuống đất và đầu thì gục trên bàn phím, trông tôi thảm hại như một gã say xỉn bỏ quên những thanh âm ở một cõi khác. Tôi bước tới cửa sổ và nhìn ra ngoài. Trời vẫn tối. Tôi nghe gió thổi qua người và cảm thấy sự trống không của mình. Rồi tôi sẽ phải làm gì với cái trống không ấy? Một nỗi buồn bã chưa từng thấy tràn ngập tôi. Liệu tôi và cái mênh mông trống không ngoài kia có hòa nhập vào nhau hay tôi vẫn chỉ là tôi bé mọn với cái ý thức trống không quạnh quẽ? Ở đâu đó dấy lên tiếng lao xao, nhưng tôi không cảm thấy mình được chờ đợi. Rồi tôi nghe thấy xa vời gọi tên mình. Sau đó im lặng kín đặc. Một cơn rung nhẹ của không gian thoảng qua. Tôi không muốn nghe ngóng gì ngoài chính tôi. Cái xác bất động, tôi nhìn thấy nó ngoài mình không như tấm gương soi với một chút ngờ vực về sự tồn hữu. Một cái tôi toàn thể thực sự ở đâu chợt trở nên bí ẩn. Rõ ràng là cái chết không giải đáp điều gì ngoài một khả thể mơ hồ trong thời gian. Một vài con muỗi đậu trên mặt cái xác rồi vội vàng bay đi để lại tiếng đập cánh dập dồn trên linh hồn tôi. Tiếng cựa mình của đôi trai gái trong căn nhà bên cạnh. Có lẽ sắp tới giờ gã trai đuổi cô gái về. Thỉnh thoảng gã vẫn mang gái về nhà và tống ra khỏi cửa trước khi trời sáng. Tôi đã nhìn thấy mặt cô gái đêm qua với một vết bớt trên má trái, dáng đi lùi lũi trốn ánh đèn, lúc ấy tôi cũng đang đứng ở cửa sổ. Cô ta nhìn nghiêng về phía tôi, đôi mắt tinh nghịch gieo một hẹn hò. Tôi nghe thấy tiếng càu nhàu của cô gái, cho em thêm đi anh, tiếng gã trai nạt nộ, biến đi, sau đó là tiếng cánh cửa mở rất nhẹ, cô gái lách ra. Đến trước cửa sổ phòng tôi, cô gái đứng lại. Tôi ngửi thấy mùi da thịt của cô ta. Tôi cũng nhìn thấy cái xác của mình trong mắt cô ta. Hình như cô ta muốn gọi tôi. Nhưng sau đó bất ngờ cô ta bỏ chạy. Tiếng chó sủa rộ lên một lúc rồi từ từ im bặt. Xóm vắng tanh. Ánh đèn vàng trên cây cột điện đầu ngõ quanh hắt đổ một bóng cây trông giống như con bò nằm ngủ giữa đường. Tôi thật sự cảm thấy khó rời bỏ cái xác mình. Cô gái bảo ngày nào em cũng coi phim sex. Một mình. Thoải mái. Buông thả. Tự mơn trớn. Không coi không ngủ được. Có anh, khỏi phải xem phim. Tôi lật úp cô gái vỗ mạnh vào mông. Đồ đĩ thõa. Cô gái cười sằng sặc. Đàn ông chơi đĩ gọi là gì? Và cô chổng mông lên. Dường như tôi đã quên rất nhiều điều. Thế giới cùn mòn từ trong cảm giác. Sự cứu vớt của thơ ngây trên làn da đồi mồi chỉ là điềm bất tường về cơn cớ tồn vong. Cô gái mang vết bớt trên má bị bắt sau ba ngày nhìn thấy tôi chết. Anh cho em làm vợ bé được không. Chuyện nhỏ. Hãy mang em đi. Anh không có nơi để đến. Em không cần gì ngoài tình yêu của anh. Điều ấy anh lại không có. Sự phiền lụy là một cảm giác bất an. Tôi đứng dậy kéo dây kéo quần và thoát ra khỏi sự bức xúc tình dục. Cô diễn viên đã chia mất của tôi căn nhà do ông cố tổ để lại sau lần ly dị thứ nhất. Tôi không chịu nổi đàn bà lắm mồm và hay kể công, đành bỏ của chạy lấy người. Đến lần ly dị thứ hai, tôi mất hết tiền của trong ngân hàng bởi một mụ vợ ghen tuông độc đoán và trở thành kẻ vô sản chuyên chính cũng chỉ vì không muốn phải giải thích các hành động của mình. Tự do là cái giá treo cổ. Cứ phải định nghĩa các khái niệm là một tình trạng bất ổn của các giá trị. Tôi chui vào cái ổ chuột và rúc rích trên máy tính truy đuổi ngữ nghĩa của cuộc sống trên các bao mì gói, cà phê ba trong một và cuộn giấy vệ sinh. Cao trào của nghệ thuật thư pháp tôi dán trên bồn cầu đại tự hứng. Trên trần nhà trung tự tụt. Và trước cửa tiểu tự tùy. Thập phương gái đĩ hỏi: Thày bán chữ ăn tiền à? Thưa quí tòa, em không biết. Cô vợ diễn viên bảo: Cứ tới giờ em muốn ngủ thì anh thức. Mả mẹ cái nghệ thuật. Bị cáo có tự bào chữa không? Thưa quí tòa, em điếc. Mụ vợ hai nói: Em căm thù những nhân vật nữ của anh. Bị cáo có muốn nói lời sau cùng không? Thưa quí tòa, cho phép em đi toa lét. Trời sáng dần. Những hạt bụi đã bắt đầu bốc lên từ những bước chân cuốc xuống lòng đường. Một sự lập lại nhàm chán trong các động tác của con người. Những người phải đi kiếm ăn sớm thường có dáng vẻ lầm lũi. Họ sống như trả nợ. Tôi vẫn thích những tinh mơ đầu ngày với cốc cà phê nóng. Cô gái bán vé số dong dỏng mình dây xà vào bàn uống ké một miếng trà. Trúng số anh mua nhà cho em ở. Ngủ với anh không? Những niềm vui nhỏ lấp lánh trong mắt. Người đàn bà quì xuống nói ông cho tôi xin mười ngàn, con tôi nằm nhà thương. Con bà vì sao phải nằm nhà thương? Dạ, nó động kinh vì thất tình. Thế thì con bà là một động vật quí hiếm, cần phải đưa vào sách đỏ. Xin giúp bà hai mươi nghìn cho cậu ấy uống sữa góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Cầm tiền xong người đàn bà đứng dậy tung tăng bước đi và hôn tờ giấy bạc. Bà lão bán cà phê bảo ông bị nó lừa rồi. Sao bà không cho tôi biết trước? Chuyện làm ăn của người ta làm sao tôi nói được. Bị cáo vẫn bảo lưu lập trường của mình? Thưa, vâng. Trần gian đôi khi xảo trá, người muốn ở lại để thương vay khóc mướn cái trinh bạch của lỗ rốn. Chợ chữ xô bồ các nhà văn nhà báo với các món hàng giả. Chỉ có bia rượu là thật. Anh là nguồn sáng tạo của em. Ối giời, chữ nghĩa là của thánh hiền. Ch ?hạm thượng. Ông cứ viết những chuyện tình hoa lệ, tôi in cho, đụng tới các đấng bậc bề trên làm gì cho rách việc. Ừ thì tôi chỉ viết từ dưới lưng quần. Hưng phấn hơn thì tới cái xú chiêng. Cái lưỡi uốn éo để dành cho ngoại trưởng nước Mỹ. Một vài người nhìn qua cửa sổ vào phòng tôi. Chẳng có gì lạ, tôi vẫn ngủ quên ngay trên bàn máy vi tính. Sau này, họ kể lại lúc ấy chúng tôi còn nghe tiếng ông ấy ngáy. Nhầm rồi các bác ạ. Chữ nghĩa nó ngáy đấy. Tôi đã chết từ khuya. Những con ruồi bay đến từ rổ xôi của bà Năm đầu ngõ, quá cảnh trên bãi cứt chó nhà ông Tư rồi đậu trên mặt tôi. Lộ trình hòa bình của muôn loài xem ra đơn giản. Tôi thật sự không cảm thấy cần thiết phải xua đuổi chúng. Thế mà anh đã xua đuổi em. Nhưng em là ai? Tại sao lại ngắt mạch? Bị cáo là kẻ phản bội. Thưa quí tòa, phản bội là chân lý của sự sáng tạo. Bị cáo không được cãi. Một đàn kiến lũ lượt chui từ trong lỗ tai tôi ra bò xuống bàn. Giống như một đội hùng binh, chúng di chuyển theo bức tường lên trần nhà và mang theo những mảnh óc nhỏ trắng ngà. Tôi không nghĩ là bọn kiến đã tấn công tôi nhanh thế mà thực ra đầu tôi đã là một tổ kiến từ khi tôi nằm ngủ một mình. Chúng tạo ra những ảo giác về các thiên thể và một trật tự hủy diệt kỳ bí. Những thiên thể bị hút về một phía và nổ tung khi chạm vào một giới hạn không xác định được. Vẻ đẹp diễm lệ nhất của vũ trụ ấy quay cuồng trong đầu tôi xóa mờ mọi âu lo khác. Những người xung quanh nhìn tôi với con mắt xa lạ. Không thể hội nhập cái tổ kiến trong đầu tôi với các bộ não thông thái của những kẻ theo thời. Tôi chỉ tìm được sự an ủi nơi tấm ảnh người mẹ đã mãn phần mỗi khi thắp hương. Và cố thủ mình trên những dòng chữ. Bị cáo có quyền chọn lựa người giám hộ. Thưa quí tòa, bản mệnh tôi chỉ là một giấc mơ. Giấc mơ cũng cần quản lý, nghe chửa? Tiếng còi tàu rúc vào lòng thành phố làm tan đám sương mù trước sân. Hai cô công nhân phòng bên cạnh đã thức giấc. Tôi nghe tiếng nước xối trong toa lét. Một cô nói đêm qua tao mơ thấy bố già chui vào phòng mình. Cô kia hỏi lão có làm gì mày không. Lão chỉ vẫy tay với tao sau đó lão xấn tới ôm mày. Ối mẹ ơi… sướng. Con khỉ, thế mà tao vẫn nghĩ lão nhằm tao. Tao cho rằng lão nhằm cả hai. Nếu tao với mày lỡ cùng yêu một thằng thì sao nhỉ? Thì một trong hai đứa phải chết. Tại sao lại không nhường nhau? Chuyện này không nhường được. Mày có yêu ai thì phải công bố kẻo toi mạng. Tao công bố nhé. Nói đi. Tao yêu bố già. Tiếng cười của họ giống như tiếng bát đĩa vỡ. Thực sự tôi không hề nhằm đến bất cứ cô nào, ngoài việc nhìn ngắm ngực họ như cái thói dâm đãng thông thường của giống đực. Tôi cũng thích nhìn họ trong bộ váy suông khi ngày tàn với dáng vẻ thư thả. Lúc đi ngang phòng tôi, cô gái đã tuyên bố yêu tôi chõ mồm vào nói bố cứ mơ đi nhé. Ừ thì tôi tiếp tục mơ. Tôi sẽ quấn cả hai cô vào giường và đánh đòn vì tội không mang tôi về mà phụng dưỡng cơn thèm khát ôm ấp vuốt ve mòn mỏi của mình. Vài cụ ông cụ bà cầm gậy đi tập dưỡng sinh. Ông bạn già bảy mươi của tôi cũng siêng năng thể dục đêm ngày. Mỗi sáng ông đánh mấy ván bóng bàn độ ăn sáng. Trưa đi nhậu với bằng hữu. Chiều tậ hít đất với một cô bạn trẻ. Ông bảo điều độ sinh lý là bí quyết của trường thọ. Đừng để cái gì lấn cấn trong lòng. Hãy coi đàn bà như phương tiện và xóa bỏ mình trong âm ty của họ. Chẳng có gì quan trọng. Ông ấy vừa đi ngang qua chỗ tôi mà không nhìn vào. Sự vội vã của ông quả thật đáng e ngại, tôi đã thấy trước cái bóng của ông trong thế giới mơ hồ này, thấy chỗ sau cùng ông sẽ dừng lại vĩnh viễn trước xe bán bánh mì, thấy cái ôtô từ xa đang lao tới và thấy cái giao điểm giữa không gian và thời gian của một cái chết. Sao anh lạnh nhạt hờ hững với em thế, cô vợ diễn viên trách móc. Em cứ tự vấn xem. Anh cũng phải tự hỏi tại sao em bài bạc chứ. Đấy chưa phải là vấn đề. Tất cả mọi thứ em lo cho anh thì sao. Anh bạc bẽo. Anh là đồ đểu. Anh là thằng hèn. Tôi-bạc-bẽo-đồ-đểu-thằng-hèn mới ngồi đây cãi nhau với cô. Và-tôi-đập-vỡ-mồm-em-bây-giờ. Cái thằng không hèn của tôi đứng dậy bước ra khỏi cửa không bao giờ quay lại. Thế còn những nụ hôn thì sao, anh cũng mang đi à? Mụ vợ hai hỏi. Những nụ hôn không bao giờ có thật. Anh là thằng sở khanh. Cái bùi nhùi rối rắm chà lên mặt tôi. Mùi cống rãnh làm trụi lông lỗ mũi, tôi hít thở bụi và màng nhện. Thế giới được đặt tên là hồng phượng, diễm nga, cẩm hường, ngọc lệ…và lộng lẫy sì líp đỏ. Anh làm thơ à? Không làm thơ thì đời chỉ là cái mõm chó. Đừng cay cú anh giai ạ. Chúa sẽ đưa anh lên núi cao và cho anh nhìn xuống. Thế gian này thuộc về anh nếu anh biết ao ước nó. Nhưng nếu anh biết từ chối nó thì nó sẽ phục vụ anh. Và khi anh từ chối chính mình thì anh là sự tối thượng. Thấy không, Chúa lúc nào cũng ở bên anh. Juda là mẫu mực của hiện thực. Tôi tự xoay vòng ba trăm sáu mươi lăm lần một ngày để văng mình thoát tục. Kẻ lang bạt không gốc tích đến làng Sồi xin làm thằng mõ ăn chén cơm thừa dưới chân thành hoàng. Thằng mõ biết kéo nhị được lão quản cho vào phường bát âm. Tiếng đàn của hắn ai oán làm đứt ruột gan nhiều cô gái. Hắn chọn cô gái con nhà khá giả nhất xin cưới làm vợ. Đẻ được một thằng con trai thì bà vợ chết. Thằng con trai lớn lên làm nghề mộc. Lấy vợ là một cô gái làng bên bán hàng xén. Cô hàng xén đẻ thằng con trai xong rồi cũng chết. Thằng con trai này lớn khôn đi buôn gỗ. Lấy vợ là một cô gái bán bánh đúc ở chợ Đình. Cô bán bánh đúc cũng đẻ xong thằng con trai thì chết. Thằng con trai nghe kể chuyện dòng tộc không muốn gây phiền lụy cho người khác bèn nhất quyết đi tu. Lên chùa nhưng lòng trần không dứt, léng phéng với một bà vãi đẻ ra một ông sư con. Bà vãi cũng không thoát khỏi cái nghiệt ngã của dòng máu độc đinh gieo vào trong lòng bà, bà chết ngay sau khi thằng con cất tiếng khóc chào đời. Ông sư con được gửi gấm cho bà vợ nhỏ của lão phú hào hiếm muộn. Lớn lên trong cảnh giàu sang, gã đàng điếm ăn chơi nhưng không một cô gái nào đón nhận được cái tinh túy của dòng dõi nhà gã. Chỉ đến khi gã thực sự đắm đuối cô thợ dệt lụa và xin cưới cô ta làm vợ thì cái tông huyết oan khiên kia mới đậu lại. Cô thợ dệt lụa sinh hạ thằng con trai xong cũng đành phải từ giã cõi đời khi tròn phận sự.Anh không muốn bị trói buộc. Mỗi lần gặp nhau là một cơn mơ. Em thích thế không? Cô gái tuổi dậu bảo nh không muốn giữ em sao? Tôi nói đấy mới là cách giữ bền chặt nhất. Thày bói bảo sau này em sẽ bị điên. Em là thần hộ mạng của anh. Thần thì có thể bị điên không? Anh không biết, nhưng thần có quyền năng. Nếu có quyền năng thì em sẽ… mua một cái nhà, em thích có một cái nhà. Cái nhà là cái mồ của người sống. Em không thích cách nói của anh. Cô gái tuổi dậu có răng khểnh và những đồng tiền trên má. Đôi mắt cười rất tình. Ngay khi gặp lần đầu tôi đã nghĩ đấy là một định mệnh khác của tôi. Cô gái hỏi nếu một người không muốn sống nữa thì phải làm sao? Tôi bảo đơn giản nhất là đi uống cà phê với anh. Trong quán cà phê tôi cầm bàn tay cứng cỏi của cô gái nói bàn tay này khổ nhưng không thể chết. Rồi hôn bàn tay ấy. Cô gái nói anh có sai lầm không? Tôi bảo lý trí có thể sai nhưng tình cảm thì không. Cô gái ngồi thần mặt. Sự từng trải cho tôi biết cô gái đang thất tình. Và tôi cũng biết tôi có thể bắt lại cái linh hồn phiêu tán của cô gái và đặt trong bàn tay tôi. Cơn mơ ngày hôm ấy bắt đầu từ hai bàn tay. Cô gái để im bàn tay trong tay tôi. Em không nghĩ là anh có thể cầm tay em mãi. Hẳn là thế, nhưng anh tin rằng bất cứ khi nào anh muốn, cơn mơ em lại đến. Trong cơn mơ, cô gái ngả người vào người đàn ông và người đàn ông đã đặt nụ hôn trên tóc cô gái. Nụ hôn trôi xuống đầy khuôn mặt rồi cuối cùng đọng lại trên môi. Nụ hôn có hình tròn co thắt và đôi khi dẹt ra mơ hồ. Tôi bảo không ai giữ được cơn mơ. Nhưng cô gái nói cơn mơ có thể tự đến cũng như có thể tự đi cho dù người ta có muốn hay không. Điều khác biệt nhất giữa cơn mơ và hiện thực là ở chỗ nó không chịu trách nhiệm về chính nó. Anh không cần phải trách nhiệm gì với em. Xin lỗi anh không định nói thế. Anh không cần phải đính chính, lệ thuộc là sự ngu ngốc cũng giống như sự chiếm hữu. Mới thất tình một lần mà đã khôn ranh nhỉ. Như anh thì thành cáo rồi phải không? Một con rắn chui ra từ trong gầm ghế. Nó ngóc đầu nhìn rồi bò quấn vào một chân của tôi với chân cô gái. Cảm giác nhột làm cô gái thét lên. Cơn mơ tan biến. Dòng họ độc đinh đến tôi là đời thứ mười ba. Và tôi nghĩ là cần phải chấm dứt sự oan nghiệt này bằng một cuộc truy vấn cội nguồn. Tôi đã giao cấu với hơn ba trăm đàn bà nhưng chưa bao giờ giỏ một giọt tinh huyết nào vào tử cung phụ nữ. Mỗi khi đến tột đỉnh khoái cảm trên đầu dương vật tôi đều rút ra và cho bắn lên trời. Cho chúng mày được giải phóng. Hàng tỉ con tinh trùng đã chui xuống lỗ cống và lần mò một cuộc đầu thai khác. Rồi tôi cũng sẽ phải lần mò trong u tối cõi về không trú xứ. Trước khi ngày ấy đến, tôi đã tự đâm đầu vào hư ảo. Trong một cơn mơ khác, cô gái vung chiếc quần lót lên như ngọn cờ đuôi nheo cười vang. Nào, hãy tiến lên và cắn ngập răng cái thực tại mê muội. Cả thế giới nằm trong mồm. Tiếng kèn của người khổ tu làm thức dậy từ đáy sâu trong lòng đất những giun dế. Chúng từ từ ngóc đầu lên và khi ngửi thấy mùi quần lót của cô gái, chúng bần bật lao tới. Chẳng mấy chốc mặt đất đầy những con giun dựng đứng. Cách mặt đất một thước sáu, tôi nằm ngang và cắn vào môi cô gái tạo thành một góc vuông. Khoái cảm làm người tôi uốn lượn không mệt mỏi. Độ nhiên cô gái quăng chiếc quần lót lên trời theo một tiếng vọng âm u. Không biết một sức mạnh nào lôi kéo, tôi bung ra khỏi cô gái và bắn theo chiếc quần lót cho đến khi tất cả đều mất hút. Cô gái bảo những huyễn tượng nhục cảm của tôi lúc nào cũng buồn bã. Tôi bảo đấy là nỗi cô đơn không thể chia sẻ với bất kỳ ai. Không phải là em đã đến với anh sao? Tôi không thể nói rằng chỉ có nhục cảm để qua cơn tồn sinh phi lý, thay vì thế tôi nói anh và em vẫn quấn vào nhau. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy mẹ, mặc dù tôi vẫn thắp hương trước tấm ảnh người đàn bà chít khăn mỏ quạ. Khi tôi sinh ra, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai vừa chấm dứt, nhưng một cuộc chiến tranh khác ngay trên đất nước tôi đã bắt đầu. Tôi rơi ra ngay giữa đồng. Và khi mẹ tôi bế tôi về được tới cửa nhà thì bà kiệt sức. Tiếng của trần gian tôi đã nghe đầu tiên là tiếng máu chảy của mẹ tôi. Nó rỉ rả u buồn và đáng hãi sợ hơn tiếng súng. Về sau này tôi vẫn còn hãi sợ cả tiếng mưa rơi từ giọt gianh xuống đất cũng như tiếng nước xối trong bồn cầu. Bố tôi là một lão nông nát rượu. Không một cô gái nào dám về làm vợ. Bố tôi buồn. Tôi cũng buồn.Những ngày thơ ấu trong ký ức tôi chỉ là tiếng ư ử độc thoại của bố. Những lúc ấy tôi thường lấy chăn trùm kín đầu. Không mơ màng điều gì. Tôi chỉ muốn thoát ra khỏi cảnh tượng đó. Khoảng năm mười hai tuổi tôi đã leo lên một chiếc xe đò chạy ngang nhà và đi mãi mãi. Người đàn ông có mái tóc dài ngang vai và đôi mắt sáng làm ảo thuật ở góc phố đã vỗ vai tôi hỏi khi không còn ai: Chú mày thích không? Dạ thích. Ngày mai đến xem tiếp nhé. Tôi đứng im không nói gì. Về đi. Tôi vẫn không nói gì và đứng im. Ông ta cầm thùng đồ nghề bước đi. Tôi chợt nói: Để cháu cầm cho chú. Tôi giằng lấy thùng đồ nghề đi theo ông ta. Hết khu phố này đến khu phố khác. Hết đoạn đường này đến đoạn đường khác. Cuối cùng ông ta vào một ngôi chùa vắng và nằm vật xuống hàng hiên nhắm mắt ngủ. Tôi chẳng biết làm gì, ngồi dựa tường nhìn những chiếc lá rụng. Vẫn nhắm mắt, ông thày ảo thuật hỏi: Tại sao chú mày theo ta? Tôi nói tôi muốn học cái phép biến giấy thành tiền. Ông ta cất tiếng cười: Bé con không nên quan tâm đến tiền. Nhưng cháu đói. Đến lúc ấy ông ta mới biết tôi bụi đời. Ông ta móc túi đưa tôi mấy đồng lẻ và nói người ta không làm ảo thuật thành tiền được mà chỉ có mồ hôi nước mắt mới làm ra tiền. Tôi đi tìm mua mấy ổ bánh mì rồi quay trở lại chùa. Ông ta ngạc nhiên hỏi sao tôi không đi luôn. Tôi nói là chắc chú cũng cần ăn. Ông ta lại cười: Bé con không nên quan tâm tới cái ăn. Vậy thì cần quan tâm tới cái gì, tôi nghĩ, nhưng không hỏi. Lúc ấy và cả sau này, ông ta cũng không bao giờ nói tôi phải quan tâm đến cái gì. Khi truyền nghề cho tôi, ông chỉ nói một câu khẩu quyết: Ảo thuật là nghệ thuật của Phật tính. Buổi tối ở chùa, ông thường tránh mặt các vị thày tu, tuy rằng ông thích nghe tụng kinh một cách kỳ lạ. Những âm thanh trầm buồn nhưng đầy hùng tâm ấy có một ma lực làm ông không cưỡng lại được. Ông bảo nghe kinh giống như nằm trên sóng nước. Nó cho ta cái cảm giác lênh đênh nhưng không bao giờ chìm. Tôi thì chỉ thấy sự ề à mông muội lan tràn như bóng tối. ó thể ôm nó mà ngủ. Ban ngày chúng tôi lang thang tới các chợ nhỏ. Ông bán các thứ thuốc sâu răng, sán lải. Ngày nào tôi cũng để cho ông lôi từ trong lỗ đít ra những con giun dài như chiếc đũa và những con sâu to bằng đầu tăm từ trong miệng, sau khi giả vờ dùng thuốc của ông. Những gói bột thuốc thần nuôi sống chúng tôi. Sư cụ hỏi: Con có muốn đi tu không? Tôi hỏi lại tu để làm gì? Tìm sự bình an con ạ. Nếu thày cho con ăn thì con ăn, nhưng tu thì con không tu. Tôi chỉ nói thế. Sư cụ bảo căn cơ nghiệp chướng con nặng lắm. Tôi cầm miếng giấy trắng lật qua lật lại, đến lần thứ năm thì miếng giấy trắng biến thành tiền. Tôi đưa cho sư cụ xem tờ giấy bạc. Sư cụ bảo ảo thuật là nghệ thuật của ma vương. Ông trả lại tờ giấy bạc và móc túi cho tôi thêm mấy đồng. Tôi chẳng quan tâm tới ma vương hay Phật tính. Tôi chỉ nghĩ đến tiền. Có tiền thì tôi là tôi. Nhưng tôi không bao giờ có đủ tiền để là mình. Người bảo tôi láu cá. Người bảo tôi ti tiện. Phần tôi, tôi biết mình chẳng là bất cứ thứ gì người ta gán ghép. Tôi thèm phở. Thèm hủ tíu bò viên. Thèm bú vú. Ông thày ảo thuật đưa tôi đến tất cả các loại chợ sáng chợ chiều chợ quê chợ tỉnh. Trong một đêm ca tài tử, tôi đã nhìn thấy cô gái sau này là vợ tôi. Dưới ánh đèn măng-xông, cô hồn nhiên rực rỡ nhưng trong giọng ca đã có mầm bi thương. Mầm bi thương ấy lớn lên trong đời tôi, dù hơn mười năm sau tôi mới có dịp gặp lại khi đã là một người lính, và cô là một diễn viên tâm lý chiến ở một phía của cuộc chiến tranh. Lúc ấy không phải vì có súng mà tôi đã mạnh lên, tình yêu nung nấu làm cho tôi bạo dạn và tôi đã bày tỏ tình yêu của mình ngay sau khi nhận ra cô trong giọng hát. Tên sĩ quan cảm thấy bị sỉ nhục đã đày tôi ra tiền đồn. Tôi đi lính để kiếm cơm. Khi cơm không còn là điều tất yếu của cuộc sống tôi đào ngũ. Chẳng khó khăn gì trong việc tìm một tờ giấy giả hộ thân. Tôi tìm cô diễn viên và bảo rằng nếu cô không lấy tôi làm chồng, tôi sẽ cho nổ lựu đạn. Tôi giơ quả lựu đạn đã rút kíp dí trước mặt cô ta. Cô ta đồng ý. Tôi dẫn cô ta về tìm lại bố. Bố tôi vẫn sống. Ông hài lòng khi thấy tôi mang một cô gái về nhà. Bố có thèm thì ráng nhịn. Con cho tiền bố đi chơi đĩ. Rượu có thể uống chung nhưng đàn bà là chiến lợi phẩm không thể chia chác. Đàn bà là con vật khoe mẽ. Bố tôi điêu đứng điên dại. Nào em hãy leo lên chiếc bàn đứng cho anh nhìn ngắm. Thế giới này được phân chia thành hai phía chính tà. Em được phân chia thành bốn bề trên dưới trước sau. Ở đâu cũng là chân lý. Ở đâu cũng mê cuồng sướng thỏa. Em hãy khoe em với càn khôn vĩnh cửu để anh vĩnh cửu càn khôn em. Bọn nhố nhăng cứ để chúng nó giết nhau. Giấc mơ tôi lặng lẽ. Cô gái mặc khải sự phù vân. Quá khứ là hư vô. Tương lai cũng là hư vô. Chỉ có hiện tại là em phơi phới. Em tự banh ra và khôn lớn. Quan tòa hỏi: Bị cáo dụ dỗ gái vị thành niên? Thưa quí tòa, cái đẹp dụ dỗ em. Thế thì bỏ tù cái đẹp. Cái đẹp được cho mặc áo tơi và đưa đến nơi tối tăm. Ba mươi sáu kiểu làm tình hoa lệ biến con người thành con thú. Con thú làm tình biến thành con người văn nhã văn chương. Quan tòa bảo bị cáo vô luân lý. Thưa quí tòa, luân lý ở lỗ mồm chứ không phải ở lỗ đít. Cô gái thứ ba trăm lẻ bốn quay người một vòng hỏi đẹp không? Hiện tượng có thể xấu, nhưng bản chất là đẹp. Vậy thì sống là hiện tượng, chết là bản chất. Tôi nhìn lại toàn bộ cái gọi là ý nghĩa nhân sinh và địt mẹ bọn lẻo mép lắm mồm. Nắng đã lóe lên từ chân trời. Người ta bảo giờ của ma vương đã hết. Con người lúc nào cũng lẩm cẩm với sự biện biệt nhị nguyên. Trước kia bố tôi vẫn uống rượu để khỏi nghĩ đến đàn bà, nhưng khi có con đàn bà ngày ngày đi đứng ra vào trước mặt thì ông không dám uống rượu nữa. Ông sợ có điều xằng bậy nếu không tỉnh táo. Bố tôi bỏ đi. Vợ tôi bảo phải đi tìm ông về. Tôi biết điều ấy vô ích. Chúng tôi không có họ hàng thân thích, tôi chẳng biết cầu mong gì cho ông khi biết rằng đàn bà không phải là giải pháp cho cuộc đời ông, cũng như tôi. Sau đó giữa tôi và vợ bắt đầu có những trục trặc. Bóng của bố tôi lầm lũi nhìn ngó. Tôi rối loạn cương dương và trở nên lặng lẽ trong khi mụ vợ lồng lên như con ngựa được tháo bỏ miếng che mắt. Bị cáo gian dối trong việc thực hiện nghĩa vụ lưu truyền nòi giống. Thưa quí tòa, nghĩa vụ ấy thuộc về thượng đế. Quan tòa nói bọn lưu manh luôn đổ tội cho người khác. Cô gái tiếp tục quay vòng biến thành nhiều cô gái. Ở những góc độ khác nhau, tôi nhìn thấy tôi trong ba mươi sáu tư thế tiếp cận niết bàn. Đây là điều giác ngộ lớn nhất của tôi: Con người được định vị ở một chỗ mà gọi là sống cũng được, chết cũng được. Cái chết nằm ngay trong sự sống và hiện sinh là cung cách xác tín trước thường hằng cái tồn tại vô nghĩa. Mụ ta bảo quyền được sống là quyền được chia sẻ. Và mụ ta chia sẻ mình với những thú vui tự do. Tôi hoàn toàn không kiểm soát được vợ mình. Mụ ta nói tôi cần có con, nếu anh còn muốn làm chồng tôi thì hãy làm cho tôi mang bầu. Mụ ta không bao giờ biết được trong sâu thẳm lòng tôi là muốn chấm dứt vĩnh viễn cái dòng họ độc đinh giết người. Tôi nói nếu cô muốn có con thì cô cứ tự lo. Quan hệ hôn nhân không nhất thiết gắn liền với nghĩa vụ sinh con đẻ cái. Mụ ta bảo tôi ích kỷ. Tôi cảm thấy mình cần phải thoát ra khỏi nỗi ám ảnh của quá khứ. Và tôi bỏ đi. Tôi nghĩ đến bố và thương ông da diết. Đàn ông dòng tộc nhà tôi hiện hữu độc tôn. Đàn bà chỉ là phương tiện. Đàn bà đưa chúng tôi đến trần gian và đàn bà giải thoát chúng tôi khỏi những hệ lụy của nó. Ý thức tối hậu phong trần ấy đưa tôi qua hơn ba trăm cánh cửa đàn bà. Bà vợ thứ hai ngửi thấy mùi những đàn bà khác trên người tôi. Bà ta bảo muốn chết sớm tôi cho chết sớm. Bà ta vắt kiệt tôi bằng những cuộc làm tình mù mịt. Nhưng tôi sống không phải để qui hàng số phận. Bà ta rũ liệt trước. Bà ta bảo bà là người độc quyền tôi. Vì thế bà điên tiết định cắt cái của nợ của tôi ngâm rượu. Tôi chỉ thoát được nhờ nỗi sợ hãi. Con cu tụt biến vào trong người khi tôi nhìn thấy con dao sáng loáng trong tay bà ta. Tôi trở thành người luôn luôn bỏ chạy khi bất cứ một phụ nữ nào muốn ràng buộc mình. Cô gái bảo cách trú ngụ an toàn nhất của tôi là hãy chui vào trong cô ta. Tôi nói trừ phi tôi chọn đó là nấm mồ. Nắng chiếu xiên đến chỗ tôi ngồi. Bà hàng xóm suốt đêm qua khÊng ngủ được khi tôi bước vào trong giấc mơ của bà ấy và dẫm đạp trên những ngón tay cứng khô. Bà ta không cảm thấy đau nhưng cảm giác mất mát rời rụng làm cho bà ta hụt hẫng và tỉnh thức. Bà ta nghĩ về tôi như một người tàn nhẫn và vô ơn. Trâu già thích ăn cỏ non. Tôi đánh đu với cô gái tuổi dậu trên ngọn ầu ơ ví dầu cầu ván đóng đinh cầu tre lắt lẻo. Bà ta đã nhìn thấy cô gái và quyết định phải dậy. Không cần soi gương nữa. Những đứa con gái bây giờ mất nết. Chúng ngang nhiên lùng sục đàn ông và hỏi “đi không anh”. Tất cả mọi đàn ông đều đi. Chỗ trú an toàn nhất là cái bao cao su. Tôi nói với người đàn bà: Không còn cơ hội cho lòng thương xót nữa. Điều quan trọng không phải là đã sống như thế nào, mà sẽ sống như thế nào. Ở thì tương lai tôi, giới tính trở thành vô nghĩa. Không có thời gian và không gian. Những cảnh giới tồn lưu vĩnh hằng được soi chiếu bởi ánh sáng của lòng ham muốn nguyên thủy. Tất cả đều no đầy. Người ta ồn ào vì cái chết của ông bạn già tôi ngoài đường. Tôi nghĩ là tôi có thể đến chào ông ta. Bây giờ thì chúng ta giải trí bằng cái gì nhỉ? Nhìn ngắm thiên hạ ăn ngủ à? Không, tôi nghĩ niềm vui của chúng ta là chờ họ đến cũng như thượng đế chờ con người quay về. Chúng ta sẽ nhìn thấy tất cả mọi thứ tàn lụi. Tôi có trò vui cho ông đây. Ông thử đoán xem cái ông vua bắt mọi thần dân phải tôn thờ mình sẽ ngỏm củ tỏi như thế nào? Ngồi mãi trên ngai vàng thì chắc chắn ông ta sẽ chết vì táo bón. Nhưng xét cho cùng, chết cách nào cũng chẳng có gì quan trọng. Người đàn bà tốt bụng đã đến rồi kia. Cái nhà ông này ăn no ngủ kỹ, bà ta lúc nào cũng nghĩ về tôi như thế. Quả là phúc đức. Bà ta đứng trước cửa nghe ngóng một lúc rồi quyết định gõ. Ông ơi, hôm nay có bánh xèo đấy, ông có ăn không? Bánh xèo thì bà cứ để trên bàn thờ tôi. Nếu bà mang được bà lên bàn thờ thì tôi ngậm cười nơi chín suối. Tôi đã ngửi thấy mùi nhang khói, đừng vội báo hung tin. Tôi vẫn muốn được lặng lẽ bên tôi trước khi thối rữa. Nhưng người đàn bà đã cảm thấy sự bất tường. Bà vừa đấm cửa vừa gọi. Ông ơi ông ơi. Tôi không thể trả lời bà ta. Sự im lặng của tôi càng làm cho bà ta bồn chồn. Gã trai nhà bên cạnh mở cửa bước ra hỏi có gì vậy. Bà ta bảo cũng không biết chuyện gì. Không biết chuyện gì thì về mà ngủ tiếp đi. Bà ta bảo ông ấy bị làm sao rồi. Bị làm sao là bị cái gì. Tôi không biết. Không biết thì đừng ầm ĩ. Bà ta lại gọi ông ơi ông ơi. Gã trai bước tới cửa sổ nhìn vào. Hình như ông ta bất tỉnh. Một người nào đó nhanh trí nói gọi cấp cứu. Người khác bảo gọi công an. Người ta bu đông trước nhà tôi tò mò háo hức. Tiếng một cô gái rất thông minh: Kịch bản của ông ấy đấy. Sao cô biết. Vì ông ấy là nhà văn. Nhà văn thì không chết à. Mọi người cười. Cô gái vẫn bình tĩnh: Ông ấy hư cấu cái chết của mình. Thế ông ta có hư cấu cô không, gã trai hàng xóm hỏi. Mọi người lại cười. Cô gái không hề xem đó là chuyện châm chọc, cô nói tiếp: Đúng là ông ấy đã hư cấu ra tôi. Bà lão tốt bụng quay nhìn cô gái như thể tôi đã giao cấu với cô ta. Viết văn là một hành động được thúc đẩy bởi cảm thức của kẻ bị dồn tới chân tường. Tôi đã trả lời phỏng vấ của đài BBC như thế khi đột nhiên họ phát hiện ra tôi là nhà văn. Nhưng chính cô gái ấy mới là kẻ hư cấu tôi trở thành một nhà văn. Trong các cuộc trốn chạy của tôi, cô gái đã nói người ta chỉ có thể thoát khỏi một ràng buộc này bằng một ràng buộc khác. Đừng tưởng viết văn là giải thoát. Trong cõi đời vô lý này, người ta vẫn hành động vô lý để chống lại sự vô lý. Những câu nói của cô gái hư cấu tôi vào cái chết cùng cực. Giờ đây, đứng trước tự do hậu hiện đại, tân hình thức, tôi giang hai cánh tay cho sự tự do đóng đinh bên dưới tấm bảng: Người này đã chết vì tự do.

2003






THÍ ĐIỂM CỦA TỰ DO

Hắn lái xe tăng vào thành phố. Kính hồng ngoại cho phép hắn nhìn rõ mọi vật. Tiếng bánh sắt nghiến trên mặt đường làm cho các cô gái bỏ chạy. Hắn lái xe về phía quảng trường. Nhìn thấy chiếc xe tăng đột ngột xuất hiện, mọi người la hoảng: Ông Kễnh. Đám đông nhanh chóng tản vào các ngõ hẻm. Các cánh cửa vội sập xuống. Chui ra khỏi xe và đứng trên tháp súng nhìn quảng trường vàng vọt, hắn hét lên: Chúa của các ngươi đến, sao các ngươi không đón tiếp? Từ trong các ngõ hẻm, từng người một từ từ bước ra. Họ đứng chung quanh chiếc xe với vẻ khúm núm và sợ hãi. Hắn hỏi: Có phải ta đã mang đến cho các ngươi cơm áo? Họ đồng thanh nói: Thưa phải. Có phải ta đã cho các ngươi được nghỉ ngơi trong các ngôi nhà ấm cúng? Thưa phải. Vậy thì con gái các ngươi không phải là phần đền đáp cho ta sao? Thưa phải.
Tôi đã đếm được hai mươi mốt cô gái đi qua không mặc xú chiêng. Vú họ nhảy nhót và mông họ líu lo. Tôi tin là nếu có thể cởi truồng được mà không bị phạt thì ít nhất sẽ có thêm năm cô nữa đi qua đoạn đường này. Ly cà phê đã cạn từ lâu. Tôi hỏi người bạn sáng nay như thế đủ chưa? Anh bạn bảo: Cũng đủ tỉnh táo để đi làm. Chúng tôi trả tiền rồi rời quán. Tôi vào cơ quan. Cô bạn cất tiếng chào good morning. Tôi đáp lại good night và ghé vào tai cô ta nói nhỏ: Anh biết em hôm nay không mặc áo lót. Cô bạn bảo cho nó mát. Tôi nói rất muốn sờ. Cô ta bảo về nhà mà sờ tí mẹ. Tôi ngồi gõ vào máy vi tính: Sữa, có hai loại sữa. Sữa hộp và sữa vú. Tôi thích uống loại sữa vú vì uống sữa vú giúp bé thông minh và có sức đề kháng cao. Rồi gửi email cho cô bạn. Đấy là một trong những ngày đẹp trời nhất trên hành tinh. Tôi biết vú cô bạn đang nứng lên. Những mạch máu căng trên da mặt. Và ở thì tương lai rất gần, sau bữa cơm trưa văn phòng, tôi nói anh muốn tìm một chỗ ngủ. Cô bạn không nói gì. Chúng tôi đến khách sạn. Giấc ngủ ngày hôm ấy, tôi thật sự không muốn dậy, bởi đã được ngậm trong một hàm răng thơm. Tôi không thắc mắc gì về việc cô bạn không biết e lệ.
Hắn nói với đám con gái được bố mẹ đưa tới: Tất cả các ngươi đều có phần, nếu các ngươi biết chờ đợi. Khi các tổ phụ chọn đất này dựng nghiệp, các ngài đã biết trước có ngày các ngươi sẽ được thỏa mãn thân xác và cực lạc tâm hồn vì các ngươi được tuyển chọn bởi một người ưu tú nhất trong số các đàn ông trên mặt đất. Người sẽ dẫn dắt các ngươi đến bến bờ thanh lam lệ thủy. Ở đấy các ngươi sẽ được khải ngộ về sự tồn tại của mình. Nói xong, hắn bế từng cô vất vào trong xe tăng.
Quen mui thấy mùi ăn mãi, cô bạn bảo hôm nay em mời anh ăn cơm. Tôi hỏi thế còn cái phần sau cơm em có mời không? Trọn gói cơm no bò cỡi. Để tưởng thưởng cho ý chí bình đẳng giới của cô bạn, tôi dẫn cô ấy đến một căn phòng cao nhất thành phố. Mở bung tất cả các cánh cửa, khi ở tư thế nằm, chúng tôi có thể nhìn thấy trời xanh chung quanh, tôi nói hãy để cho tiếng rên rỉ của em được thần thánh chia sẻ và nước nôi của em biến thành mưa cam lộ. Khi đứng hoặc ngồi, chúng tôi nhìn thấy những mái nhà lô nhô phía dưới, tôi nói hãy để cho cơn điên cuồng phóng dật bốc cháy và bú mớm cưu mang nhau trong lửa. Anh ơi em muốn có bầu. Cô bạn gào lên. Bọn khỉ cười eng éc, loài người tiến bộ bằng cách chửa hoang.
Hắn lái xe tăng lên tượng đài chiến thắng. Trên bệ tượng, các cô gái rú lên vì bàn tay của hắn chọc vào thân thể. Hắn nói: Sự hệ trọng nhất mà con người cần làm là xóa bỏ văn hóa, củng cố thể thao. Ta sẽ đem đến cho các ngươi một cảm giác thật mà các ngươi vẫn chờ đợi, đấy là một tình cảm bị hiếp đáp. Các ngươi sẽ tìm thấy không phải sự nhục nhã mà là khoái cảm nô lệ, một sức mạnh bầy đàn khi các ngươi có cùng một số phận. Nói xong, hắn bắt tất cả các cô nằm ngửa và dạng chân ra van xin ơn phúc cho sự trinh bạch được phá hủy.
Tôi là đứa ham vui vô tâm vô tính. Khi cô bạn tuyên bố có thai và yêu cầu phải chuẩn bị làm một đám cưới cho phải đạo thì tôi gạt đi. Em thích đẻ thì cứ giữ, nhưng cưới xin làm quái gì. Cô bạn bảo không đùa đâu. Thì anh cũng đâu có đùa. Nghệ thuật của thế giới đã bước vào thời kỳ hậu hiện đại, mối quan hệ của chúng ta cũng cần tân hình thức. Mả mẹ anh, bố tôi cho anh đi tù mọt xương. Anh muốn nói chuyện với bố tôi không? Cô bạn bấm điện thoại rồi đưa máy cho tôi. Quả thật, bố cô ta là người đáng sợ. Tôi bảo thôi được. Bây giờ tôi mới biết mình đã đùa với lửa. Bố vợ tương lai của tôi nói hãy đi thuê mặt bằng của sân vận động quốc gia thì mới chứa hết khách mời. Tôi làm sao tôi lo nổi một đám cưới như thế. Ông bố vợ lạnh lùng bảo: Tôi nói cậu làm thì cậu cứ làm. Cũng cùng một cách như thế, ông bảo tôi thuê một cái xe cần cẩu. Chúng mày sẽ trao nhẫn cho nhau trong sự ngước mắt của toàn thiên hạ. Tôi như người đi trên mây. Phúc ấm của mười tám đời vua Hùng tràn trề khe suối. Báo chí không thằng nào dám mỉa mai. Từ ngày hôm ấy tôi được lệnh phải ăn mặc như phò mã. Thắt cravate và đi giày Ý. Tiệc tùng liên miên. Tuy thế, không thể nào không nhớ tới cái thuở cơm đường cháo chợ, tôi vẫn lén cùng mấy thằng bạn cũ đi uống bia ôm các em Bến Tre, Cần Thơ, An Giang, Rạch Giá... Bố vợ tôi biết chuyện, ông nói: Mày có chơi thì cũng cần phải có phong cách con nhà. Hoàng đế La Mã cho vời tôi vào cung. Thế giới đàn bà ở đây vừa kiểu cọ vừa sỗ sàng. Tôi trở thành đồ chơi của quí bà vì cái dáng vẻ bụi bặm biên ải. Và qua các mệnh phụ, tôi giao du kết bè với những người có thế lực nhất.
Để thay đổi chất lượng cuộc sống, đôi khi hắn lái máy bay trực thăng đi săn gái trên cánh đồng. Những cô gái bị bắt cóc lên máy bay rồi đưa ra biển trên một du thuyền sang trọng. Họ được sống trong một cảm giác lạ lùng nhất với một sinh vật ngoài hành tinh, được chiều chuộng và thể nghiệm với những chiều kích đảo lộn luân thường đạo lý phi lịch sử. Người ta vẫn đồn thổi về sự mất tích của các cô gái bởi một đường dây buôn người xuyên quốc gia, nhưng không ai nghĩ đến những phế phẩm trên đường phố. Họ bị vất ra đường với một ký ức không ngày tháng.
Tôi đặc biệt thích tay cảnh sát trưởng thành phố. Ông ta có thể cho tôi những chi tiết cặn kẽ nhất về sở thích làm tình của bất cứ người đàn bà nào tôi muốn biết. Hoặc ông ta có thể cho tôi danh sách những phụ nữ đang muốn bị hiếp. Tôi chỉ cần đến với họ bằng một khuôn mặt của kẻ say rượu. Đấy là cách mà người ta có thể thỏa hiệp với sự không bình thường của tính đoan trang giả tạo.
Cớm nói: Tôi nhìn con người ở khía cạnh tội phạm và tôi nhìn thấy sự xấu xa từ căn tính. Bởi thế, tôi nhìn xã hội như nhìn một nhà tù. Trong tình huống ấy, ý thức về quyền lực là ý thức hiện hữu. Khi tôi đưa vào tay ông sự bí mật của phụ nữ, tôi cũng sẽ nhìn thấy bí mật của ông. Chúng tôi đo lường được mọi chuyển động từ khi nó manh nha trong ý nghĩ cho đến khi kết thúc ở đâu đó trong vinh quang hoặc bi kịch.
Tôi hỏi đùa cớm:
Phần tôi?
Chúa bảo người ta sống đằng nào thì chết đi đằng đó.
Xét cho cùng, tôi thấy kết thúc như mấy thằng bị thượng mã phong là hạnh phúc.
Cuộc đi săn của hắn trong rừng bắt đầu bằng những con nai, hắn bảo không nghe thấy tiếng gầm của cái chết không sướng. Thuộc hạ đưa hắn vào rừng cấm. Cuộc phục kích kéo dài nửa ngày không thấy một thú dữ nào lai vãng. Hắn bảo cần chuẩn bị cho một bữa tiệc thời đồ đá với tất cả hương vị rừng rú. Ý tưởng của hắn được triển khai trong vòng nửa giờ đồng hồ. Họ đã vét được bằng trực thăng chín em sơn nữ trên lưng chừng núi và thả xuống suối tắm rửa. Lão Tử bảo đạo khả đạo phi thường đạo, hắn nhảy xuống suối làm một con cá đực phun tinh trùng vào trong nước và để cho những con cá cái hớp vào bụng. Giữa lúc ấy một con cọp xuất hiện. Có tiếng người gầm rú, rồi tiếng nổ. Con cọp chết, tiếng gầm của nó không lớn bằng tiếng con người.
Trong số những nhân vật quan trọng của triều đình, tôi ghét nhất tay tư lệnh vệ binh. Ngoài đức vua ra, hắn coi tất cả mọi người là ngoại xâm. Tôi vẫn thầm nhủ phải địt được con vợ nó để nó thực sự biết thế nào là ngoại xâm. Tôi nhờ tay cảnh sát trưởng cho tôi lịch giải trí của phu nhân tư lệnh và các sở thích của bà ấy. Tên cớm hỏi có gì để trao đổi?
Tôi hỏi lại: Ông có muốn đặt cược cuộc đời vào tôi không?
Hắn cười: Tôi không tin ai. Nhưng có thể để dành cho ông một món nợ.
OK.
Tôi đến hồ bơi trong thượng uyển trước bà tư lệnh nửa giờ. Nằm uống rượu trên cỏ và chờ. Đám mây màu vàng rất nhu mì đổ bóng xuống tôi. Mở mắt, tôi nhìn thấy một người đàn bà khác người đàn bà mà tôi đã từng biết mặt. Nàng thật sự hồn nhiên với mảnh vải khoác trên người. Tôi mời nàng uống một ly vang.
Người đàn bà hỏi: Ông có bỏ bùa không?
Tôi nghĩ rằng có.
Ông tin bùa của ông hiệu nghiệm à?
Thưa bà, tôi luôn tin vào tôi.
Ông không sợ chết đuối?
Không, nếu người dìm tôi là bà.
Ngày xưa, anh hát cải lương?
Thưa bà, tôi hát chèo.
Tôi thích cái kiểu dấm dớ quan họ.
Vâng, người ta nên hoài cổ cho thêm phần lãng mạn.
Dưới hồ bơi, tôi nói muốn cùng bà ta bơi nghệ thuật. Trong lãng mạn đã có phần thô tục của niềm hứng khởi. Tôi chui vào háng nàng và đội nàng trên đầu. Tôi nói hãy hét lên điều gì đó em muốn. Và nàng đã hét lên: Em thèm anh.
Chín cô sơn nữ, người ngồi người nằm, quanh đống lửa. Mùi cọp nướng thơm phức. Hắn nói: Các em cũng là mồi, bởi thế các em cần được tẩm bằng rượu cả trong lẫn ngoài. Nói xong hắn lấy rượu đổ lên người các cô trước khi chia cho các cô cùng uống. Các cô không hiểu hắn nói gì. Nhưng họ cảm thấy vui bởi ngôn ngữ của xác thịt thì phổ quát đến muôn loài.
Nhanh chóng rời khỏi thượng uyển , trên hai chiếc xe hơi khác nhau, chúng tôi phóng một mạch đến trang trại của tôi dưới chân núi Vua Hùng. Tôi khoe: Anh đã cho xây dựng một biệt phủ với đầy đủ tiện nghi tuồng chèo của nền văn hóa truyền thống. Bởi thế yêu đương làm tình cũng cần phải đậm đà bản sắc dân tộc. Ở đây không có chỗ cho trừu tượng hay siêu thực.
Nàng bảo: Em không mường tượng được làm tình đậm đà bản sắc dân tộc nó như thế nào.
Đàn ngỗng kêu quàng quạc trong sân. Tôi bảo đấy là thanh âm giáo đầu của khúc trường ca bi tráng mà em cần phải học để biết cách biểu lộ sự thống khoái.
Tôi chỉ bộ đao thương cắm giữa phòng khách, hỏi: Em thích nếm mùi phanh thây hay chọc tiết?
Nàng cười: Em thích hò khoan giã gạo đêm trăng.
Chủ nghĩa lãng mạn đã bị bức tử lâu rồi.
Tôi cầm cây đại đao xẻ áo nàng. Khi chiếc áo vừa rơi xuống đất, tôi quát: Quì xuống.
Sự ngỡ ngàng làm khuôn mặt nàng căng ra, đôi mắt trợn ngược. Dí đao vào giữa ngực, tôi quát tiếp: Bò đi.
Nàng bò.
Ừ, cứ bò như thể chưa bao giờ em được bò. Chỉ có bò, người ta mới lùng sục được cái cần tìm. Hãy đánh hơi như một con chó tinh ranh và cắn vào chân lý.
Bất chợt, nàng hét lên: Làm đi.
Tôi xông vào làm bằng tôi và bằng cả cán cây đại đao. Đàn ngỗng đã bước vào trong nhà và cùng với nàng, chúng kêu quàng quạc không theo một nhịp điệu nào.
Những cô gái có mùi khét đã bắt đầu nhảy múa. Thân thể của họ rừng rực. Hắn không còn đủ sức đong đưa tấm thân vào hiện thực cách mạng, nhưng nguồn hứng khởi tràn từ các cô gái khiến miệng hắn mở ra ầu ơ ví dầu mấy câu tài tử…
…Chữ trinh đáng giá ngàn vàng, từ anh chồng cũ đến chàng là năm. Còn như yêu vụng nhớ thầm, họp chợ trên bụng đến trăm con người…
Viên tướng tư lệnh vệ binh lăn đùng ra ói máu chết khi được đám thuộc hạ thân tín cho mục kích cuộc làm tình giữa tôi và mệnh phụ phu nhân trong chuồng ngựa. Để giữ cho triều đình cái vẻ đẹp của cương thường, cái chết của viên tư lệnh được đức vua coi như sự hy sinh trong lúc thi hành công vụ. Tôi được thay thế vào chỗ của gã. Người mừng nhất trong việc này là bố vợ tôi.
Những cô gái tăng tốc quay cuồng. Sự bất lực của ngôn ngữ được biểu hiện bằng những tiếng rú, gào của hắn. Cho đến khi sùi bọt mép nằm vật xuống đất, miệng hắn vẫn còn rên ư ử. Những cô gái liếm trên người hắn như những con sói thèm thịt. Tất cả các lỗ trên người hắn, nước tuôn ra ồng ộc.
Tay cảnh sát trưởng chúc mừng tôi bằng một thông tin quí giá: Phu nhân trẻ trung của ngài đặc vụ trưởng viện cơ mật rất ái mộ ông.
Tôi hỏi: Về cái gì?
Về khả năng làm cho phụ nữ thỏa mãn.
Tôi không rõ điều ấy lắm.
Bà ấy vẫn ao ước được làm tình kiểu quần hôn.
Với ông và tôi à?
Không… không…
Tại sao lại không?
Bởi vì tôi… không…
Dụng cụ của ông liệt rồi phải không?
Gã nhìn thẳng tôi: Đúng. Bởi thế tôi chỉ thích nhìn người khác.
Trong đó có tôi?
Tất nhiên. Những gì ông có được là do tôi mang đến.
Tôi muốn chửi vào mặt gã địt mẹ mày, nhưng tôi nói: Tôi muốn mua những băng hình đó.
Tôi không bán. Tuy nhiên, có thể tặng, nếu tôi thích.
Tôi hiểu.
Chúng tôi trở thành đồng minh với nhau. Bố vợ tôi càng mừng hơn.
Khi lên làm vua, hắn tự nhủ: Không ai bảo vệ tốt cho mình hơn bằng chính mình. Bởi thế, hắn giải thể lực luợng vệ binh và tự trang bị một trực thăng võ trang với một súng đại liên hai nòng, một xe tăng chiến đấu vừa có đại bác vừa có đại liên. Riêng trên người hắn lúc nào cũng mặc bộ quân phục biểu hiện một ý chí cách mạng triệt để, kể cả trong lúc ngủ. Hai bên sườn, hai khẩu súng ngắn báng mạ vàng. Dưới chân, hắn kẹp một dao găm cán nạm kim cương. Hắn bảo, trong mơ cũng cần cảnh giác.
Tôi đến thăm gia đình đặc vụ trưởng viện cơ mật vào một buổi tối cuối tuần. Phòng khách ấm cúng, chúng tôi uống rượu ngâm gan gấu và ngọc dương. Phu nhân ngài đặc vụ trưởng khen tôi có một vẻ đẹp đầy nam tính. Tôi bảo nam tính đích thực không nằm ở bên ngoài. Phu nhân hớn hở nói: Tôi sẽ rất hân hạnh nếu có dịp được nhìn ngắm vẻ đẹp bên trong ấy. Tôi bảo điều ấy không tùy thuộc tôi, mà tùy thuộc vào bà và chồng bà cho phép. Bà ta đứng dậy bước đến bên tôi, nâng ly rượu, nói: Chúng ta cùng chúc mừng buổi hạnh ngộ này. Xin đa tạ. Khi cạn ly rượu, bà ta đã ngồi giữa chồng và tôi. Một tay bà để vào háng chồng, một tay bà nựng tôi. Nứng nứng đi con rồi mẹ cho sướng. Hãy để cho giun biến thành rồng. Lưỡng long chầu nguyệt mới là sang cả.
Tối hôm ấy, tôi đã say và có một cảm giác khác thường như bị cưỡng hiếp.
Sắc lệnh số một được ban hành khi hắn chấp chính mang một nội dung biểu cảm: Nay ra lệnh cho tất cả thần dân trong nước phải kính yêu trẫm, bởi trẫm đã yêu thương các ngươi. Khi trẫm muốn, các ngươi phải đáp ứng. Khi trẫm thích, các ngươi phải chiều. Trẫm là của các ngươi và các ngươi thuộc về trẫm.
Hắn đăng quang bằng việc xé rách một trăm cái màng trinh trong một đêm.
Bố vợ tôi cho vời đến gặp. Ông bảo: Ta bảo đảm cho cậu được quyền làm con rể ta suốt đời, cho dù bất cứ tình huống nào xảy ra, miễn trừ cho cậu thói hoang dâm vô độ, phỉ báng danh dự con gái ta.
Tôi nói: Con cũng chỉ xin bố cho con quyền được sống tới lúc nào con muốn.
Tất nhiên. Cái gì ta có là con có, với một điều kiện duy nhất là làm theo lời ta.
Thưa vâng.
Tốt. Nghe ta hỏi: Tay cảnh sát trưởng tin cậy được không?
Dạ được.
Đặc vụ trưởng viện cơ mật thông đồng được không?
Dạ được.
Phần ngươi, đám thuộc hạ tuân lệnh ngươi không?
Tuyệt đối.
Một kế hoạch chi tiết về việc lật đổ ngai vàng được bố vợ đưa cho tôi tham khảo. Đảo chính thành công, ông bố vợ sẽ là tân hoàng đế. Phần tôi cũng béo bở một cách xứng đáng, thủ tướng quốc vụ viện. Tôi nói kế hoạch hoàn hảo.
Ngày N, giờ G. Trong lúc tất cả các vị tướng quân đội đang du hí ở nước ngoài do ngài đặc vụ trưởng sắp xếp. Lực lượng vệ binh phối hợp với cảnh sát thành phố chiếm giữ đài phát thanh, truyền hình và các điểm trọng yếu khác. Thông cáo thứ nhất của Ủy ban lâm thời cách mạng do bố vợ tôi làm chủ tịch tuyên bố, đức vua xin thoái vị vì lý do sức khỏe, được đồng loạt phát cả trên các đài phát thanh và truyền hình. Việc điều hành đất nước do Ủy ban lâm thời cách mạng đảm nhiệm. Ngay sau đó, lực luợng vệ binh đã bắt giữ bố vợ tôi và viên đặc vụ trưởng viện cơ mật. Bố vợ tôi hỏi: Thế này là thế nào? Tôi bảo: Cờ đến tay ai người ấy phất. Thông cáo thứ hai của Ủy ban lâm thời cách mạng được tuyên bố sau một ngày, lên án hành động tiếm ngôi của ông bố vợ và những kẻ đồng sự. Kẻ có công cứu giá là tôi được nhường ngôi. Đức vua anh minh tự phong làm thái thượng hoàng. Tôi nhìn thấy trăm họ hoan hô tôi. Mọi sự tốt đẹp như ý trời đã định.
Lấy dân làm gốc, tôi yêu cầu mọi người đừng gọi tôi là hoàng thượng, mà hãy gọi tôi là ông Kễnh cho thân mật. Để tạ lỗi với bố vợ, tôi phong cho con gái ông ấy chức hoàng hậu vĩnh viễn. Và cũng để tri ân toàn thể đồng bào, tôi ký sắc lệnh số hai: Tất cả con gái đến tuổi trưởng thành đều được phong làm thứ phi.
Viên cảnh sát trưởng xin yết kiến tôi. Gã đưa thỉnh nguyện muốn được tẩu thoát sang Phi châu sống yên ổn với bọn đồng tính tới mãn đời. Tôi hỏi sao không chung hưởng phú quý với tôi? Gã bảo võng lọng vinh quang không đủ chỗ cho hai người. Tôi đồng ý nói: Như thế là xong nợ phải không? Gã cúi đầu: Thưa vâng.

28.9.2003






LỀ ĐƯỜNG CHUỘT

1.
Cái thằng điên nhắm mắt nhắm mũi đâm sầm vào em giữa thanh thiên bạch nhật ấy thật ra không phải vô tâm vô tính thong manh quáng gà bất lương bặm trợn. Từ quán cà phê nhìn sang, mỗi ngày hắn đều thấy cô. Hẳn nhiên cô biết hắn nhìn cô cái gì và thấy cô như thế nào. Thày dùi bảo: Cậu phải làm cho cả thế giới biết cô ấy thuộc về cậu. Bằng cách hiếp cô ta giữa phố à? Tương tự như thế. Cụ thể xem nào? Cho người ta thấy cô ta bị tấn công bởi lũ chuột cống. Tởm quá. Đừng thô thiển như thế, mà hãy romantic (sic) một chút, vấn đề chỉ là cách đặt tên. Thí dụ: Cơn cuồng hoan của chuột? Đúng, cậu là một nghệ sĩ đích thật. Cái thằng điên ấy nó bảo em có tướng bà. Nó không biết là em đã thành bà trước khi thành thiếu nữ. Nó còn bảo trông em sang trọng. Một tác phẩm hoàn chỉnh về em có nghĩa là sự nghiệp sáng tạo của nó đến đích. Nhưng trước hết, nó nói, cần phải khám phá em. Giời ơi, khám thì chết vì xấu hổ, phá thì còn đâu dòng dõi Thúy Vân Thúy Kiều. Dưới miệng cống, lũ chuột cũng đã nhìn thấy cô. Chúng nhăm nhe cắn vào cổ chân trắng nõn đeo lục lạc của cô. Bọn chuột bảo nhau, chưa thấy cái chân giao chỉ nào đạt đến trình độ tiến hóa như thế. (Bọn chúng quên là người có ngón chân giao chỉ cuối cùng là ông nội tôi đã chết cách đây gần bốn chục năm. Chú thích của người viết). Thày dùi bảo: Một tác phẩm hoàn chỉnh về nàng phải là một tổng hòa giữa tranh giá vẽ, biểu diễn hình thể, vidéo art và sắp đặt âm thanh. Một tác phẩm như thế không nhất thiết cô ấy phải có mặt.Trong cơn phi lộ của nó, nó bảo em vô gia cư, vô địa lý, vô sử lịch. Em là biểu trưng của sự toàn cầu hóa nghệ thuật. Nó còn bảo em đến từ tương lai. Thế là cớ sự xảy ra. Em chui vào. Nó chui ra. Thày dùi nói: Cậu cần phải biết thời điểm kết thúc. Động tác cuối cùng. Âm thanh cuối cùng. Niềm hoan lạc cuối cùng. Sự hiện diện cuối cùng. Hắn bảo đấy là ngày thứ bảy của thượng đế. Đúng, cậu là một thiên tài. Thiên tài trầm ngâm về sứ mạng của mình trên mặt đất. Hắn đi giày bốt. Mặc áo tàu. Cổ quàng khăn như cô gái cổ tích. Hắn gọi tiếp viên: Cho thêm bia. Em đã bảo nó coi chừng tai nạn, nhưng nó cứ nhất định đâm sầm vào em. Nó không biết em mặc nhuyễn vị giáp của Đông Tà Hoàng Dược Sư, võ công như nó chỉ chuốc lấy thảm họa. Thày dùi nói: Cậu cần phải chuẩn bị mình để đón nhận cô ấy với tất cả tấm lòng thanh sạch, cậu hiểu ý tớ chứ? Tất nhiên, tôi đã tắm và gội đầu. Cậu cũng cần phải rửa ruột và đánh răng. Tất nhiên, tôi cũng đã tẩy não quá khứ. Thế thì được rồi, cậu hãy lên đường.
Những chai bia bảo nhau: Chúng ta nên giữ trật tự. Người đàn ông râu bạc, tóc bạc, đôi mắt cá ươn. Ông ta nhìn hàng bia trước mặt dựng đứng trang nghiêm lẩm bẩm: Chúng mày là một thế giới. Tao là một thế giới. Khi tao nuốt chửng chúng mày, cũng vẫn là một thế giới. Điều ấy được gọi là đạo. Alpha và oméga. Khi tao say xỉn và gạt tất cả chúng mày xuống đất, vẫn là một thế giới. Điều ấy cũng được gọi là đạo. Vô thủy và vô chung. Cậu đã xong việc chưa? Hãy gọi thêm bia. Hôm nay là ngày chuột chết vì chúng đã nhìn thấy bàn chân cô gái không mang giày. Hai ngón cái rẽ ra bấu xuống mặt đường, cô gái vùng vẫy chống lại người đàn ông quàng khăn cổ đang mưu toan bế mình lên. Trong lúc cô gái chỉ muốn khóc thì người đàn ông vừa ôm chặt cô vừa kêu lớn tiếng rằng: Ta là đường.
Cốc bia vẫn còn đầy. Xác chuột vẫn còn nằm trên miệng cống. Hai bàn tay người nghệ sĩ đầy máu đặt trên bàn dường như bất động. Thày dùi bảo sáng tạo có nghĩa là bắt đầu lại. Người nghệ sĩ cười ruồi, cơn ngạo mạn làm khuôn mặt anh ta ngời sáng. Ở phía bên kia đường, cô gái vẫn phô trương mình bằng một vẻ đẹp toàn hảo. Anh ta nghĩ: Không thể thêm vào hay bớt đi điều gì. Và quay mặt qua với thày dùi, anh ta dùng đít cốc của mình gõ trên miệng cốc của gã, nói: Nào uống.

2.
Cô gái hỏi qua điện thoại: Anh viết tới đâu rồi? Tôi bảo mới hơn một trang A4, vì thiếu những dữ kiện cụ thể. Cô gái nói: In cho em xem trước đi, thiếu chỗ nào em bổ sung cho. OK, gặp nhau ở đâu? Chỗ anh đang ngồi.
Từ phía bên kia đường, cô gái bước sang. Kéo ghế cho nàng ngồi, tôi bảo trông em hơi xanh, mất máu à? Không, sợ. Tôi cười: Đâm sầm vào em chỉ là một giả định của thày dùi. Gã thày dùi cũng cười: Vấn đề là em có để cho nó đâm hay em bỏ chạy. Cô gái nói: Em cần phải xem kịch bản trước. Tôi bảo kịch bản không có định chế pháp lý hay luân lý. Thế thì em phải bỏ chạy. Tôi bảo em không thể chạy, vì Chúa đã đưa em đến đây. Em không muốn ngộ nạn. Em đã bị bẫy rồi, và anh nghĩ rằng em vẫn muốn chui vào bẫy. Tôi nói tiếp: Trong kịch bản, sau khi biết mình bị bẫy, cô gái cúi xuống nhìn bàn chân của mình và phát hiện hai ngón chân cái đang rẽ ra bấu xuống đất, cùng lúc, người đàn ông nhẹ nhàng bóp vai cô ta, bảo: Đừng sợ. Anh yêu em.

8.11.2003

Nguồn: tienve.org