ĐỖ KH. - KÝ SỰ ĐI TÂY: CÁI SHOW TÌNH ÁI / CHUYẾN TÀU ĐẦU NĂM / GÓI CA-RÔ ĐỎ / TRẠM TÀU ĐIỆN LẺ / BỨC TƯỢNG DANTON / CÁI HÌNH CHỚP NHÁY - phiếm


CÁI SHOW TÌNH ÁI

Tôi biết điều nên đến đường St Denis tôi không đi thăm ai. Tôi đạo mạo xuống Forum vào Fnac đọc sách cọp, lân la từ gian này sang gian khác, đến gian sách hình tôi mỏi cẳng ngồi bệt xuống y như người ta. Các tiệm sách ở khắp nơi, tôi chỉ nhớ có mỗi một tiệm ở Copenhague là lịch sự bày ghế đi-văng ra cho khách ngồi mà lật. Còn ở đâu thì cũng chỉ có xem đứng. FNAC nhờ rộng mênh mông, thênh thang hành lang nên có vẻ thư viện tuy là cũng không có bày ghế bày bàn. Ðược cái vì nó lớn nên khách hàng tự tiện, đây đó thản nhiên ngồi trên thảm mà điều nghiên kỹ càng. Có cái, đọc hết “Chiến Tranh và Hòa Bình” tại chỗ thì cũng mệt, người ta ngồi xuống đất thường để coi một quyển “B.D” (Bandes Dessinées). Tôi thấy người ta làm vậy, tôi đua đòi bắt chước. 

Thật sự thì văn hóa “B.D” tôi rất kém. Tôi biết mang máng là ngành nghệ thuật này cũng có festival hàng năm ở Angoulême, nói tên tác giả, nhân vật “B.D” tôi cũng kể được vài ba người, kiểu như ta ưa nhắc đến Henri Miller hay là Arthur trong tiệm phở vậy. Ngồi tiệm phở, nếu nói đến “B.D” tôi cũng lẩm nhẩm được Hugo Prat, được Tardy, được Moebius, đại khái như là hai ông Miller vừa mới kể, có ông lấy Marilyn Monroe làm vợ, có ông nhiều Tropiques, Tropiques buồn thì phải kể đến Levi-Strauss, sang đời Lacan nó trở thành “Topiques”, còn Marilyn Monroe thì tối đi ngủ chỉ “mặc” có Chanel No.5, ấy, tôi cũng là người lăng nhăng kiến thức, tôi lâu lâu có đọc cả People Magazine. Thì cũng như ngồi tiệm phở, phải biết có nhiều loại cọng, cọng nhỏ, cọng lớn, có nhiều cách xào, xào dòn, xào mềm, áp chảo linh tinh. Chẳng cần phải là chuyên viên, cũng nghe nói được đến Libératore và Bilal, ngành nghệ thuật thứ tám thứ chín thứ mười gì đó hiện nay đang thời thượng. Nhà văn Patrick Besson, người hiện nay đang làm star ngồi bồn tắm có bọt xà phòng của văn chương Pháp vừa ngọ nguậy ngón cái ở chân vừa tuyên bố “Tôi nghĩ rằng Goscinny quan trọng hơn Bergson”. Bergson là triết gia đầu thế kỷ, ở Paris có trường trung học mang tên Goscinny là người viết lời của tập truyện Asterix, trẻ con, người lớn khắp thế giới đều biết. Besson là đào tơ của văn học hiện nay, tôi xin lỗi, kỳ này về Pháp, tôi không nghe nhắc đến bà Duras nữa. Bà này, hên quá, nhờ sinh trưởng trên đất Việt, nên dù sao vẫn còn quậy bọt được ở Bolsa. 

Tôi hơi nhà quê, vào thế giới của “B.D” tôi lạc lõng. Tôi biết Tardy có vẽ “B.D” theo “Voyage au Bout de La Nuit” của Céline, Druillet có vẽ truyện hình theo “Salammbô” của Flaubert và tôi làm quen với Léo Malet qua tranh vẽ “Brouillard au Pont de Tolbiac” chứ không phải là nhờ học văn tác giả, nhưng ngoài ra về “B.D” tôi rất dốt. Tôi lục lại các giá đựng sách mà thấy nóng ở tai như người mù chữ giả thành thạo, như người mặc quần tergal gấu không che nổi đôi dép Nhật Bản phải bước vào những nơi lịch lãm quận Cam như nhà hàng Favori hay Song Long. Ở đời chẳng bao giờ mà lúc nào, ở đâu, việc gì cũng thành thạo được cả phải không, tù trưởng ở bộc lạc này, cổ đeo nút phéng Pepsi cẩn thận, thế mà đi sang buôn khác, có khi là thằng ngố vì mọi người ai cũng căng tai bằng vỏ chai Coca. Tôi lựa đại một cuốn bìa vẽ coi sáng sủa, có cô tóc cứng hở vai đang ngồi tụt quần sì-líp: “Ðời Sống Tân Thời” của Philippe Bertrand. 

Philippe Bertrand không dính dáng gì đến văn chương. Truyện hình chàng hơi xa Flaubert và cũng chẳng gần Maupassant. “Ðời Sống Tân Thời” scénario hơi lủng củng, cốt truyện hình như là trinh thám gì đó, có nhiều đàn bà hở mông, nhiều đàn ông hở bụng rượt đuổi nhau trên cái khung xanh xám và sắc nét của những án mạng tầm thường. Thời đại mới mà, một vài cảnh tôi quen thuộc, một quán rượu mang tên Bartok hao hao tranh “Boulevard of the Broken Dreams”, một trạm xăng giống như trạm trước khi vào thành phố Las Vegas (tôi cũng chẳng hiểu tại sao), có lúc có vẽ hai cô con gái, cô này cầm vú cô kia gợi lại bức truyền thần Gabrielle d’Estrée vào thời Phục hưng. Nhân vật chính mang cái tên gợi cảm là “Linda yêu nghệ thuật”. Tôi cũng đâm ra yêu nghệ thuật nốt, cái ngành thứ tám, thứ chín thứ mười gì đó của những người tóc đang cao ót, để chỏm và bôi gel. Tôi yêu nghệ thuật nhưng Linda tôi yêu hơn là Buck Danny. Coi cọp xong quyển album của Phipippe Bertrand tôi bắt đầu thấy nóng người, ai bảo sách báo khiêu dâm không có ảnh hưởng xấu, giờ tôi buồn đi coi show. 

Paris có nhiều thứ giải trí. Như hộp đêm chẳng hạn. Những hầm rượu cũ đường Dauphine, đã từng có Boris Vian thổi kèn, đã từng có Juliette Gréco hát vào cái thời zazou ngày nào. Những nơi vừa mới mở ngọ nguậy tài tử sắp nổi lên và minette con nhạn là đà ngoại ô. Nhưng tôi không có áo quần đúng kiểu, nhảy đầm tôi lại ghét, vào cua đào thì phải la hét mỏi cổ và ù tai, lần này tôi lại là du khách, du khách không bao giờ đến Bains, Garage hay Bus Palladium cả (tuy là đến Bus Palladium may thì có thể trông thấy Eric Neuhoff hay Patrick Besson sau những giờ mệt mỏi viết văn của hai ông). Du khách Paris, có nhảy đầm thì cũng chỉ nhảy ở cabaret chứ không nhảy boite, lấy nhảy đầm làm phụ và lấy show làm chuẩn, du khách thì phải đi coi bằng được Moulin Rouge, Lido, Folies-Bergère, Crazy Horse Saloon, Paradis Latin. 

Những cái revues thuộc loại gắn lông đà điểu vào giữa mông này cả thế kỷ nay làm kinh thành ánh sáng lừng danh thế giới. French cancan du nhập sang tận miễn Viễn Tây Hoa Kỳ, cùng một lúc với French fries (món này cầm nhầm của người anh em Bỉ), vớ résille, giày đế cao, một hai ba ta cùng đưa đùi lên ai cũng biết. Ðến ngày nay đoàn vũ Lido, các cô Blue Bell Girls, đoàn vũ Moulin Rouge, các cô Doris Girls, vẫn tiếp tục sang Nevada trình diễn, ở Caesar’s Palace, ở Sahara Hotel để khuây khỏa phần nào nỗi buồn của những người thua bạc. Chỉ khác có cái là luật lệ Nevada nghiêm khắc, bạn có được xem những show này ở Vegas cũng không thấy đầu vú hồng như ở ngay Paris. Bên Mỹ người ta nhã nhặn bắt ngang vỏ sò, ngôi sao lấp lánh ở trên ngực, áo quần bớt hở hang hơn, có thế thôi, ngoài ra cái gì cũng giống khi những đoàn vũ chính hiệu này lưu diễn sang đây. Crazy Horse Saloon thì không đi đâu hết nhưng ở tại Macao có một bản copy không cầu chứng với vũ công tóc vàng cẩn thận để quần chúng Trung Hoa thưởng lãm bên cạnh ly cognac bỏ đầy đá cục. Tôi chưa được đi xem Crazy Horse ở Paris, tôi chưa được đi xem Carazy Horse ở Macao, cognac cầm hâm trong lòng tay hay là bỏ đá tôi cũng đều không uống cả. Nhưng Moulin Rouge, Lido thì tôi đều đi cả, những mấy lần, hình như còn có hình lưu niệm nữa thì phải, lâu rồi, tôi không treo ở trong nhà trên tường và không để trong album để mời khách đến chơi bắt buộc phải xem. 

Những show này, có lẽ hàng trăm năm nay không thay đổi. Có anh làm trò ảo thuật rồi có anh hề ra diễn câm (Diễn câm vì cử tọa đại đa số là người ngoại quốc, phải làm sao cho mọi người cùng cười mới được). Có con cá heo cởi sú-chiêng cô thợ lặn rồi có hai ba chục cô ít quần ít áo, nhiều lông đà điểu, lông gà lông vịt đủ màu nhịp nhàng chạy tới chạy lui coi rối cả mắt. Dạo này giá một buổi trình diễn như vậy 510F (80 USD), có cả cho ăn và cho uống nhưng thật tình mà nói mỗi lần được ăn ở Cabaret thuộc vào trứ danh hoàn vũ này tôi không khỏi nhớ đến những ngày còn ở trong nội trú. Dĩ nhiên, ở nội trú, ăn xong bữa không có những bà đầm làm bếp leo lên bàn nhún nhẩy chổng mông, không có những cô lao công rửa chén cắm chổi phất trần vào giữa đít để giúp vui cho đám thực khách học trò. Nhưng mà, ở nội trú, có khi bữa ăn còn ngon hơn bữa ăn ở trong Moulin Rouge. Trò revue quốc tế này có vẻ trở thành trò lường gạt quốc tế, lợi dụng tính dễ dãi của người Ðức, người Nhật, người Anh v.v... và cả người Pháp nhà quê lên tỉnh. Nếu vào cửa, bạn quên đeo cà vạt (du khách không đeo cà vạt là chuyện thường tình), người ta có thể cho bạn mượn với giá năm, mười đô la. Ăn cơm xong, mặt bạn có còn bất mãn, người ta lại bàn đè bạn ra chụp hình để bắt bạn phải cười. Và bắt bạn trả thêm năm, mười đô la nữa để có cái kỷ niệm mặt mày ngớ ngẩn đóng khung bằng hàng chữ Mou-lin-Rouge hay Folies-Bergère, Paris. 

Thành thử ra, biết cái này rồi, không lẽ tôi lại lần mò trở lại làm gì. Hình kỷ niệm tôi đã có, tôi cũng không phải là Trọng Thủy để mà hào hứng gì cái việc Mỵ Châu lông ngỗng đưa đường. Show tôi muốn đi coi đây là Sex Show. Cái gì ra cái đó, không phải là thứ show đại gia đình đưa nhau đi coi được, hấp dẫn mấy cụ già mà vẫn mang vẻ văn hoa Tây, cũng không phải thứ show vài ba phút sau kính softcore, đây là khỏa thân khêu gợi và diễn xuất lấy ái tình thể xác làm chủ đề chính, không có ảo thuật, không có hề câm, không có nhảy đầm và không cho ăn súp lõng bõng như cơm nhà binh hay là trong trại tù. Show rõ rệt cấm dưới mười tám tuổi. Tôi ra khỏi hầm Forum, bò lên đường St Denis trở lại để điều nghiên. 

Cái rạp tiện lợi nhất nằm ngay trên con đường đã được giới thiệu này. Ngày trước tôi biết bên kia sông, ở khu Latin có một théâtre khác chuyên trị trò này, lạc lõng bên những rạp ciné Art et Essai dành cho sinh viên. Ngày đó coi phim còn phải tính coi có đủ tiền để về xe, tôi chẳng bao giờ vào được cái nơi bí ẩn “chặt” hơi nặng này. Tên rạp rất khêu gợi tôi còn nhớ rõ, “Théâtre des deux Boules”, và mục chính được quảng cáo bên ngoài là “Làm tình trên một cái lưới đặt trên đầu bạn chỉ cách có hai mươi phân”. Hai mươi phân thì cũng gần như đặt ở phía trên coi xong thế nào cũng mỏi cổ làm tôi hơi thắc mắc. Ghế trong rạp là ghế thẳng hay ghế duỗi người như ghế dài bên hồ bơi? Tôi nhớ mang máng có thời ông bầu nhập cảng cả nghệ sĩ từ Thái Lan sang, phóng phi tiêu, thổi banh ping pong và biểu diễn nuốt dao cạo, bằng cửa mình. Qua sông khỏi cần sang Vọng Các, Patpong nhưng giờ chẳng biết rạp còn hay đóng và tôi cũng không phải là Kinh Kha để mà mang dao cạo vượt giòng Seine bằng cầu St Michel hay Pont Neuf. Tiện ở đây tôi đi lòng vòng. 

Tôi đi lòng vòng bởi vì cái gì dính dáng đến ái tình, dù là ái tình sân khấu, ái tình biểu diễn đi chăng nữa tôi cũng không ưa đi thẳng. Tôi phải đi ngang một lượt, rồi lại đi vòng trở lại qua. Ðộ vài bận, lúc thì giả đò trầm ngâm suy nghĩ, lúc thơ thẩn mạnh dạn nhìn vào rạp, tôi mới suy xét xong địa thế. Théâtre St Denis nằm ngay ở khúc còn lẫn lộn những cửa hàng quần áo kiểu cọ bên cạnh những rạp vidéo, phim X. Những cửa hàng quần áo thì người ta ra vào tấp nập, cái rạp trình show này thì im lìm trang trọng như một nhà đòn đám ma. Ðợi dịp một người đàn ông đứng tuổi, áo pardessus nón nỉ dáng dấp đứng đầu văn phòng kế toán của công ty loại nhỏ lân la đọc những bài giới thiệu yết thị ngay cửa rạp, tôi cũng xà vào cho có bạn. Cô thâu viên ngồi quày ở mãi phía trong đang nhìn trần ngáp vặt không buồn hạ mắt, tôi tự tiện chắp tay sau đít đọc đi đọc lại những phóng ảnh nhật trình đóng khung. Có cả một bài của ông Philippe Bouvard ân cần quảng cáo. Ông Bouvard thì tôi có biết, ngày nào ông cũng lên màn ảnh truyền hình, ông viết tạp nham trên hàng trăm thứ báo lẩm cẩm, từ France-Soir đến Paris-Match, từ Pariscope đến báo của nghiệp đoàn bán thịt tiểu thương, vừa mô phạm quần chúng vừa về hùa với đám đông. Thành thử ra ông nổi tiếng, lời văn ông rất quan trọng, nếu ông hạ bút phê là rạp ái tình này đứng đắn thì ắt nó phải là đứng đắn. Ðại để, ông phán là bên trong hoạt cảnh tuy xác thịt nhưng vẫn nề nếp, người ta có làm tình trên sân khấu nhưng mà vẫn giữ được trang nghiêm. 190F đáng đồng tiền, mấy khi mà dung hòa được dục tính và lịch thiệp, cái này thì chỉ có người Pháp làm được. Ông bạn kế toán của tôi lẳng lặng vào, tôi quyết định vào theo. 

Cái rạp ở bên trong bé tí, có khoảng chừng năm mươi chỗ ngồi nhã nhặn và ấm cúng nhìn xuống một cái sân khấu cỏn con ở trên bày sẵn một cái giường. Ánh sáng và trang hoàng ở đây kín đáo và sang trọng, đúng như lời ông Bouvard. Những nơi như thế này, thường phạm phải lỗi lòe loẹt nếu có tiền và khi túng thiếu lại xem càng đáng tội. Ở đây, mọi thứ đều vừa phải, có gu, kể cả cái phòng ngủ rất “quận 16” ở dưới chân quan khách. Chưa đến giờ show, cả rạp vỏn vẹn có bảy người ngồi chờ đợi và tôi là người trẻ nhất. 

Một suất trong tuần, thu chỉ có bảy lần 190 là 1330F mà đủ tiền để giặt thảm sạch sẽ như thế này thì cũng giỏi. Ngoài ra tôi, cử tọa đều có vẻ là người Pháp, có lẽ một vài người Pháp tỉnh lẻ như cặp vợ chồng chỉnh tề ngoại bốn mươi ngồi một góc. Người đàn bà duy nhất hiện diện ở nơi này phấn son nhã nhặn, tóc chải đứng đắn, tất cả những đàn ông có mặt đều cà vạt, com lê, có ông cặp da như trên đường ở sở về nhà. Mình tôi là ngoại lệ, tôi tự coi tôi có cái vẻ tà gian, tôi hơi bối rối khi anh chàng diễn viên xuất hiện. 

Anh này, dĩ nhiên chẳng nổi tiếng bằng ông Bouvard nhưng tôi thấy quen nét mặt. Trong cái nghề diễn xuất con heo, nam tài tử chẳng có mấy mặt nên anh ta hình như tôi đã từng bắt gặp trên phim. Con mắt xanh lơ lẳng, mặt trơ trán bóng nhưng anh ta không đến nỗi vô duyên. Anh thuộc vào tuýt đẹp trai bình thường, phục sức cũng không có gì dị hợm, rất có thể hòa đồng được với các người ngồi xem. Chỉ có mái tóc bồng bềnh hơi đĩ thõa, một vài tiểu tiết quá đáng trong ăn vận cho ta thấy anh ta thuộc loại tài tử chứ không phải là chuyên viên địa ốc hay hành nghề bảo hiểm, luật sư tai nạn xe cộ, nhập tịch, di trú, thẻ xanh. Giày Ý Ðại Lợi của anh bằng da cừu non hơi quá nhẵn, áo sơ mi xanh bằng lụa cổ tay gài cẩn thận bằng bouton măng-xét vàng chứ không phải bằng khuy. Anh ta chào hỏi từng người, ga-lăng nghiêng mình trước phụ nữ duy nhất, khoan thai như là đang giới thiệu một vở kịch của Anouilh nhẹ nhàng về tình yêu. Không phải Feydeau, không phải Laclos, đến lượt cô diễn viên từ tốn bước ra cho khán giả chiêm ngưỡng dung nhan, e lệ cười như cô dâu tương lai vào ngày chạm ngõ. 

Ðàn bà cởi quần áo thì đã dễ nhưng anh chàng này tôi mới phục. Anh từ tốn thoát ra khỏi bộ y phục, miệng vẫn mỉm cười và màu mắt xanh lơ. Cô đồng lõa giúp anh gỡ vài cái nút, anh vẫn lịch sự dù chỉ còn quần lót Mariner và vớ Burlington. Thời buổi Aids anh giơ cao cái condom trước khi mặc vào như giáo sư cần nhấn mạnh vào khía cạnh công dân giáo dục này. Cử chỉ anh từ tốn, hai người âu yếm nhau vòng quanh giường, lúc ngồi, lúc đứng, lúc bên này, lúc bên kia để quan khách đồng đều thưởng lãm, cô tài tử cũng chẳng kém, khi rên rỉ cũng chỉ vừa phải một cách lễ độ chừng mực, nhạc đằng sau đệm êm đềm, sự việc hoàn toàn như trong một giấc mơ. Như thiên thần yêu nhau trên mây, tôi tưởng lưng anh và lưng cô đều có cánh, trên đầu hai người hào quang tỏa sáng ngời. Sạch sẽ, không vi trùng, cuộc mây mưa này là đà sương khói, ai nấy đều tươi vui như trong một màn vũ ballet. Ðược một lát, một cô thứ nhì xuất hiện, cũng xinh đẹp chẳng kém, cô này da ngăm nhẵn nhụi, cô đầu tiên lông vàng xoắn tít, họ trở thành cặp ba tung tăng như đàn bé đến trường. Anh chàng kín đáo rút lui vào hậu trường, để lại hai cô một mình với nhau đuổi bướm vờn hoa. Ðến hoạt cảnh thứ ba anh trở lại tham dự, lần này lại lộ liễu condom một lần nữa như là quảng cáo cho chương trình phòng bệnh của Bộ Y Tế quốc gia, hồn nhiên mà nô đùa tiếp tục một cách vô cùng tư cách theo đúng phong thái của con nhà có dạy, của những người lâu đời danh giá từ đời ông đời cha. 

Chẳng có gì là phàm phu tục tử, ái tình ở trong rạp này như là ngồi Salon de Thé ở Auteuil ăn bánh ngọt, vâng chère amie, cho tôi xin thêm một chút sữa, trà Darjeeling này délicieux. Cử tọa đồng thanh vỗ tay thán phục, thành phần diễn xuất xin chân thành cảm tạ, hai cô gái nhún nhẩy thụt lùi vào, anh tài tử biểu diễn ngược cái màn mặc lại quần áo. Cà vạt thắt xong xuôi anh ôn tồn nhắn nhủ. Có quan khách nào muốn hòa mình sinh hoạt với diễn viên ở nhà dưới xin liên lạc với quày thâu ngân bên ngoài để biết thêm chi tiết. Tôi thấy bấy nhiêu đã đủ, thật tình mà nói, ngồi hầu trà ông bà nhạc tương lai, cháu nó sắp nối nghiệp tôi làm chưởng khế, ấy công việc dạo này cũng bận; tôi còn thích hơn, chứ cái nhã nhặn ái tình quận 16 thế này, tôi không hứng được. Ông Bouvard nói chẳng có gì là sai cả, show này làm tình mà vẫn trang trọng, ừ, ngay cả cái này cũng cần truyền thống, đâu phải là thời tiền sử bán khai. Porno có nhiều loại, có loại thợ thuyền thấp kém, ở đây thuộc loại prof lib (hành nghề tự do và cao cấp) phóng túng. Làm tình thì tôi cũng thích coi nhưng mà trang trọng thì có tập mấy tôi cũng không cách nào tới được. Tôi hơi tủi. Chỉ có cái cách lịch sự, tự nhiên đeo condom, muốn có cái cử chỉ này phải là hội viên đánh golf lâu đời ở St Bretèche và ngồi ăn brunch đều đặn mỗi tuần ở Jockey Club hoặc sinh ra nhằm HSP (Haute Société Protestante). Tôi buồn phiền bỏ đi ra. 

Quay lưng lại, tôi thấy ông bạn kế toán lúc này còn nấn ná ở quày két, chắc là để tham dự tiếp tục vào phần hai của chương trình, phần hòa mình sinh hoạt với các diễn viên. Tôi không thắc mắc về chi phí của cái phần gay cấn này làm gì, nhất định là tôi không đủ tư cách. Tư cách không phải chỉ ở tiền bạc nhưng chỉ được chứng kiến một lần cái show tình ái trưởng giả này tôi cũng biết chẳng đến được. Nói là ghê tởm thì tôi hơi làm dáng và cũng tội cho hai cái cô thanh tú vừa mới phải dạng cẳng, ưỡn người trong kia. Thật tình thì tôi chỉ thấy chán, chán phèo, yêu đương thanh lịch kiểu này hơi nhạt nhẽo, hay là chỉ tại tôi chưa đến tuổi, chưa có cái địa vị chủ sự công sở để mà thưởng thức chừng mực và đúng mức được thôi?







CHUYẾN TÀU ĐẦU NĂM 

Không biết kiêng cữ ra sao, tôi để dành xuất hành sang ngày mùng hai. Họ hàng phân tán, bạn trai tôi không màng (tính tôi ít ưa giao thiệp với đàn ông lỗ mãng), tôi gọi điện thoại cho cô bạn gái. Ngày mùng hai nàng phải đi làm, nàng chẳng phải Việt cũng chẳng phải Hoa, nàng cũng chẳng phải Do Thái mà mùng hai âm lịch cũng chẳng trùng ngày Hannukah mà cho dù có là người Việt đi chăng nữa thì ở bên Tây tết lễ cũng có vẻ thờ ơ hơn nhiều là ở Bolsa. Tôi nhớ những năm trước, quận 13 có người Tàu múa lân xin tiền, các chủ tiệm đua nhau cột giấy bạc hai trăm (30 USD một tờ) ở đầu cái phất trần, chẳng hiểu để lấy le hay là lấy hên, cũng có đốt pháo cẩn thận nhưng tôi không phải con nít, đứng coi vài phút rồi chán. Giờ bảo tôi xuống tận đường Ivry, Choisy để mục kích cái cảnh này thì quá tội, mà lặn lội đến nhà Mutualité để coi văn nghệ hội đoàn hay sinh viên thì lại còn tội hơn. Mười lăm năm về trước, cái ngày tết “Maubert” tôi còn hăng hái, chẳng những đến coi mà lừng khừng có khi còn tham dự vào nữa là đằng khác. Tổng hội Sinh viên vào thời đó, nếu không phụ giúp cho các chị thay quần áo son phấn để tập dượt ở hậu trường thì cũng có mặt với các anh để gác cổng an ninh, khi cần hung hãn vỏ chai la-de, gậy nunchaku. Nhưng dần dà năm này sang năm khác, dân ca ba miền tôi thuộc hết, hò giã gạo với lại đập lúa tôi nghe nhàm tai, những chương trình văn nghệ Tết tôi thưa lui tới. Chọc mấy chị hoạt động thì cũng chẳng đến đâu, đánh lộn thì tôi không ưa đổ máu. Thường thường những chương trình văn nghệ như thế, năm ba ngàn người tụ họp ở nhà Mutualité (trạm métro gần nhất là trạm Maubert-Mutualité nên mặc dù nó không ở trên Place Maubert mà ở trên đường St Victor, mặc dù nó mang tên là Maison de la Mutualité hẳn hoi, người Việt ta vẫn quen gọi là rạp Maubert) thứ nhất diễn văn chính trị cho đến chín, mười giờ, nghỉ giải lao ăn chả giò ngoài hành lang, sau đó đàn ca dân tộc đến nửa đêm bắt đầu dạ vũ. Khoảng hai ba giờ sáng bao giờ cũng có ẩu đả, ghế bàn chập choạng theo người khiêu vũ. Một năm nào đó người bỏ mạng, xác kéo ra ngoài đường quẳng dưới gầm xe. Chuyện hào hứng khác mà tôi nghe kể lại là vào những ngày hội như thế, nếu bạn đứng ở ngoài đường ở sát tường của rạp thì có thể nhìn qua cửa sổ thông hơi của phòng tắm đàn bà (hay đàn ông cũng vậy) đặt dưới hầm. Gần xa nô nức yến oanh, bạn đứng trên quan sát hết mà không ai để ý. Nghĩa là ở dưới người ta không để ý chứ còn ngoài đường đi ngang thì biết ngay, vị trí chiến lược này được trấn đóng kỹ càng, tụm năm tụm mười nhưng bạn nhoẻn miệng cười thì người ta cũng có thể cho ghé đầu vào nhìn một cái. Ấy là tôi nghe nói thế, chứ phòng tắm hay chết người là những năm tôi đã bắt đầu lơ là. 

Giờ ở tận Mỹ qua, không lẽ lại canh ngày đến đó mà tìm người quen, tôi quên luôn chuyện đó. Tôi gọi điện thoại cho cô bạn, ngày mùng Hai âm lịch là ngày thứ ba, dĩ nhiên là nàng phải đi làm, lại làm ở tận ngoại ô xa. “Khoảng bảy giờ rưỡi tao mới về đến nhà” nàng dặn. Nhà nàng không ở cạnh nhà tôi, cách nhau những mấy loại phương tiện di chuyển công cộng, mất có cả tiếng, tôi canh, ngày mùng hai Tết, trời xẩm tối mới xuất hành. 

Chỗ tôi ở, phải đi dọc bờ sông một quãng rồi leo lên một cái cầu thang mới ra đến mặt lộ. Ở ngoài lộ, có đường xe buýt ngoại ô nhưng hai mươi phút mới có một chuyến, vào những giờ đường kẹt khi về nhà, tan sở, đi bộ đua với xe buýt bao giờ cũng thắng. Tôi đi bộ, độ mười, mười hai phút theo vận tốc trung bình bên này thì đến nhà ga xe lửa. Phải nói, ở bên Pháp, nhất là ở Paris, người ta đi bộ hay xe cũng vậy, nhanh hơn là bên Mỹ, nhất là nhanh hơn ở Bolsa. Ở Paris, nhìn ai đi chậm biết ngay là du khách. Dân bản xứ không bao giờ đứng cầu thang máy để nó đưa lên mà nó vừa đưa mình vừa chạy, ai lớ ngớ đứng cản đường đều ngoài vòng xã hội, du khách, người mới đến chưa hội nhập, kẻ tàn phế hay là hành khất bất cần đời. Mười hai phút của tôi, nhất định phải bằng nửa tiếng Little Saigon, nghĩa là xa. Phương tiện chuyên chở công cộng ngoại ô thành phố gồm những bốn loại xe. Xe lửa ngoại ô do Công ty Hỏa xa Quốc gia quản lý (SNCF), tàu điện ngầm nội thành (métro), tàu điện tốc hành (RER) và xe buýt do Công ty Chuyên chở Paris (RATP) đảm nhiệm. Vé xe buýt tính theo từng chặng, cỡ năm sáu trạm gì đó bạn phải trả một “ticket”. Vé RER tùy theo xa gần, métro trong nội thành lại bất kể đi tới đi lui cả ngày (miễn đừng chui ra khỏi trạm) chỉ tính có một đơn vị “ticket” độc nhất. Vé xe lửa SNCF lại tính riêng, như thế ai biết được, người ngoại quốc mà ở ngoại ô muốn vào thành phố chỉ có nước nhức đầu mà chết. Thành thử ra mấy năm gần đây, có người thông minh chia Paris và ngoại vi ra thành năm vùng (zone) vòng tròn tương tự như là một cái bia tập bắn. Vòng trong, bé nhất, hồng tâm, là Paris nội thành (zone 1 và 2) rồi đến ngoại ô gần (zone 3), ngoại ô xa (zone 4) và ngoại ô tít mù tắp là zone 5, ở cách Paris những sáu chục cây. Xong rồi, vé người ta tính tiền ngày, tiền tuần, tiền tháng hay tiền năm. Nếu như tôi, bạn ở vào zone 3, bạn chỉ cần mua một cái vé ba zone 1, 2, 3 và nguyên ngày (hay nguyên tuần, nguyên tháng) bạn muốn dùng phương tiện gì cũng được, trong phạm vi ba vùng trên và bao nhiêu lần bất kể. Từ ngày có sắp xếp này trở đi, Paris xứng đáng trở thành thành phố có hệ thống chuyên chở công cộng tiện lợi nhất thế giới, vé ngày, gọi là Formule 1, tốn 25F (4 USD), trong khi vé tháng, thông dụng hơn, tốn 270F (43 USD) vào trường hợp ba zone. Tôi mua một cái Formule 1, lấy xe lửa vào nội thành qua ngõ Gare de I’Est. 

Paris có năm nhà ga hỏa xa tất cả, trong đó ga Lyon nổi tiếng nhất nhờ đèn vàng và tiệm cơm ngon ở trên lầu mang tên Le Train Bleu. Ðèn vàng, lại Tàu Hỏa Xanh. Hơi nhiều màu nhưng tôi không có hân hạnh đến được đó, nhà tôi ở miền Ðông, tôi phải đến Gare de I’Est. Bình thường hai mươi phút có một chuyến, đoạn đường lại mất hai mươi phút nữa, nếu vào trung tâm thành phố thì giữa đường tôi có thể xuống đổi lấy RER nhanh gấp bội nhưng tôi không vào trung tâm và không tiện đường. RER (Réseau Express Régional) là một cải tiến mới có độ mươi năm nay, vẫn còn tiếp tục lan ra chằng chịt các ngoại ô, đặc biệt ở cái mùi (chẳng hiểu tại sao nhưng có cái mùi RER rất khác mùi métro, có lẽ để giúp người mù khỏi lạc), và như mọi phát minh, đang mang lại một nền văn hóa mới, đẩy xô thành phố. Nhưng chưa nói đến RER vội, tôi là người hoài cổ, tôi đi xe lửa rù rì, những chuyến tàu ngoại ô cũ mình bạc một từng (loại mới mình màu cam hiện đại hai từng) như trong bài hát của anh chàng nhà quê mặt ngố Gerard Lenorman: “Những chuyến tàu ngoại ô/ Như là cười ngạo em/Như là cười ngạo anh”. (“Michèle”, tương đương với “Tàu đêm năm cũ” với những sân ga năm 17 tuổi, uống ly chanh đường, uống ly chocolat chaud v.v... và v.v...) Chuyến tàu không đưa tôi trở về năm 17 tuổi, chuyến tàu đưa tôi đến métro. 

Nếu ở Mỹ, kỳ quan là xa lộ thì ở Paris kỳ quan là métro. Hình như ở ngoài không gian chỉ có hai công trình nhân tạo trên quả đất mà mắt trần nhìn thấy được. Ðó là Vạn Lý Trường Thành và Freeway 5 (chính nó, San Diego-Sacramento). Dĩ nhiên, métro ở Paris tuy cũng là công trình vĩ đại nhưng ở ngoài không gian dù có đeo kính viễn vọng cũng không cách nào nhìn thấy được vì nó ngầm. Métro đồng nghĩa với đường ngầm, chỉ có một vài đoạn nổi lên, chạy ở trên cầu và là đoạn thơ mộng nhất. Nhưng phần lớn nó ngầm, là một kỳ quan giấu kín do người Pháp phát minh và đến Paris nếu không viếng métro thì cũng như không uống rượu và ăn bánh mỳ, không dẫm phải phân chó và không ngồi café. Nhật Hoàng vừa mới chết - Hiro Hito gần sáu mươi năm giữ mãi trong bàn giấy một cái vé tàu điện ngầm ở Paris. Bà tỉ phú Cristina Onassis vừa mới chết, cũng từng xuống métro để người ta chụp hình, đua đòi với công chúa Caroline của Monaco (bà này còn sống, nhưng nhân tiện đây, để cho ký sự của tôi bớt phần nhợt nhạt nhẽo, tôi xin nhắc lại câu nói của một tờ báo Tây Ban Nha “Có ba loại công chúa tất cả: Công chúa trong truyện thần tiên, công chúa mang máu hoàng tộc và công chúa Monaco”). Cựu Tổng thống Giscard d’Estaing, khi ra ứng cử vào năm 74 chỉ vì không biết giá một cái vé métro dạo đó là bao mà trên truyền hình nhợt nhạt cả mặt mày không còn giọt máu tưởng tí nữa thì thất cử. Métro ngày nay, giá một vé mua lẻ là năm quan (0.75 USD), mua một carnet mười là hai mươi chín quan (4.50 USD). Người ngoại quốc ít biết khác biệt này nên những nơi nhiều du khách có nhiều người lương thiện làm nghề bán vé lẻ để kiếm lời, bán được chục cái lời ba đô la mà không hại ai tuy là business này hoàn toàn trái luật. Mười lăm năm về trước, Giscard d’Estaing lúc đó đang làm Tổng trưởng Kinh tế và Tài chánh được cả một thập niên rồi, trên truyền hình đoán mò là cái vé năm quan. Mọi người cười mãi, không ai ngờ ông này nhìn xa và giỏi tài tiên tri. 

Năm quan để đi khắp hết nội thành Paris, đâu cũng có thể đến được. Trong Paris, không có trạm métro nào cách nhau quá năm trăm thước đường bộ trong khi kiếm chỗ đậu xe có thể mất cả hàng cây số. Về nhà với vợ thì nên lái xe, có hẹn với đào nên dùng métro. Phỏng vấn tìm việc, nên dùng tàu điện, sáng thứ hai vào sở, lái xe chẳng sao. Nhanh, tiện, rẻ, métro lại vừa an ninh (RER thì khác về mặt này), tạo cơ hội trau dồi kiến thức (mỗi chuyến tàu đọc xong tờ báo), métro là cả một xã hội riêng chiếm hai tiếng một ngày. Người ta hẹn hò nhau ở trong métro, có khi làm quen nhau nữa (điều này hiếm hơn), đan áo, chơi ô chữ, dò bài, mua bán từ trái cây đến mỹ phẩm, quần áo, nghe nhạc sống, xem trình diễn ảo thuật, coi T.V. chương trình cable đặc biệt của RATP, chạy tập thể thao trong hành lang và bắt mạch đời sống. Thành ngữ “métro, boulot, dodo” (Tàu điện, đi làm, về nhà ngủ) ở đây dùng để diễn tả cái nhàm chán của sinh hoạt thường ngày nhưng métro, chán hay không, vẫn là quan trọng. Như làm, như ăn. Nhiều khi chán quá, chán đời, người ta chán cả métro, (“Métro c’est trop”). Métro là cuộc sống, mùa đông métro cho kẻ không nhà hơi ấm, thời chiến métro dùng để tránh bom, làm hầm. Métro tiện dụng, nhưng yêu métro phải là người mới đến, phải là người ở xa về. Dân Paris no ấm, ngày hai bữa métro đầy đủ, chẳng còn thấy quý nữa. 

Một năm rồi, tôi mới thấy métro trở lại nên không lấy đó làm khó chịu. Ở đây, phía Ðông thành phố, bình dân lao động, uyên ương Tàu mặt nghệt ra cầm tay nhau, những bà mẹ Phi Châu tay bồng tay bế, những người đi làm về mặt thừ ra vào trước giờ cơm. Không có những cánh tay ngà đeo túi Vuitton, không có bọt champagne sủi, ký sự đi Tây gì chán ngấy, lại vào dịp Tết nữa nhưng có ai thấy gì là Tết đâu. Tôi cũng chán nữa, và ngày mùng Hai xuất hành, ở trạm République hướng đi về Porte des Lilas, tôi cũng chẳng thấy gì Tết hết, có sao tôi nói vậy. Có cái gì thay đổi, một năm người ta lợi dụng lúc tôi vắng mặt đem đặt những thùng rác màu vàng chanh tươi mát đầy khắp nơi. Cứ mươi thước trong hành lang lại có một cái để mà vất giấy, gạt tàn. Ngoài ra vẫn vậy, đường tàu chạy về xóm dân cư nghèo vẫn những người mặt mày thiếu ngủ, lương tối thiểu có tăng lên chắc cũng chẳng được là bao, những cánh tay ngà lủng lẳng bao plastic, những cái mũi đỏ vì cảm cúm, thiếu vitamine C hay vì lạm dụng rượu. Nhưng mà tôi không ghét, Paris này tôi yêu. Không yêu sủi bọt sâm banh, yêu, yêu vậy vậy, yêu bợt bạt như những bộ mặt tái mét mùa đông, nhưng thôi, đừng đòi hỏi, bợt bạt cũng là tình cảm. Như bà cụ già mặc áo choàng xám ngồi cuối bến, bày dăm gói đậu phộng trên cái xe đi chợ kéo theo được để một bên. Ba quan một gói, chữ “3F” cụ run rẩy kẻ bằng tay trên mảnh giấy học trò xé không đều. Bà cụ này năm trước tôi vẫn gặp, tôi vắng mặt một năm, cụ vẫn đến chỗ cụ lụi cụi bỏ lạc vào bao giấy bóng kính, bán lậu cho người đi tàu, không môn bài và không giấy phép. Một năm rồi mà chưa chịu chết, vẫn loại vớ giày con nít, đôi giày thứ dùng ở trong nhà có độn bông. Bà cụ hơn tám chục, làm sao tôi yêu được như là người mẫu trên tờ tạp chí, lạc rang có ba quan một gói, chẳng ví được với catalog của những cửa hàng Duty Free ngoài phi trường quốc tế liệt kê nào nước hoa, xì gà, rượu quý. Chỉ có mỗi một món hàng, ba quan mà tôi cũng chưa lần nào mua giúp. Tôi chỉ yêu bợt bạt, chắc để đợi bà cụ chết rồi mình mới có chuyện để mà tiếc. Tiếc món lạc rang bà già bán trên bến tàu điện ngầm buổi tối, đường đưa đến nhà cô bạn mà mình chưa bao giờ được ăn.







GÓI CA-RÔ ĐỎ

Ký sự này, cho đến nay, chẳng có gì hấp dẫn. Ði Tây, đúng thì phải mơ màng, mà đến giờ tôi chưa nói được chuyện gì đáp ứng được cái đó cả. Tôi nhớ lại, ngày trước có lần gặp chị bạn ở Mỹ nhắc đến Paris chị dại ngay cả nửa tâm hồn, mắt lim dim “À... Paris... Tour Eiffel, Ðiện Versailles và Tati”. Tour Eiffel thì ai cũng biết, Ðiện Versailles đi thăm cũng đáng đồng tiền nhưng mà Tati, nếu bạn chưa sang đây lần nào thì rất là bí mật. 

Ðược chị bạn này xếp hàng thứ ba trong các kỳ quan của thủ đô ánh sáng ắt Tati phải là ghê gớm lắm. Mà Tati ghê gớm thật, ngay trong sách hướng dẫn của du khách Nhật cũng có đề. Tati không phải là viện bảo tàng, bảo tàng phải kể Musée d’Art Moderne Georges Pompidou, tức Centre Beaubourg, xanh đỏ cất theo hình nhà máy lọc dầu và được nhiều người thăm viếng nhất (Lần đầu tiên đến Los người quen đưa đến Redondo Beach ăn cua tôi cứ tưởng cái nhà máy lọc dầu ở bờ biển là viện bảo tàng Paul Getty ở Malibu). Bảo tàng phải kể đến Louvre, phòng khảo cổ Ai Cập bức tượng cụt đầu “Chiến thắng Samothrace” và bức tượng cụt tay Vệ Nữ Milo. Phải kể đến Musée d’Orsay vừa mới mở trong cái nhà ga bỏ hoang cũ, phái ấn tượng và tranh giáo đường Rouen lốm đốm bốn thứ ánh sáng khác nhau vào bốn giấc trong ngày. Phải kể đến Orangerie, phòng Manet dưới hầm với tranh hồ sen ở khắp các mặt tường panoramique, phải kể còn nhiều lắm, Paris là thành phố lắm viện bảo tàng. Ôi, nụ cười Mona Lisa bất hủ chẳng hạn, nếu được trực diện mà chiêm ngưỡng thì cũng thấy con người mình trở thành văn hóa hẳn. Nhưng Tati lại không là một viện bảo tàng, dù một loại ít được biết đến hơn như Musée Marmottan hay là Viện Bảo tàng Quốc gia Mỹ thuật Phi Châu và Thái Bình Dương. 

Tati cũng không phải là một thứ đền đài đã cũ, điện Invalides của nhà binh, đền Panthéon néo-classique để táng vĩ nhân dân tộc. Không phải là thánh đường Trung Cổ, di tích La Mã hay công trình kiến trúc mới đây và đáng quan tâm; Như Hí viện Bastille còn đang xây dang dở, cột Buren ở Palais Royal hay Kim Tự Tháp bằng kính ở Cour Carré điện Louvre do kiến trúc sư Pei vừa mới hoàn tất xong. Tati nói thẳng, khỏi lòng vòng, là một cửa hàng quần áo. Nhưng cửa hàng quần áo ở Paris thì vô khối, riêng một mục này viết mười cuốn sách cũng chưa nói đủ, nào sang trọng Haute Couture, nào trung lưu Department Stores, nào thời trang trẻ boutiques. Paris là thủ đô ăn mặc của thế giới (tuy là chiều hướng này đang lung lay). Tati nếu kể về quần áo thì cũng có đủ. Ở thành phố cái gì cũng đắt này, ngôi vị sáng chói của Tati chẳng ai địch nổi, đặc tính của cửa hàng này do một giòng họ Do Thái Bắc Phi gầy dựng từ ba mươi năm nay là cái giá. Rẻ. Không đâu rẻ hơn Tati được, có dậy sớm mấy cũng chẳng tìm ra nơi nào hời hơn. Cửa hàng đầu tiên mở ra ở khu đại bình dân Barbès trong quận 18 là nơi nhiều người Bắc Phi chui rúc, thành công tột bực khiến nó cứ phải lan dần ra từ căn này sang căn khác, lem nhem ngõ hẻm chẳng giống gì. Ngày thứ bảy, trạm métro Barbès-Rochechouart có nghẹt người cũng là vì khách đến Tati từ mọi nơi đổ xô đến, gây ra cảnh tượng hỗn hoạn không sao tả xiết, ứ đọng xe cộ ở trên đường, cả mấy xe cảnh sát không cách nào vãn hồi được lưu thông lại cho trật tự. Vào Tati shopping phải gồng mình nín thở, như vừa đi tắm hơi (người), lại vừa được massage. Thật tình mà nói, các bà các cô can đảm chứ tôi chỉ ở xa đứng nhìn không thôi cũng đã xanh xám, đi mua hàng Tati còn hơn tản cư chạy loạn, giống như những cảnh kinh hoàng rạp hát cháy hay là Kinh Kong trước khi trèo lên nóc Empire State Building. Nó rẻ đến thế nào tôi không biết tả, rẻ như là cho không. Có năm sau khi trình diễn collection một mùa đông, nhà đại thiết kế nào đó túng tiền trả thợ may cho chở nguyên xe tải quần áo người mẫu vừa mới mặc đến tháo khoán cho Tati. Nhãn không kịp cắt, mỗi một cái túi có một bộ, ở trong còn cả phụ tùng đi với quần áo, khăn, vòng tay, vòng cổ và đôi giày. Một năm thời trang người ta trình diễn hai lần, Prêt à Porter mùa hè thì trình diễn vào mùa đông, có người may mắn mua được, đến cửa tiệm của chính vị designer đó để đọ giá thì ở cửa tiệm đó chưa kịp bày bán nữa. Cả tháng sau, hàng đến cửa tiệm sang trọng này, bày ra trên kính, người khách hên của Tati mới đỡ thắc mắc. Cô ta khoe thành tích, áo bán 4500F (700 USD) mà cô ta mua có 200F (30 USD), còn trước được những bà mệnh phụ nhiều tiền mấy tuần lễ. (Ðây cũng là chuyện thật, tôi không ưa phóng đại và làm ký sự tôi luôn luôn kiểm chứng, cái áo mua hời này nhân vật nói trên có mặc cho tôi xem cẩn thận, 700 USD thì tôi không biết nghĩ gì chứ 30 USD thì rất xứng đáng. Ai thắc mắc tên nhà đại thiết kế này là gì gửi cho tôi một bao thư đề địa chỉ có dán tem sẵn tôi hứa sẽ trả lời riêng). Dĩ nhiên là kỳ đó cả xe hàng bán sạch trong vòng nửa tiếng, ai không đứng tình cờ ngay tại chỗ thì không biết, sau nửa tiếng đồng hồ Tati bình thường trở lại, nghĩa là vẫn còn rất rẻ tuy là hàng đa số xấu. 

Thành thử ra, đến Tati người ta phần đông mua những thứ phụ tùng và phụ tùng ở Tati nổi tiếng nhất là quần áo lót phụ nữ. Dân lao động di cư đàn ông vào đây rất nhiều lựa soutien, sì-líp gửi về cho hiền thê ở xứ, phu nhân các vị bộ trưởng các nước nhược tiểu đến đây ẵm về làm quà đồ lót từng va-li một. Tại nói thật, áo quần Tati cũng phải kén lắm mới tìm ra được thứ tươm tất, tuy là rẻ thì vô địch nhưng của nào hàng nấy, trừ những chuyện bất ngờ. Tôi có quen một bà ngoại quốc lịch lãm và học thức, lấy chồng giàu và tính cũng ăn tiêu. Fifth Avenue, Via Condotti, Bond StreetRue du Faubourg St Honoré bà đều có vào cửa tiệm, bà sang Paris để shopping lại có người dẫn bà vào... Tati. Ðây cũng lại là một chuyện tôi chứng kiến, tuy là như đã nói, tôi không vào theo mà chỉ ngồi ở café đợi ở xa xa cho dễ chịu. Bà này lúc đầu còn ngần ngại vì thể diện, những nơi này bà không quen mua sắm. Vài tiếng sau tôi thấy bà trở ra, mồ hôi nhễ nhại, chân tay run rẩy như vừa qua cơn xúc động lớn. Trong ánh mắt bà tôi thấy có cái gì của người hôn mê lên cơn dại, cần tịnh dưỡng một thời gian dài. Bà vừa túm vừa lê theo có đến cả hai chục cái bao giấy Tati đầy những hàng, trông bà như người vừa mới ở trong kho tàng Ali Baba và bốn mươi tên tướng cướp chạy ra, miệng bà lẩm bẩm như không tin là có thật “Tại sao lại hời thế, tại sao lại hời thế á...” Ðợi bà hoàn hồn trở lại, uống vài ba ngụm nước tôi mới đề cập đến một vấn đề rất là hệ trọng mỗi khi mua bán ở Tati ra. Ðó là thủ tiêu các bao giấy gói đồ trên đường về. 

Tati, sau khi hết chỗ để mà bành trướng ở quận 18 thì mở thêm hai cửa hàng khác ở Paris nội thành. Một cửa hàng ở khu République và một cửa hàng khác ở ngay Rue de Rennes gần Montparnasse. Rue de Rennes từ ngày khủng bố liệng bom trở thành nổi tiếng trên thế giới nhưng từ lâu đã là con đường mua sắm phồn thịnh ở khu La-Tinh. Ở đầu đường, phía gần Place St. Germain thì nó lịch sự rõ rệt, có chi nhánh của những hiệu giày, hiệu quần áo đắt tiền. Ở cuối đường, phía gần Place Montparnasse thì nó trở thành bình dân hơn với những cửa hàng chuyên bán “Sale” hay quần áo designer cắt nhãn đi (dégriffé) nhưng tựu chung vẫn rất thời trang và thanh lịch. Ngoại trừ Tati là cửa hàng đặc biệt, ở xa đã thấy vì vỉa hè đằng trước hiệu chật cứng không ai qua lại được. Từ ngoài không gian có nhận được ra không thì tôi không dám chắc nhưng đi máy bay trên đầu Paris tôi nghĩ chỉ có mình cửa tiệm Tati là biết ngay. Khách chen vào hiệu đứng chặt vỉa hè không đủ, còn lan ra cả đường dành cho xe chạy mất mấy làn và chung quanh Tati Rue de Rennes, trong vòng kính có cả chừng cây số, tơi tả trên mặt đường hay nhăn nheo trong những thùng rác giấy, những cái bao gói đồ kẻ ca-rô đỏ của hàng này la liệt như là xác pháo toan hồng trong sân nhà cô dâu vào ngày cưới. Hiện tượng này ở chung quanh cửa hiệu Tati nào cũng có, nhưng nổi bật nhất là ở Tati Rue de Rennes. Rue de Rennes là nơi đại khái thời trang, dập dìu tài tử giai nhân, người ta vào Tati phải ngó trước ngó sau, xấu hổ như là vào Sex-shop, Peep Show. Ra đến ngoài, việc đầu tiên là người ta quẳng cái bao ca-rô đỏ này đi, bỏ vào bao giấy khác để không còn tung tích chứ những cánh tay ngà mà lủng lẳng loại túi ai cũng biết này thì cũng hơi kỳ. Ði sắm đồ Tati thì ai cũng đi được nhưng lê theo tang vật bao giấy đỏ này trong khắp thành phố thì chẳng ai muốn làm. Cũng như chuyện cái lưng vậy, lưng thì ai chả có, nhưng vạch áo cho người đấm bóp thì lại khác phải không. Thành thử ra, muốn đi tìm Tati rất dễ, chỉ việc theo vết những cái bao giấy người ta xé bỏ trên đường phố, như chú bé sợ lạc đi theo con đường đã rắc những mẩu ruột bánh mỳ. Cái bao Tati thiết kế thật là đặc biệt, làm bằng một loại giấy có lẽ tồi nhất trong các loại giấy làm bao, không có đề chữ ở trên mà chỉ kẻ ca-rô nhỏ đều màu đỏ. Cái đỏ của Tati cũng đặc biệt, nó đỏ không ra đỏ, hồng không ra hồng nên nhìn bằng đuôi con mắt cũng nhận được, dễ hơn là nhìn ra hàng lụa Hermès nhiều. Thế mà ông Tati cũng giàu vậy, có lẽ chả thua ông Hermès mấy, chắc tại nhờ ông bà này và các con dậy sớm không thua gia đình kia để mà kẻ ca-rô cho đều trên giấy gói hàng. 

Cái bà hồi nãy, lần đầu tiên được dẫn đến Tati mua sắm nên còn chưa rõ cái lệ ra đến ngoài phải hủy ngay bao. Lần đó tôi phải ngồi một lúc ngoài quán với bà với mấy chục cái bao cũng ngượng. Nhưng thôi, còn chịu đựng được, bà làm sao thì làm, tôi không muốn phải đưa bà về cái khách sạn bốn sao bà ngụ ở sau Champs Elysées mà tay, nách còn ôm những gói đồ xuất xứ lộ liễu này. 

Ở trên đường métro Répubique đi đến Place des Fêtes, vấn đề bao ca-rô đỏ ít nặng hơn. Ðây là khu bình dân ở Paris có lẽ chỉ sau có Barbès, tuy là dần dà, rồi cũng đến lượt nó đang trên đà lột xác. 





TRẠM TÀU ĐIỆN LẺ

Khắp Paris không tìm đâu ra nổi một bức tượng Robespierre. Paris lắm tượng, ai chẳng biết, từ những tượng hiền lành bờ vai trắng có lá vàng rơi vườn Lục Xâm đến tượng đàn bà con gái tròn trịa nằm hớ hênh trên cỏ mướt vườn Tuileries, nhưng không có tượng Robespierre. Không có cả đến một cái tên đường nữa thì phải, tiện dịp ăn mừng năm nay sao không cải danh luôn phi cảng Orly thành phi cảng Orly - Robespierre cho vừa đẹp (phi cảng tân tiến hơn Roissy lỡ dành cho anh hùng hậu sinh Charles De Gaulle mất rồi). Phi trường Charles De Gaulle được viết tắt là CDG (Như Los Angeles International viết tắt là LAX) và Orly hiện nay người ta viết tắt là ORY. Nếu đổi thành RBP có phải dễ nghe không và Paris đúng ra phải kiếm đúng công trường nào lớn gọi luôn là công trường 10.8.1792. 

Cách mạng Pháp đến ngày 10.8.1792 bước vào giai đoạn dân chủ, lưỡng quốc anh hùng (Mỹ Quốc và Pháp Quốc) La Fayette bỏ lính chạy sang đầu Áo ngày hôm nay vẫn còn nổi tiếng nhờ thương xá tấp nập (Galeries Lafayette) trùng tên làm tôi thấy bất công. Người Mỹ sang đây shopping ưa viếng cái nơi này, tay cầm thẻ tín dụng của Bloomingdale’s (ghi chú: thẻ Bloomingdale’s có thể dùng để mua hàng được ở Galeries Lafayette và ngược lại) miệng nhắc lại câu nói lịch sử của ông tướng Mỹ lúc mang quân sang Âu Châu vào năm 1917 “La Fayette, nous voilà” (Here we are). Voilà, như người Mỹ ưa nhắc đến mỗi khi muốn dùng tiếng Pháp. Voilà, Oh la la, Quiche, Déjà vu, Lingerie, Mayonnaise, Soupe du jour và Passé (Dạo này, từ Passé trong tiếng Mỹ thông dụng hơn Déjà vu). Chỉ tại trùng tên với anh hùng của họ (ông La Fayette tên hai chữ rời, cửa hàng Lafaytte một chữ dính), làm đau khổ department store Printemps ít nhiều. (Printemps cóc cần, Printemps gỡ gạc bằng khách Nhật, người Nhật vào nhắm mắt cái gì cũng mua - “Au Printemps on achète tout les yeux fermés” - người Nhật mắt lại bé nên nhắm cũng dễ, họ lại thích Printemps là “Mùa xuân sang có hoa anh đào”). Câu quảng cáo của Galeries Lafayette là “À tout instant, il se passe quelquechose aux Galeries Lafayette”, có nghĩa “Bất cứ lúc nào, ở Galeries Lafayette cũng có chuyện đang xảy ra” phải giương mắt ra mà nhìn mới được. Quảng cáo, người ta phải đốp chát, hãng (moto) Honda bên Mỹ rao “Follow the Leader” thì hãng (moto) Yamaha rao “Don’t Follow Anyone”, bạn mà nghe thì chiều nào cũng xuôi. Quảng cáo rất cần thiết, thí dụ, tôi có quyển sách mới ra, tựa là gì, xuất bản, giá bao nhiêu mà tôi không nhắc đi nhắc lại ở đây thì nào ai biết. (Thấy tôi cứ tự nhắc mãi, ai bực mình thì làm ơn nhắc hộ giùm tôi). Thôi, trở lại Robespierre, ông này có được một trạm tàu điện ngầm ở ngoại vi thành phố, gần cuối đường tàu ở xó xỉnh Montreuil miệt Ðông nhưng ai bảo tính ông khắc khổ, lúc sinh thời đã ở chui ở dúi thì khi chết người ta có tưởng niệm bằng trạm métro nghèo nàn là phải rồi. Ở đó, tôi cũng có một mối tình (Robespierre đèn vàng, cầm tay em muốn khóc) nhưng thôi, có liên quan gì đến năm I (1792), năm II (92 - 93) của Cách mạng Pháp đâu, những người bị chặt đầu, tôm hùm và phản động Thermidor. 

Một năm nào đó, tôi ở Paris, gần công trường Bastille, có cô bạn từ ngoại quốc sang chơi lần đầu. Cô này người nước ngoài nhưng cũng văn hóa Pháp, học trường đầm từ bé tuy đây là lần thứ nhất trong đời cô đặt chân đến Pháp. Tôi ra đón, đưa cô về, lúc ra khỏi trạm tôi ân cần giới thiệu: “Ðây, công trường Bastille”. Cô đứng nhìn một lúc ngơ ngẩn rồi hỏi “Ðâu?” làm tôi cũng thắc mắc. Cái công trường rộng lớn như thế này mà cô không thấy hay sao. “Không, tao không thấy thành Bastille ở chỗ nào”. Cô ta bảo. Cái thành ấy hả, vớ được câu này tôi thích quá, ở đời ít khi được người ta hỏi những câu vớ vẩn cỡ như vậy để mà trả lời “Người ta đốt mẹ nó rồi bộ mày chưa biết sao?” Làm con gái phải bối rối thì cũng không có gì oai cả, tính tôi lại chẳng tàn nhẫn với ai nhưng đến công trường Bastille mà hỏi cái thành nó ở chỗ nào thì cũng bằng thăm viện Versailles mà hỏi nhà vua giờ còn ở đây không. Tôi kể chuyện này vì có khác những chuyện tình của tôi, nó ăn nhập đến vấn đề là một, hai là cô này không phải là người Việt Nam, sau cái chuyện un une baguette tôi phải có chuyện gì gỡ gạc chứ không tôi mang tiếng vọng ngoại, “hậu ư thiên hạ, bạc ư gia”. Ðấy, đâu phải chỉ có mình người Việt Nam nhà quê, hay phải là đàn ông xấu xí mới có điều để diễu cợt. Tôi chẳng diễu ai, tôi Việt Nam, tôi đàn ông, tôi bảo tôi: cao ráo, dễ coi thì có người cười hăng hắc, có lẽ nào tôi lại tự diễu tôi. Ngày 14 tháng 7 năm 1789 quần chúng Faubouurgs đường St Antoine hạ thành Bastille là nhà ngục biểu tượng của bất công, nơi vua ghét ai thì giam không cần cớ, tội (embastiller), bắt đốc thành de Launay, cướp kho súng mang ra làm loạn. Giờ, nếu xuống tàu điện ở trạm Bastille hướng Place d’Italie ở trên bến còn lại di tích một khúc móng của cái nhà tù cổ, giữa công trường chỉ có đài kỷ niệm cuộc nổi loạn năm 1830 đưa “quốc vương trưởng giả” Louis-Philippe lên chấp chính (Ông này trưởng giả nên không thích có con số lằng nhằng ở đằng sau tên) gọi là Colonne de Juillet. Cuộc dân biến này xảy ra vào tháng Bảy nên nền quân chủ Louis-Philippe khề khà người ta cũng gọi là Quân chủ Tháng Bảy. Từ lâu rồi, nghĩa là từ 1804 lúc “hạ sĩ con” Nã Phá Luân thành lập Ðệ Nhất Ðế Quốc, nước Pháp thôi không dùng lịch Cách mạng nữa. Năm I, năm II, lịch Cách mạng chỉ đếm được đến năm XII làm tôi hơi tiếc. Cách mạng Pháp hủy lịch cũ, từ 1792 gọi là năm I, đổi tên các tháng đi nghe rất thơ mộng và ngộ nghĩnh. Tháng Hai trời mưa gọi là Pluviose, tháng Ba trời gió Ventose, tháng Tư nẩy mầm Germinal. Nhà thơ Fabre d’Eglantine nhiều sáng kiến nhưng lịch Cách mạng không thực tế, giờ chẳng ai còn nhớ đến được, trừ vài ngày quan trọng như ngày 18 Brumaire Bonaparte đảo chánh hay lâu lâu có người nổi hứng lấy ra làm tựa sách (“Germinal”, Zola), tựa phim (“Messidor”, Alain Tanner). Nhưng hình ảnh của đạo quân rách rưới đáp lời gọi tổng động viên, chân không ra ngoài biên giới đương đầu với cả Âu Châu quân chủ liên kết lại, những người lính của Năm II, dù không có khắc trên hông Khải Hoàn Môn ở bãi Etoile (“Cuộc khởi hành của Những Người Tình Nguyện” bởi điêu khắc gia Francois Rude) ngày nay vẫn còn trong tim óc của mọi người. Nếu chán xem phim bộ Hồng Kông mãi, để thay đổi bầu không khí thì ngay tại Nam Cali bạn cũng có thể ra Tower video hay Wherehouse thuê cuốn “Máu nhuộm bãi Bastille” (hay bãi Cách mạng, trước đó là bãi Louis XV, ngày nay là bãi Concorde) tức cuốn “Danton” của Andrej Wajda với Lương Triều Vĩ - Gérard Depardieu thủ vai chính, xem cũng ly kỳ lắm éo le tình tiết, chỉ tiếc cái nguyên âm tiếng Pháp phụ đề Anh ngữ, không có ai chuyển âm ngọng nghịu sang tiếng Việt để mà lơ lớ nghe thân mật. Tôi thì tôi nhìn cô đào Ðức Angela Winkler (không có họ hàng gì với “The Fonz” của “Happy Days”) trong vai vợ nhân vật Camille Desmoulins không tôi cũng đủ thích, cô này mặt dại (đàn bà mặt dại làm tôi an tâm hơn, tôi thấy tôi khôn ra), có nốt ruồi duyên làm tôi ái mộ từ thủa phim “The Lost Honor of Katerina Blum” phỏng theo truyện của văn hào Heinrich Boll. 

Camille Desmoulins trước kia cùng với vợ ở 1, Place de l’Odéon. Thành phố Paris có cái thói ưa khắc một tấm bảng đá bảng đồng treo trước nhà những danh nhân từng đã ở. Con đường St Honoré trước kia là nơi Robespierre khổ hạnh cư ngụ thì ngày nay là lộ phí tiền tiêu hoang của lứa thiếu phụ sáu mươi đến đó mua mù-soa bằng đăng-ten và ô đi mưa gỗ chạm, găng tay da cừu non. Robespierre bị dời ra trạm tàu điện ngoại ô, công trường Vendôme với những căn nhà kiến trúc thế kỷ thứ mười bảy là nơi đóng đô của những tiệm vàng lá Kim Thành. Boucheron, Cartier, Chaumet, Van Cleef & Arpels ở kế bên khách sạn Ritz, muốn tìm bóng dáng của nhà cách mạng chỉ chịu tắm bằng nước lạnh này phải nhiều tưởng tượng. Ông này chắc Thái Âm thủ Mệnh, Nguyệt hãm Dịa nên “thân hình nhỏ, hơi cao, mặt dài, kém thông minh, tính ương ngạnh... suốt đời chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng, rất vất vả, thường phải ly tổ bôn ba, hay đau yếu, mắt kém, khó tránh thoát được tai nạn” (theo Văn Ðằng Thái Thứ Lang) lại chắc gặp phải Sát Tinh, Tiêu Kỵ đồng cung, nhiều sao mờ ám xấu xa hộ hợp “thật là suốt đời cùng khổ cô đơn, phải lang thang phiêu bạt... không những thế, lại còn hay mắc những tai họa khủng khiếp và dĩ nhiên là yểu tử” (đã dẫn). Ðúng thế, năm 1794, Hạn ông gặp phải Kình Ðà thế nào tam hợp chiếu, ông theo gót Danton đưa cổ lên cái máy do bác sĩ Guillotin phát minh ngọt lịm và nhân đạo. Ông khiêm tốn, biết mình chẳng đẹp trai nên không có ồn ào dặn đao phủ thủ đưa đầu mình ra cho thiên hạ chiêm ngưỡng, nhất là ngày hôm đó có Camille Desmoulins vợ đẹp cũng phải theo ông lên đoạn đầu đài (tôi thấy người có vợ đẹp, nói thật tôi không ghen nhưng tôi buồn cho tôi). Robespierre ba mươi tuổi chết chém, để lại câu phê bình của Mirabeau từ lúc chàng mới vào Quốc hội Lập hiến: “Tên này rồi sẽ tiến xa, nó tin vào tất cả những gì nó nói!”. 

Người dễ tin, dù là tin mình chăng nữa, làm sao mà mang tên đặt cho phi trường được. (Tôi nói thế thôi, không có ý động chạm ai, hành văn đã lệch lạc thì lâu lâu cũng phải có một câu chuyển tiếp, xin lỗi tất cả những John F. Kennedy, La Guarda và Allen Dulles, kể cả Thánh Paul ở gần ông Minneapolis). Ðược một trạm tàu điện đã là phúc (nhờ cung Ðiền Trạch tịnh minh). Căn nhà ông ở cũ tôi đi tìm không thấy, làm tôi phải lầy lội xóm Royale, đường Faubourg St Honoré thế này tôi không thích. Tôi ít tiền, đi qua những chỗ này tôi giật mình, người tôi khó chịu không được tự nhiên. Bắt tôi gí mắt vào cửa kính thì khổ quá mà vào bên trong thì chẳng ai mời tôi. Tiệm Cartier chẳng hạn, kim cương cẩm thạch của họ thế nào tôi không biết, mấy cái vớ vẩn để dùng lặt vặt tùy thân bày bán khắp nơi trên thế giới, vào loại hàng thông dụng, tôi nhìn đã khiếp. Cái đeo chìa khóa ngồ ngộ bán 300 USD một cái, hộp quẹt thì 300 USD có, 700 USD có, đồng hồ của họ nếu tôi có mà đeo ai hỏi giờ tôi tôi cũng tiếc của, chắc tôi không cho. Cái ligne “Must” của Cartier gồm ba cái phụ tùng, giây lưng, nước hoa gì đó, chỉ tên không đã khó nói. Tên là “Must”, tiếng Anh cẩn thận mà nếu đọc theo giọng Anh thì không được, đọc phải theo giọng Pháp mới đúng. Tôi lúng túng về việc này đã nhiều, chuyện ăn chơi tôi chậm tiến tôi đành giữ đường lối dân tộc nhất là phát âm theo tiếng Việt. Hộp quẹt “Mút”, đồng hồi “Mút” thôi chứ tôi chẳng mơ mộng mà dịch nó ra được là thứ phụ tùng “Bắt Buộc”. (Nhưng nước hoa “Thuốc Ðộc”, như bật lửa “Ở Bên Cầu”, như “Thành Phố Giữa Ðàng” hay những con đường mang tên “Tình Cờ” “Niềm Hy Vọng Mới”). Nói thật ra, ăn chơi rất dễ học, Cartier giờ có nước hoa “Con Beo”, đồng hồ “Con Beo” đang thịnh hành, ai mà bảo đàn bà như sư tử mỉm cười hay cọp giấy mếu máo đều trật hết. Theo Cartier, đàn bà bây giờ là “Con Beo”, tôi chỉ cần lật vài trang quảng cáo là tôi đúng điệu. Ngay cả Chaumet là tiệm kim hoàn không có bày bán tạp nham ở Duty Free phi cảng mà tôi còn biết được thì tôi phải là người thanh lịch có hạng (tuy là mình xấu, vợ cũng xấu v.v...) 

Anh em Chaumet bên này nổi tiếng từ mấy năm nay là nhờ xì-căng-đan chuyển tiền bất hợp pháp qua Thụy Sĩ. Chắc vừa mới ở tù ra nên trong Figaro Madame họ chơi ngay hai trang quảng cáo “Chaumet mãi mãi là Chaumet” có cái ảnh cửa tiệm họ ở Place Vendôme le lói như là một căn nhà ngục. Xì-căng-đan này cách đây hai năm đụng chạm đến Tổng trưởng Pháp Chalandon trong chính phủ thân hữu Chirac. Ông Chalandon lấy vợ làm tỉ phú, mặt mũi khôi ngô, tục gọi là Le Bel Albin. Trước ông điều khiển công ty Elf-Aquitaine đã tai tiếng giờ ông lại đưa vàng đưa bạc cho gia đình Chaumet gì đó để đầu tư thành ra tuy không phạm pháp nhưng mà ông cũng mất mặt với quần chúng. “Vụ” Chaumet nhờ đó mà nổi tiếng, khách quen của Tati như tôi nhờ vậy mà biết đến cái họ nhận hột xoàn cho vua cho chúa này. Kỳ này tôi về Pháp, chuyện Chaumet người ta đã quên, giờ xì-căng-đan ở bên phía chính phủ thân tả. Tôi không rõ đầu đuôi, vài ông bạn quý của Tổng thống Xã hội Mitterand dùng mánh mung rắc rối gì đó để mua bán cổ phần Péchiney và công ty Triangle lấy lời. Ðảng Xã hội đang cầm quyền dính vào đầu này đầu nọ như kẹo cao su ở trên ghế tàu hỏa chuyên chở công cộng, gỡ mãi không ra. Tôi xem T.V. thấy Mitterand tuyên bố đại khái là bạn tôi làm bậy thì tôi oa oa xịt, tôi không mời đến nhà nữa, tôi không thèm dùng bữa chung, tôi không nhìn mặt, bạn xấu tôi nghỉ chơi. Tôi thề. Có lẽ ông đang sửa soạn kỷ niệm huy hoàng hai trăm năm Cách mạng mà bạn ông làm bậy thế này ông mất vui. Năm nay ông làm kỹ lắm, đốc thúc cho xong nhà hát mới ở Bastille, Tổng thống bên Tây hình như ông nào cũng muốn bắt chước cọp, chết để lại da, một công trình kiến trúc, một bảo tàng nghệ thuật về sau còn mang tên. Hai trăm năm nữa, bạn bè xấu của Mitterand có lẽ người ta quên hết, quên cả hai Cộng hòa Thân hữu (République des copains) của cuối đời De Gaulle. Chắc sẽ còn Trung tâm Beaubourg-Georger Pompidou, còn Musée d’Orsay - Valéry Giscard-d’Estaing (?), còn Parc de la Villette-Francois Mitterand (?). Và nếu còn tàu điện, chắc cũng sẽ còn trạm Robespierre ở cuối đường Mairie de Montreuil, sau trạm Porte de Montreuil và trước trạm Croix de Chavaux. Nó xa xôi như thế, nếu chỉ vì mình ông Robespierre thì tôi cũng chẳng buồn đến. Trước kia là vì tôi có mối tình nên tôi mới khám phá ra nó chứ Paris đến ba trăm tàu điện vừa ngầm vừa nổi làm sao tôi biết hết. Ừ, khu La Tinh đông vui thì tôi đi dạo được, đường St Honoré không có tiền tôi đi ngang cũng chẳng ai bắt tôi trả thuế, tiện thể còn học lỏm được vài nhãn về lòe thiên hạ ở Bolsa trong quán café (hay trong ký sự), gần nhà thờ St Philippe du Roule hay viện Jacquemart-André (phòng Phục hưng Ý Ðại Lợi) lại thêm vẻ văn hóa mỹ thuật. Chứ còn Montreuil, trạm tàu điện lẻ tôi đến làm gì, đèn khuya hiu hắt ánh điện câm. Hay là tôi đợi đến 1992, hai trăm năm kỷ niệm 1792 tôi đến viếng còn chưa muộn, tại Paris thế nào tôi chẳng có dịp trở lại, không ăn mừng 89 cũng ăn mừng được 92.







BỨC TƯỢNG DANTON

Như tôi đã có dịp nói, con đường đầu tiên ở Paris tôi đặt chân đến là con đường Monsieur le Prince. Hai mươi năm về trước thì nó là con phố nhỏ nhiều cửa hàng Việt, hotel cho du khách nghèo và sinh viên ở trọ học nhưng rồi sinh viên thành tài, du khách nghèo ngày trước trở thành khấm khá, cửa hàng Việt dọn dần đi, con đường cũng theo đà đó mà tiến triển. Nhưng nếu nó thay đổi theo cái kiểu bỏ quần jean thắt cà vạt, xe hai ngựa trở thành turbo 16 valves thì cũng tội nghiệp với cố nhân. Không, nó thay đổi mà không xê dịch, giữ gìn như một kỷ niệm lâu rồi trở thành có giá, những cái hotel xập xệ của ngày nào người ta giữ nguyên màu nước cũ, chỉ làm cho trang trọng hơn như đàn bà sửa mũi mắt khéo, nhìn vẫn là người cũ mà hình như có cái gì hay hơn. Hotel hai chục quan một tối của hai thập niên về trước, một sao giờ lên được những ba sao, có cái ở đầu đường qua đêm phải mất 840F (135 USD) thay vì năm đô la của ngày xưa. Có lẽ cậu sinh viên Mỹ sang chơi dạo ấy túi đeo vai lần mò cuốn Europe on $10 a day bây giờ dằn American Express Gold trong túi, trở về đây chốn cũ tình nhân xưa vẫn thấy không có gì thay đổi. Jack Lemon có thể ngồi vỉa hè cầu thang ở góc xuống Ecole de Medecine và nhặt mớ thẻ tín dụng Marcello Mastroianni vừa vất như trong “Maccaroni” của Ettore Scola được. Thẻ bây giờ làm bằng nhựa tốt, hai mươi năm không đổi màu và không có mùi chua. 

Lần nào trở về Paris tôi cũng ghé lại đường Monsieur le Prince. Tôi chẳng hành hương gì, tôi thích con đường ấy, cả khu vực lân cận chung quanh nhà hát Odéon. Nhà hát Odéon, có lần đến xem kịch tôi còn nhớ được gặp Jean Ferrat. Dạo đó đi xem kịch tôi phải lo xin vé miễn phí, kỳ đó diễn tuồng tôi còn nhớ là “Le Monte-plats” của Harold Pinter. Ferrat cũng đến xem, mặc đồ trắng toát, cổ quàng khăn hơi kỹ, có lẽ chàng ca sĩ nên chàng phải là ấm yết hầu. Ferrat, lúc nào tôi chả cảm tình, bài hát “Ma môme” tôi thích lắm: “Em tôi/ Nàng không phải là sì-tạc-lét/ Nàng không đeo kính mát /Nàng không làm người mẫu cho tạp chí/Nàng làm công trong xưởng máy/ Ở Créteil”. Bài hát thuộc về cuối thập niên năm mươi, đầu sáu mươi gì đó, lúc mà chỉ có tài tử ciné hạng quèn mới đeo kính râm ngoài bãi biển và Créteil còn là một ngoại ô mù mờ chưa tân trang phát triển. Tôi thích vậy thôi chứ tôi chưa yêu được ai làm công trong xưởng máy, kể cả vợ tôi trong đó. Ngày tôi đi xem hát, được gặp Ferrat ở Paris, vợ tôi dự Festival ở Baalbek cách đó 3000 cây, được gặp Aragon. Chúng tôi lấy nhau, mua đĩa Ferrat hát ca từ Aragon về nghe, tâm đầu ý hợp nhưng đó là chuyện sau này, đây chỉ tiện dịp tôi yêu vợ nên tôi mang ra mà nhắc, vợ tôi lại có người chê xấu, nhà quê, làm ruộng, nên tôi lại lấy cớ văn hóa của nàng thế này để mang ra mà khoe. Còn xấu thì tôi chịu, mắc mớ gì đến ai và cũng chẳng mắc mớ gì đến con đường Monsieur le Prince là chuyện tôi đang nói. 

Con đường này, cũng có lần khác tôi xem kịch bỏ túi, ngồi dưới hầm uống Sangria độ dăm ba chục người chật ních trước ngay sân khấu, vở gì đó rất nổi tiếng của Sartre mà giờ hút nhiều thuốc có hại tôi quên mất. Văn hóa thế nào tôi cũng không biết, ngày đó tôi ngồi uống hết cốc Sangria, mặt mày xây xẩm, tuồng diễn đến chỗ anh kép thốt câu duy nhất mà tôi thuộc: “Ðịa ngục là kẻ khác”, là tôi đủ đắc ý rồi. Ngoài ra, hình như tôi chỉ lo nhìn cô đào uốn éo thì phải, cô ta nằm lăn ra đất ngay trước mặt, cô ta nói gì tôi không hiểu, có lúc cô ta hở quần lót trắng. Xem kịch thích hơn xem ciné là ở chỗ đó, người thật và nổi ba chiều. Ngày nay, cái rạp hát đó trở thành Club chơi nhạc sống Nam Mỹ nhưng mười, hai mươi năm rồi đại để con đường vẫn còn nguyên. Có thêm một tiệm sách BD (tức là Bandes Dessinées, sách hình) mở ra ở đầu đường phía đại lộ St Michel, thêm một quán Pizza của hai anh Mỹ làm theo Luxembourg vẫn chiếu những phim hay như cũ, lúc tôi đi ngang người ta nối hàng dài đợi xem ấn bản mới của phim “Paths of Glory” của Kubrick là phim hoàn tất từ 1957. Phim này đen trắng, không tô màu (colorize) lại mà ba mươi hai năm sau vẫn có xếp hàng để đi xem thì hơi lạ, tôi ít thì giờ, phim bộ Hồng Kông mới vừa ra mà tôi còn chưa mướn về nhà nên tôi không để ý. Với lại, thật ra, tối đó tôi còn đang lo tìm kỷ niệm, nhất là rạp hát này, lúc trẻ, đã có lần tôi coi cọp, len vào trong bằng cái lối ra nên khỏi phải trả tiền. Xếch phía bên kia đường là tiệm ăn Zéro de Conduite, đang nói ciné thì tôi cũng nhắc, tên cửa quán lại đặt theo tựa của cuốn phim làm Jean Vigo nổi tiếng năm 1926 (1926 là tôi nói bừa, có thể nó 1932). Ði xuống một chút phía tay phải là tiệm ăn tôi không nhớ tên nhưng nhìn là nhận ra ngay, nó trang hoàng như một cái kho đồ cũ, hoàn toàn Baroque như là phim (đã lỡ đề cập đến điện ảnh thì tôi làm luôn, nào) của Téchiné (năm 1978?). Baroque nữa mà cùng đường thì có tiệm cơm Việt Nam, mang tên “Lạc Hồng”, trông giống như một tòa lâu đài Tàu gánh xiếc, tiệm ăn này có lần hiếm hoi tôi mua hoa bán dạo (ở Paris ngồi tiệm ăn nào cũng năm bảy lượt có người rao hoa hồng mời chào) một cách rất nhà quê (tôi cũng nhà quê nên có lẽ vì thế mới kén vợ có dáng dấp làm ruộng). Người con gái được diễm phúc hiếm hoi này giờ có lẽ vẫn còn ở Massachusetts, có đến đời chồng thứ ba chắc phải khóc sướt mướt năm rồi vào ngày Dukakis thất cử. Không biết nàng còn nhớ, những ngày ở Paris xa xưa trước có người học thuộc lòng Kathleen Raine để đọc cho nàng nghe (“And from that polluted bed arise/ New suns, new sons, new sons, new loves, new skies”) và căn phòng khách sạn nhìn ra thánh đường Notre Dame nơi Cendrars có thời ở trọ. Ði giật lùi mười bước nữa, cũng cùng một vỉa hè, có quán La Godasse. Quán này steakhouse cũng có người bán hoa ra vào nhưng về sau lớn lên tôi chẳng dại dột (hay chẳng còn gan) bẽn mặt mà mua hoa kiểu đó nữa. Cô bé học Hypokhâgne Henri IV, lúc đó mặt còn tàn nhang như cô Massachusetts, cô bé ngồi mơ mộng đường công danh thi cử, về sau này gặp lại cô trở thành bác sĩ, mặc áo trắng cầm ống nghe không được cầm phấn gõ bảng đen. Cô thích thế kỷ mười sáu, đời cô sau này chỉ được nghe những người húng hắng ho khan làm tôi buồn hộ. Tôi buồn hộ, rồi buồn lây nữa, nhưng lần sau này, cũng ở con đường đó, cũng ở quán La Godasse, tôi không còn cầm tay (cầm chân, cầm giày) cô. 

Có lẽ tôi thích con đường này vì nó đầy kỷ niệm chứ nó chẳng cây dài bóng mát chút nào. Hàng quán nào tôi cũng có vào, tôi lắc tin ở quán Tabac đầu đường (ở Pháp, có hai loại Café. Café bán nước gọi là Café và Café có thêm quầy thuốc lá gọi là Tabac. Tabac ở phía ngoài có đánh dấu cẩn thận bằng một củ cà-rốt đỏ, có bán vé số Lotto, bán tem bằng giá bưu điện và vé métro, xe buýt để phục vụ quần chúng) tôi hớt tóc, có lúc tôi mua cả giày, vé máy bay ở con đường đó, tôi vào cả cửa hàng xén Phú Xuân nơi có hai cô con gái ông bà chủ, cô em người Huế, cô chị cũng người Huế, hai cô này Việt Nam và không có tàn nhang. Hôm nay, tôi đi ngang vào lúc tối, cửa hàng đóng cửa nhưng vật đổi sao dời, có lẽ buôn những cái lỉnh kỉnh exotic đã hết thời nên giờ cửa tiệm xoay sang bày kim châm cứu với lại những họa đồ huyệt đạo trên cơ thể coi rất là khủng khiếp. Cô em cô chị đi về đâu, tiệm sách Racine ở phía trên cùng đường đã gỡ đi hai câu thơ của Maiakovsky trước vẫn ngoài cửa kính “Tôi biết sức mạnh của những chữ/ Sức mạnh của những tiếng chuông”. Số 20 vài ba năm trước là nơi một hôm sinh viên Malik bị cảnh sát đã chiến của biệt đoàn lưu động moto của thành phố Paris đánh chết giờ vẫn còn những hàng chữ nguệch ngoạc của kẻ vô danh tưởng nhớ ở trên tường nhưng tôi nhìn quanh quẩn không thấy còn những vòng hoa. Nhà xuất bản Arthaud đóng đô ngay ở đó, tôi nhìn lên trên lầu, trần vôi người ta làm lại cẩn thận những cột xà gỗ cũ dọc ngang. Tôi đi lên rồi lại đi xuống, hai mươi năm, cái mái tranh của quán Disco La Paillotte bên kia đường vẫn còn nguyên cái vẻ tơi tả của lúc đầu. 

Ở đây, chỗ nào tôi cũng có vào, không lẽ tôi lại đem ra kể hết. Tôi ra đầu đường phía Place de L’Odéon gần Boulevard St. Germain. Ở đó núp vào một góc có cái quầy bán crêpe, người Mỹ gọi là pancake. Crêpe ăn ngoài đường ở Paris vào mùa đông, có cái trước Café Select-Latin ngay nơi St Germain và St Michel đụng nhau nhưng tối thứ sáu người ta nối đuôi nhau đông quá. Ngay ở chỗ này hơi khuất một tý đường trong mà cũng có năm bảy người xếp hàng trước mặt tôi. Anh làm crêpe múc một muỗng bột pha sẵn như là bột làm bánh cuốn đổ lên mặt sắt nóng có bôi dầu. Tay anh nhuyễn điêu luyện cũng phải mất một phút nó mới chín đều, anh dùng con dao mỏng nạy ra, xếp lại như hình cánh quạt, vỗ một cái, không cử động nào thừa, bỏ vào bao giấy. Beurre sucre tám quan làm căn bản, rắc rối có cả crêpe jambon với lại hột gà. Tôi thích ăn crêpe chocolat nóng, có người thích crêpe Grand Marnier rượu mạnh. Ðây là crêpe ăn quà vặt ở ngoài đường chứ vào tiệm Crêperie cẩn thận thì crêpe mềm crêpe cứng, crêpe mặn crêpe ngọt lắm thứ lắm, muốn gì cũng có, ngâm trong sauce tan ra trong miệng hay ròn rã bột froment như là bánh xèo của ta. Tôi ăn crêpe chocolat mười quan một cái, tôi phải ăn những hai. Tôi cầm gói giấy đôi, đi bộ hai ba mươi thước ra đến cái công trường bé. Tối thứ sáu giờ này náo nhiệt, ngay trạm métro Odéon nhiều người lên xuống, xe hơi xe buýt dậm chân tại chỗ. Tờ Le Monde đặc biệt về Cách mạng 1789 Số Hai vừa mới ra, nhiều người đứng ngắm nghía cái tranh màu hình Mirabeau. Michel Vovelle (sử gia chính thức của lễ kỷ niệm năm nay) đồng ý phục hồi vị này với Francois Furet (sử gia “xét lại”, hậu thân của trường phái Annales), nước Pháp trên việc này trung tả trung hữu đều chung chung đồng ý. Tôi ngồi bệt xuống cái bệ dưới chân pho tượng Danton. 

Bức tượng Danton dựng ngay ở lối ra vào métro Odéon là nơi rất tiện để người ta hò hẹn. Trạm Odéon ở khu La Tinh chiếm một vị trí chiến lược, đến đâu cũng gần, ăn chơi, xem hát, nhạc kịch và mua sắm, dù là mua sách hay là quần áo. Odéon là chỗ hai đường tàu điện giao nhau, đường Nam-Bắc Porte d’Orléans - Porte de Clignancourt và đường Ðông-Tây Gare d’Orléans - Austerlitz - Porte d’Auteuil, chỉ trên hai đường này đã có ba nhà ga xe lửa và hai nhà ga RER tốc hành ngoại ô nên người ta chiều cuối tuần hẹn nhau đi chơi mà chưa có chương trình ấn định thì hẹn ở đây là phải đạo. Gặp nhau rồi, vào Café giở Pariscope, Officiel du Spectacle (là tạp chí hàng tuần liệt kê tất cả các mục giải trí ở Paris giống như tờ L.A. Reader) bàn cãi sau. Tôi ngồi xuống, chung quanh tôi mươi người nhìn ngang ngửa chờ đợi. Có tốp kéo đến, gặp bạn, hôn nhau, kéo đi. Có người ngẩn ngơ bước tới bước lui sốt ruột. Quán nước phía bên kia đường đầy ắp. Rạp UGC Danton ngay trước mặt chiếu bốn phim cả Mỹ bốn phim: Cocktail - Tom Cruise, L’Adieu au Roi - Nick Nolte (Farewell to the King), Veuve mais pas trop - Michelle Pfeiffer (Married to the mob) và Gorilles dans la brume - Sigourney Weaver (Gorillas in the Mist). Bốn phim này, tôi chỉ coi được có tuồng Married... lúc ở trên máy bay, buồn cười lắm nhưng nửa phim thì tôi ngủ gật, chẳng phải tại phim, tại tôi đi máy bay ưa buồn ngủ thôi (Tôi buồn ngủ như tôi buồn cười. Thanh Tâm Tuyền?) Hệ thống ciné UGC hơi lố lăng thương mãi, tôi không thích mấy, nhìn sang bên cạnh tôi lại bực mình. Quán Café trước kia mang tên La Bonbonière màu hồng dễ thương giờ sơn lại vàng vọt Fast Food, hamburger, sandwiche chổng chơ vài cái bàn ghế loại đứng tựa vào nửa người. Anh chủ mới này tính sai, chạy theo thời trang lỗ vốn, chẳng thấy ai, trước kia bàn ngồi kiểu cũ, bán expresso cổ điển bản xứ tôi nhớ nó lại đông người. Ðáng đời. Nhìn trước tôi gai mắt, thôi tôi nhìn lên. 

Ông Danton mập mạp vẫn còn đó, bên trên cái đồng hồ công cộng không biết dựng từ năm nào, tuy vẫn chạy đúng giờ mà nước chữ 3, 6, 9, 12 đã phai màu hay tróc mất từ lâu. Ông Danton ở trên cao, tượng dựng năm nào thì có đề cẩn thận. “1898”, do thị xã Paris thực hiện. Ông này tuốt ở trên bệ nhưng những ngày đường phố nổi loạn tôi cũng đã có dịp leo lên bá cổ ông để mà xem xét dùi cui và khói lửa đạn cay đằng xa. Georges Danton, 1759 - 1794 Bộ Trưởng Tư pháp 10 tháng Tám - 9 tháng Mười 92, Dân biểu thành Paris tại Quốc hội. Hai bên bệ tượng còn trích hai câu hoa thơm cỏ lạ mà ông có lần phát biểu “Muốn chiến thắng kẻ thù quốc gia, chúng ta cần táo bạo, thêm táo bạo, lúc nào cũng táo bạo”. Bên kia là “Sau bánh mỳ, điều mà nhân dân cần nhất là giáo dục”. Thấy không, lại bánh mỳ. Hai câu này vô thưởng vô phạt, bánh mỳ thì ông này lúc sinh thời cũng thích ăn thích uống và táo bạo thì trước khi lên máy ông còn nhắn với đao phủ thủ “Nhớ đưa đầu tao ra cho quần chúng xem, đáng đồng tiền”. Tôi nhìn kỹ lại, mặt ông này tôi không thấy đẹp trai. 

Ðược một lúc, ngồi mút đi một mút lại hết những ngón tay còn dính tèm lem chocolat tôi mới để ý đến cô bé. Cô này rất trẻ, dáng dấp nhà lành miệt Tây thành phố, cardigan len tốt, tóc thắt nơ, thế nào chị hay mẹ cũng thuộc loại Nappy, BCBG, khăn vuông Hermès. Nhưng chính cô bé thì còn trẻ, ngây thơ tội tình gì làm sao tôi nỡ ghét. Cô ta chắc chỉ chừng mười lăm mười sáu, xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê, tóc hoe cắt vuông, người cao chưa nẩy nở hết. Tối thứ sáu đứng dưới tượng Danton ngớ ngẩn đã mười lăm phút rồi tội nghiệp chẳng biết bị bạn gái hay là kép xù. Tôi tiếc tội háu ăn, phải còn chút chocolat dính vào bao giấy đựng crêpe biết đâu tôi chả dụ nàng được, giờ bắt tôi xếp hàng đi mua lại thì tôi già rồi. Thôi chắc để hỏi nàng một câu ỡm ờ vớ vẩn để làm quen kiểu “Mày chắc giờ này nó còn tới không?” hay là một câu trống không chẳng cần được trả lời: “Tại sao người ta dựng tượng Danton mà không ai dựng tượng Robespierre?”. 






CÁI HÌNH CHỚP NHÁY

Cách đây khoảng năm năm về trước, một ông bạn người Mỹ sang Pháp chơi than phiền với tôi: “Sáng tao dậy, bật TV lên, chẳng có gì”. Chẳng có gì ở đây không có nghĩa là chẳng có gì coi được, chẳng có gì hay ho, mà là chẳng có gì hết. Chẳng có gì hết trọi. Bật lên, ngồi đợi cho màn ảnh nóng, rồi nhảy từ đài này sang đài nọ cũng chỉ bắt được mấy con “bọ” li ti trắng đen ngọ nguậy nhìn đến nhức đầu. Ngày nay, TV Pháp buổi sáng đã có chương trình nhưng thói quen coi TV vào lúc những hạt sương còn đọng trên cỏ bìa rừng Boulogne vẫn còn ít thông dụng hơn thói đi chợ vào lúc trăng đã lên đến đỉnh Tháp Eiffel. Không đi chợ đêm, không coi TV sáng, đời sống bên Tây buồn nản, hết ra ngoài đường ăn uống lại về nhà nằm, chẳng phải nằm coi game show nằm coi soap, về nhà nằm ôm nhau. 

Cái chuyện người ta nằm ôm nhau tôi không căn cứ vào dự kiện thu nhập được một cách khoa học, tôi chỉ dựa vào phim ảnh, truyền hình do mấy ông tây bà đầm thực hiện. Một chương trình truyền hình Mỹ, người ta phải có cốt truyện, sườn bài, đơn giản thôi, nhưng mà phải có. Mới vào đầu, người ta xếp đặt cái gay cấn trong vòng hai phút để gợi sự chú ý rồi ngưng, quảng cáo. Thí dụ, một anh sáng chủ nhật đang đẩy xe cắt cỏ ngoài vườn trước nhà tự nhiên có một xe đỗ lại. Ba người lạ mặt hung dữ bước xuống dùng súng MAC 11 có gắn ống hãm thanh, dùng S&W 29 si kền, dùng Ruger Mini 14 có gắn ống nhắm, nhất loạt nã vào người anh cỡ chừng bốn năm mươi viên đạn đủ loại, 380 acp (còn gọi là 9mm short), 44 magnum và 223 Remington (còn gọi là 5.56 NATO). Anh ngã xuống, họ bỏ chạy, bãi cỏ trước nhà chưa kịp cắt (bãi cỏ trước nhà chưa kịp cắt trong tâm lý quần chúng Mỹ tự nó đã là một thảm trạng), cái máy vô tình vẫn tiếp tục chạy, cỏ cắt rồi từng mảnh vụn văng tung tóe vào mặt người xấu số. Ta còn đang hồi hộp, tim đập 120 nhịp trong một phút tự nhiên một cái Pick Up trờ tới, ba anh khác bước xuống (ba anh này mặt mày thân thiện) khuân vác gì đó trong nháy mắt, ta chưa hiểu chuyện gì, ba anh đã ngồi bệt xuống khui bia ra uống với nhau. Nhạc bài hát “This Bud’s for you”, mọi người vui vẻ, bí mật của án mạng vừa rồi đợi lát nữa (sau khi uống bia xong, sau khi giặt quần áo đẹp hơn là lúc mới, sau khi xe hơi được biểu diễn trên những con đường khúc khuỷu, v.v... một lúc lâu) sẽ có hai thám tử của cảnh sát mặc đồ đẹp mặt mày trầm tư đi Ferrari đỏ đến để giải quyết sau. Ðó là một chương trình truyền hình Mỹ. Sẽ có rượt đuổi bằng trực thăng (bắt buộc trực thăng ít nhất là một chiếc sẽ phát nổ trên không), bằng xe hơi (bắt buộc xe hơi ít nhất là vài ba chiếc lăn xuống vực thẳm), sẽ tốn rất nhiều đạn đủ ca-lip súng ngắn súng dài và sẽ có rất nhiều quảng cáo (lại bia, lại thuốc giặt, lại xe hơi). 

Một chương trình truyền hình Tây thì khác hẳn. Hai người ngồi ăn trong một quán. Chàng nói một câu, ăn một miếng, nhìn nàng. Nàng nhìn lại, ăn một miếng. Chàng rót rượu, nói một câu thật dài. Nàng uống rượu, tiếp tục nghe một lúc rồi mới trả lời. Chàng ngưng ăn, ngưng uống gật gù rồi ăn trở lại, uống trở lại. Nàng ngưng nói, cũng ăn, cũng uống. Ðến lượt chàng nói. Rồi đến lượt nàng nói. Có khi hai người cùng nói, có khi im lặng hai người cùng ăn, không bắt buộc là phải người này nói thì người kia ăn, mà mãi thì không thấy quảng cáo, đợi đến sốt ruột. Họ ăn cơm Tây, có lúc ăn cơm Tàu, nhưng lúc nào cũng uống rượu đỏ, rượu trắng, ít khi uống rosé. Họ nói năng gì với nhau không biết, tự nhiên thấy họ nằm trên giường, chàng đắp chăn hở ngực, nàng ra khỏi giường khỏa thân đi tìm thuốc lá. Lâu lâu thay đổi, nàng nằm trên giường, đắp chăn hở ngực hút thuốc, chàng ra khỏi giường khỏa thân vào phòng tắm. Họ lại vẫn nói, nói năng gì với nhau không biết, tự nhiên thấy họ ngồi trong quán ăn trở lại. Kỳ này vẫn chàng đó mà nàng thì lại một nàng khác. Hay vẫn nàng đó mà chàng kia lại khác. Họ cũng ăn như hồi đầu, nói như hồi đầu. Ðược một chốc (vẫn chưa thấy quảng cáo) họ nằm trên giường trở lại, nàng khỏa thân ngồi đó, chàng khỏa thân nằm nghe. Nàng duỗi chân ra, tìm hộp quẹt. Chàng co gối lại, kiếm gạt tàn. Trên giường ít khi nào họ ôm nhau vật, giường không phải là đấu trường tỉ võ, họ chỉ nằm ngồi, đứng dậy, vào ra, nói chuyện và hút thuốc un khói cả lên. Ðến đây bỗng nhiên thấy một cái giường khác, hai người khác nằm trong, không nói năng gì nhưng có nhạc. Còn đương thấy lạ thì nàng xuống giường ra kéo màn cửa sổ. Ánh sáng buổi sớm hắt vào khuôn mặt chàng dịu dàng mỉm cười, nhưng mà ủa, tại sao nàng không cởi truồng mà lại mặc quần lót? Thì đây (đợi mãi mới đến lúc) quảng cáo, mà là quảng cáo quần lót. Ðó là một chương trình truyền hình Pháp. Hết ăn tiệm rồi ăn nhà, ăn xong rồi lại ngủ nhưng mà kỳ lạ, họ đi ngủ thì chẳng bao giờ thấy, cái đó chắc để cho khán giả tưởng tượng ra, chỉ thấy vào lúc họ dậy, không quần áo nhởn nhơ qua lại, bàn với nhau tiếp tục về chuyện: “Thôi, giờ mình đi ăn ở đâu?” 

Ở Paris hiện nay có sáu đài truyền hình khác nhau, phát hình khoảng từ mười đến mười sáu tiếng mỗi ngày, có đài liên tục nhưng thực ra chương trình lặp đi lặp lại. Trong số này, năm đài phát hình miễn phí, một đài cần phải có máy đóng tiền thuê để xem. Canal+ thuộc đủ thể loại, không chuyên chú như ở Mỹ, có lúc gia đình như “HBO”, có lúc văn hóa như “Z”, có lúc “X” hẳn hòi. Năm đài còn lại, hai đài của nhà nước (đài A2 và FR3), đài TF1 của vua bê tông cốt sắt Bouyghes, đài 5 thuộc về đại đế báo chí Hersant và đài M6 là đài bé nhất, nhắm vào giới trẻ ngọ nguậy, kiểu MTV. Nhưng nếu bạn nghe tôi tả chương trình truyền hình Pháp ở đoạn trên bạn cho là đáng chú ý, sang đến Tây bạn vội vã bật TV lên để kiểm chứng thì thế nào cũng thất vọng. Không phải là tôi nói láo, thực sự thì một chương trình Pháp đại để như tôi vừa kể, nhưng tại vì TV Pháp rất ít có chương trình do chính người bản xứ thực hiện. Bật TV ở Paris lên, bạn sẽ gặp Santa Barbara, Miami Vice, Chips, Startrek, Kojak, Dallas v.v... và v.v... nhiều hơn là phim ciné hay là phim truyền hình địa phương. Lý do dễ hiểu là lý do tài chánh. Ở bên Mỹ mỗi khi thực hiện truyền hình, người ta đã tính sao lấy về đủ vốn với lời ngay tại nội địa Hoa Kỳ. Lấy vốn về xong, có lời rủng rỉnh, người ta đem bán ra ngoại quốc để có thêm ít tiền tiêu vặt, café, nước ngọt cho gia đình Ewing hay thuốc lá cho Columbo. Một giờ truyền hình, nếu thực hiện tại Pháp, không có rượt đuổi bằng trực thăng, không có xe hơi lăn xuống vực, chỉ có ngồi quán và nằm trong giường đã tốn phí khoảng 200.000 USD. Trong khi đó một giờ truyền hình gốc Mỹ, có bắn súng đủ loại, người Mỹ bán cho người Tây với giá rẻ mạt là 20.000 USD. Hai chục ngàn này, thật ra chỉ đủ để Sue-Helen uống rượu nhưng Dallas chỉ chiếu không ở Mỹ đã đủ lời, bán thêm cho TV Pháp, TV Ðức, Hòa Lan, Ðan Mạch, Ý Ðại Lợi, Ấn Ðộ, Nam Dương quần đảo gì đó, mỗi nơi chỉ cần lấy thêm vài xín tượng trưng. Thành thử ra, Mr. T nổi giận lên, ở Nairobi, ở Dublin, ở Dacca đều biết, cô y tá nào có thai với bác sĩ sản khoa ở trong “General Hospital” người ta đàm tiếu từ Manila đến London. Paris không phải là ngoại lệ, con nít ở đây vừa mới lớn đứa nào cũng mua cái tai giả của Mr Spock về đeo, ít đứa nào chịu lấy lê độn vào ngực để bắt chước Brigitte Bardot của ba mươi năm về trước, chiếc Starship Enterprise từ từ lướt trong vũ trụ dĩ nhiên là nổi tiếng hơn cái cầu thang khách sạn ở trong “Năm ngoái tại Marienbad” của Alain Resnais. Và ngoài lý do tiền bạc ra, phải nói thật, chính tôi cũng thích “The A Team” hơn là “Glissements Progressifs du Plaisir” của Robe-Grillet. 

Ðể nâng đỡ nền văn hóa bản xứ, luật nước Pháp bắt buộc các đài công cũng như tư đều phải có phát hình tối thiểu một số chương trình hoặc Pháp hoặc Âu Châu. (Luật lệ này, đài 5 là đài không bao giờ tôn trọng, vừa rồi bị phạt hai triệu Mỹ kim để bỏ vào quỹ giúp đỡ điện ảnh Tây). Ngược lại, như đã trình bày, mỗi khi phải thực hiện chương trình ngay tại Pháp, người ta sợ cạnh tranh không nổi với Hoa Kỳ về vấn đề “action” hay vấn đề lem nhem tình cảm xã hội nên người ta nhấn mạnh trên những vấn đề tâm lý. Nói nhiều, ăn cũng nhiều, vừa nói vừa ăn tối cởi quần áo đi qua đi lại. Những ai để ý đến những vấn đề này, xem TV Pháp ắt là phải thích. Tôi lấy ví dụ ngay đến cả các game show.

Từ ngày có tự do tranh thương mại giữa các hệ thống truyền hình, đài nào cũng bày ra game show từ sáng đến tối. Tự mình bày ra thì cũng lại tốn kém, người ta sang Mỹ xin license của những show thịnh hành ăn khách cho đỡ phải mất công. “The Wheel of Fortune” cũng có ở bên Tây, dĩ nhiên với người hoạt náo Tây, người dự thi Tây và giải thưởng bằng tặng vật và hiện kim Tây. Nhưng chỉ khác có bấy nhiêu, ngoài ra “La Roue de la Fortune” hoàn toàn giống cái show này ở Mỹ. Làm tôi vừa coi vừa băn khoăn tự hỏi, không biết bên Ấn Ðộ người ta có nhập cảng hay không chương trình đố vui truyền hình này, và nếu có thì giải nhất là bao nhiêu thùng dầu cù là do Union Carbide trao tặng. Nhưng đến game show mà liên hệ về luyến ái thì dĩ nhiên là người Pháp vô địch. 

Ở bên Mỹ, những show loại này thì nói lại nhiều mà ra tay hành động thì lại ít. The Love Connection, The Dating Game chỉ bóng gió xỏ xiên nhiều khi đến độ bệnh hoạn. Nó tục thì không bao giờ tục hẳn (beep)... nhưng tục xa tục gần làm như là bị ám ảnh tâm thần. Người Pháp thẳng thắn hơn, những show đã lấy sex làm đề tài giải trí thì thoải mái hẳn, không có chập chờn một lời mà hai nghĩa với lại bướm vờn hoa, ong hút nhụy. Thí dụ, có mục trả lời thư tín tên truyền hình tương tự như Penthouse letters. Người hỏi được phỏng vấn trên màn ảnh và sau đó người phụ trách là một bà đứng tuổi nằm duỗi người trên ghế vừa ngáp dài ngáp ngắn trả lời. Nó không được đứng đắn hay giáo dục như là trong chương trình của Dr Ruth, cái bà duỗi người không phải là bác sĩ mà cũng không có tham vọng giáo dục ai. Thoải mái lắm, để rõ hơn tôi phải lấy ví dụ khác. Người ta cầm máy thu hình ra ngoài phố hỏi mấy anh mấy chị nào hứng chí tình nguyện cho xem quần áo lót chẳng hạn. Vậy mà chương trình này cũng có người hưởng ứng được một cách thụ động đã đành, các “thí sinh” tích cực tham gia các show này cũng không thiếu. Có chương trình mời các cặp lên hỏi đố, cặp nào không đáp trúng phải cởi một món đồ ra cho đến khi hết thì thua. Phải những chương trình này thuộc loại câble, cần access code thì tôi không nói. Nó phát hình vào lúc mười giờ tối nhưng ai tò mò (như tôi) cũng có thể bật TV vặn lên coi. Có cái, con nít bên Tây có lẽ chẳng phải vì thế mà đâm ra ông bà cụ sớm, tôi thấy hình như nó vẫn đùa hồn nhiên và rượt đuổi nhau trước cổng trường như con nít ở mọi nơi. Những cái lộ liễu này làm hạ hỏa hay tăng hỏa tôi để cho những nhà xã hội học và các thầy lang thuốc Bắc mang ra mà bàn cãi, riêng tôi thì những loại chương trình như thế, thỉnh thoảng tôi coi tôi cũng thích, thấy ít bực mình hơn là những cái nháy nhó của The Dating Game mà cho đến ngày nay, thường thì coi xong tôi cũng ngồi cười khẩy chứ chưa bao giờ chạy ngay xuống phố mà tốc váy người qua lại. Nhiều khi tôi còn nghĩ, biết đâu rằng, bên Iran chẳng hạn là nơi truyền hình phải đứng đắn, lại chẳng có khối người đầu óc còn lệch lạc hơn ở bên này. 

Nói thế thì có vẻ thiên vị Pháp. Chẳng sao, An Nam ta trước giờ vẫn thích Tây, tôi chưa thấy ai thích Iran cả. Nhất là khi đề cập đến ái tình. Ðối với chúng ta, ái tình trên màn ảnh truyền hình thì Iran nhất định phải thua Pháp, chỉ khi nào ngoài biển, không có truyền hình họ may ra còn gỡ gạc đôi chút như trong bài hát: “Với biển cả anh là thủy thủ/Với lòng nàng anh là hoàng tử/Như truyện ngàn đêm xứ Ba Tư...” Cái nhìn chớp nháy, màu SECAM 50 hertz về phương diện kỹ thuật có đẹp hơn màu của Mỹ NTSC chu kỳ (NTSC các chuyên viên vẫn gọi đùa là Never The Same Color. Ở Âu Châu, hệ thống truyền hình trên nguyên tắc được đến 619 lằn định nghĩa, ở Mỹ màn ảnh nhỏ chỉ có 525 lằn nên ít rõ nét hơn. Ðó là về kỹ thuật, sự khác biệt này phải để ý mới biết, nó cũng chỉ như là khác biệt giữa băng vidéo chính gốc và băng vidéo sang lậu, chẳng là bao. Ðây là tôi tìm đủ mọi cách để khen Pháp, Ðức, (hệ thống truyền hình PAL), ừ, TV ở bên đó cũng rõ nét và màu đẹp, đỡ lem hơn là TV Bolsa. Nhưng mà bật lên, cũng vẫn John và Ponch chạy xe moto biên phạt ở Los Angeles, lại nói tiếng Tây với nhau thì tôi phải chịu thua. Cái đà xâm lấn này coi bộ không thuyên giảm, ở những quận Paris có trang bị câble chuyển từ vệ tinh được thêm mười hai mười tám đài gì đó, chương trình Mỹ lại càng nhiều, Sports, Tin Tức gì cũng có đến nỗi ở Tây muốn bắt độ đội banh (Mỹ) Minnesota “Vikings” đá với đội San Francisco “Fortyniners” coi trực tiếp truyền hình còn được, Mets gặp Dodgers kết quả ra sao có thể biết ngay. Football Mỹ, baseball theo ngả vệ tinh mà bành trướng, ở bên Pháp kỳ này tôi ngạc nhiên thấy có cả tạp chí chuyên môn nói đến những trò thể thao này. Hình như St Germain en Laye đã có đội Cheerleaders cầm pom-pom ủng hộ tinh thần cho Yvelines-Cow Boys khi giao đấu cùng Antibes-Dolphins, chả mấy chốc ngoại ô lớn Paris rồi sẽ có Stadium bán Bud, bán Coors, pop corn, hot dog và cờ, nón kỷ niệm. Ði đâu làm gì cho mệt, nhất là đến những nơi chậm tiến, TV chỉ vỏn vẹn có sáu đài. Thà ở Cali nằm nhà làm couch potato ăn chips nhãn Doritos mà chắc bụng, cái gì thì không biết chứ văn minh truyền hình Mỹ, đang ăn trùm thế giới; kể cả những nơi mà trước giờ tiền bối, từ cụ Nguyễn Văn Vĩnh đến cũ Phạm Quỳnh, vẫn cho là tột đỉnh của văn minh.


Nguồn: talawas.org

No comments:

Post a Comment