HÀNH TRÌNH ĐÔNG NAM Á
CHẾT TRÊN THIÊN ĐÀNG
Từ Los Angeles sang
Tuy vậy, chuyến tôi đi cũng không đến nỗi chật cứng. Đó đây vẫn còn vài ghế trống. Tôi ngồi hàng bốn ghế lối giữa, ngay sau lưng cặp vợ chồng già người Á Châu. Người đàn ông giống con chim rụng lông, chiếc đầu nhỏ lơ thơ vài sợi tóc thò ra ngoài mũ lưỡi trai xộc xệch. Bà vợ vẻ khoẻ mạnh hơn chút đỉnh. Giống hai miếng xốp cũ, cặp vợ chồng già không còn khả năng thẩm thấu mọi diễn biến chung quanh. Họ không nhìn lên màn ảnh, không đeo tai nghe, không tháo dây an toàn lúc máy bay lên cao, không chọn thức uống, không quay qua quay lại. Họ ngồi đó, gần như bất động, bị mang đi. Trên máy bay, tôi cũng luôn cảm giác bất lực. Ở độ cao mười một cây số, bên dưới là biển mênh mông, sâu thẳm, người ta hoàn toàn phó thác số phận mình cho máy móc. Tuyệt đối phó thác. Không thể dừng lại, không thể bước ra ngoài, không thể điều đình với hỏng hóc, không trông chờ trợ giúp từ bất cứ ai. Không thể làm gì ngoài việc bị tha đi, như hạt thóc trong miệng con chim lớn. Bị gắn chặt vào chỗ ngồi chật chội, khi quá ê ẩm, người ta bước về cuối máy bay tìm chỗ đứng năm mười phút. Nhưng khoảng đứng rất hẹp, phòng vệ sinh còn hẹp hơn, đầy kim loại lạnh lẽo. Phi cơ là nhà tù di động. Mặt khác, nếu thiên đàng như thường được tưởng tượng, là tầng trời nơi người ta chỉ hưởng mà chẳng phải làm gì, giữa bầy tiên nữ vây quanh (cũng không được làm gì), máy bay là hình ảnh gần nhất với thiên đàng. Trên máy bay, người ta thưỡn người ăn uống, xem phim, nghe nhạc, giữa các cô chiêu đãi viên xinh đẹp đi lại, bên trên mọi khổ đau hạ giới.
Gần hai tiếng đồng hồ bay hướng Tây Bắc từ
Hành khách tiếp tục ăn uống, gọi thêm rượu, café. Rồi bữa ăn cũng xong. Các cô chiêu đãi viên quay lại chỗ ông già, loay hoay một lúc, tản ra. Còn hơn mười một tiếng mới đến
Nhưng lần này, ông người Nhật lầm. Chính ông chỉ lên màn hình đường bay cho tôi thấy máy bay đang quay đầu lại. Cả ông và tôi đều phân vân. Nếu quay lại, sao không nghe phi công thông báo. Chúng tôi chờ gần nửa tiếng, vẫn không ai nói năng gì. Không hành khách Đại Hàn nào thắc mắc. Ông người Nhật giữ một cô chiêu đãi viên đi ngang, hỏi có phải máy bay đang quay vào bờ. Cô xác nhận. Ông bực bội nói sao hành khách không được thông báo, chúng tôi cần biết máy bay sẽ đáp xuống phi trường nào, bao lâu, có được ra khỏi máy bay không, giờ đến Seoul sẽ thay đổi thế nào. Ông hỏi nhiều quá, cô chiêu đãi viên lúng túng với mớ tiếng Anh ít ỏi. Cô đi gọi một cô khác. Cô này ít xinh hơn, nhưng nói tiếng Mỹ không pha giọng nước ngoài. Cô có vẻ tự tin và nhanh nhẹn của những thiếu nữ lớn lên ở Mỹ. Cô nói cô cũng không rõ, bây giờ chưa có thông tin từ phi trường cho biết máy bay phải dừng lại bao lâu. Ông người Nhật nói, thì tới đâu thông báo tới đó, ít nhất phải cho chúng tôi biết máy bay đang quay lại và sẽ đáp xuống sân bay nào. Cô chiêu đãi viên nói vâng vâng, bước vội về hướng đầu máy bay. Nhưng mãi vẫn chẳng thấy thông báo. Trên màn hình, chỉ thấy phi cơ đang tiếp tục hướng vào bờ. Nếu là một máy bay Mỹ, tôi chắc hành khách sẽ có nhiều thông tin hơn về những gì đang diễn ra.
Ngày 21 tháng 9 năm 2005, máy bay 292 của hãng Jet Blue cất cánh từ sân bay
Đi hãng United Airlines, hành khách thậm chí được phi công cho biết có thể nghe các trao đổi không lưu của phi cơ trên băng tầng số chín qua máy nghe gắn ở mỗi tay ghế.
Gần một tiếng trôi qua, chúng tôi mới được thông báo ngắn gọn máy bay sẽ đáp xuống San Francisco vì trường hợp y tế khẩn cấp. Trên màn hình, có vẻ chúng tôi không xa đất liền. Nhưng máy bay phải lòng vòng trên biển tháo bớt xăng. Chuyện này, phi công không thông báo, ông người Nhật hỏi, cô chiêu đãi viên mới cho biết.
Người ta vẫn tiếp tục làm hô hấp nhân tạo cho ông già. Hai ống quần màu đen của ông giật đều đều trên sàn máy bay theo nhịp ấn mạnh của người tiếp viên nam. Áo ông đã được cởi ra, phơi phần bụng trắng bệch, trương phồng. Không ai làm hô hấp nhân tạo hơn một tiếng. Có lẽ ông già đã chết. Người ta chỉ không thể dừng lại, không đủ thẩm quyền y tế để dừng lại, và không dám dừng lại. Vì bà vợ của ông đang quỳ bên cạnh lặng lẽ khóc. Lưng bà rung lên, người đổ xuống. Bà không ngừng vuốt ve, nắn bóp tay chân người chồng, như níu kéo, van nài. Cô tiếp viên trẻ nhất quệt nước mắt. Phi cơ có vẻ như bay mãi và sẽ không bao giờ chạm đất. Nó có những nguyên tắc của nó. Một cỗ máy khổng lồ và quyền lực. Tôi tự hỏi đây có phải là những giờ phút dài nhất trong đời người đàn bà? Tôi tự hỏi cặp vợ chồng này đã sống với nhau bao nhiêu năm, có con cái không, thời trẻ họ đã bao lần cùng nhau đi đây đó? Hôm nay, trước lúc ra phi trường, họ có linh cảm rồi một người sẽ không bao giờ tới đích, một người sẽ đơn độc đi hết quãng đường còn lại?
Ở sân bay
Trong vòng nửa tiếng, máy bay đổ đầy xăng, cất cánh trở ra biển. Thành phố lấp lánh thoáng chốc bên dưới, rồi chỉ còn một màu đen đặc không cùng. Vài hành khách mệt mỏi ngoẹo đầu ngủ. Suốt chuyến bay dài, tôi nghĩ đến vợ tôi, người thường ám ảnh chuyện sau này một trong hai chúng tôi sẽ chết trước. Nhưng chúng tôi chưa bao giờ hình dung cái chết trên thiên đàng. Chỉ quá buồn cho người một mình trở lại mặt đất.
GẶP MỘT NGƯỜI LÁI TAXI Ở KUALA LUMPUR (KHÔNG PHẢI NEW YORK )
Sau Singapore, tất cả những thành phố khác đều không sạch. Dù sao, đường bộ từ
Trong một thành phố Hồi giáo, nơi đại đa số phụ nữ choàng đầu, tưởng sẽ không có chỗ chơi khuya. Nhưng không phải. Con đường nhỏ song song đại lộ Bukit Bintang đầy những quán ăn Tàu mở trễ, bàn ăn kê trước nhà, lấn xuống lòng đường, xe hơi dân chơi đêm đậu chật cứng. Đường Jalan P. Ramlee nhiều bar dành cho người nước ngoài và giới địa phương lắm tiền. Tôi vào thử Thai Cowboy. Cái tên khiến liên tưởng các bar ở Thái Lan, dĩ nhiên. Quán rất đông, đa số khách địa phương loại “sành điệu”. Một cốc bia tươi khoảng sáu dollar Mỹ. Nhiều bàn bốn năm người xoay quay chai cognac với mấy lon coca pha, giống lối uống Việt
Nửa đêm, ra khỏi bar, tôi đi bộ một đoạn dài dưới tàn cây tối. Những thành phố nhiệt đới về đêm ở đâu cũng đẹp. Trời đất dịu lại, thôi giày vò con người với cái nóng, bụi khói. Đường phố rộng ra nhưng thân mật. Và cảm giác bình yên. Toà tháp đôi Petronas cao nhất thế giới như hai hiệp sĩ đội mũ chóp, mặc áo giáp sáng bạc, đứng canh giữ thành phố.
Đi taxi ở Kualar Lumpur hơi bực mình vì phải ngã giá. Xe có đồng hồ nhưng tài xế ít chịu bật lên. Buổi chiều trước ngày rời Kuala Lumpur, tôi thăm động Batu, một đền thờ Hindu trong lòng núi, leo hơn hai trăm bậc tam cấp mới đến nơi. Động rộng mênh mông, trần cao khoảng ngôi nhà bảy tám tầng, chí choé khỉ. Lúc về, hai taxi tôi hỏi đều ra giá cao hơn nhiều bận đi. Người thứ ba, ngạc nhiên, cho giá rất thấp. Ông này người gốc Ấn, chính xác hơn, gốc Tamil, nói tiếng Anh lưu loát, từ ngữ phong phú. Trên đường đi, khi biết ngày mai tôi sẽ ra sân bay, ông hỏi có cần taxi không. Ông cho giá thấp hơn giá tôi đã dò hỏi ở khách sạn. Tôi đồng ý.
Ông ta đến đón tôi đúng giờ. Sân bay cách trung tâm thành phố 55 km. Sáng sớm chưa kẹt xe, nhưng cũng mất gần tiếng đồng hồ mới đi hết quãng đường. Tôi có dịp lan man với người tài xế. Khi tôi hỏi mua một căn nhà ở đây có dễ không, người tài xế im lặng một lúc rồi nói, dễ đối với người Mã Lai đạo Hồi, nhưng không dễ với người như ông. Người gốc Ấn và Tàu mặc nhiên được coi là thành công hơn dân bản địa, nên không nhận được trợ giúp nào từ chính phủ. Những khu nhà do chính phủ xây bán trả góp chỉ dành cho dân Mã Lai đạo Hồi. Người Ấn và Tàu, bất kể thu nhập thấp đến đâu, đều không mua được. Người tài xế cho biết, ông vốn là thầy giáo cấp hai, bị đưa đi dạy ở vùng rừng già hẻo lánh, sau nhiều năm, không chịu nổi, phải bỏ về
Đây không phải lần đầu tiên tôi nghe những than phiền về sự phân biệt đối xử như vậy ở
Tôi nghĩ đến vài Việt kiều mới khăn gói đến Hoa Kỳ cách đây một hai thập kỷ, nay gia đình đã sung túc, bản thân hưởng mọi quyền công dân như người bản xứ. Vậy mà hễ có dịp, những người này cứ chửi Mỹ. Chửi tàn tệ, sâu cay, như thể đất nước này là hang ổ của bất công, hiếu chiến, đạo đức giả; như thể họ đã bị bắt cóc đến xứ sở này làm một thứ nô lệ mới cho chủ nghĩa đế quốc. Bản thân tôi, những năm đầu đi học bên này, cũng thường nhận xét châm biếm về văn hoá Mỹ, từ đồ ăn thức uống đến thể thao, từ xã giao đến ăn mặc. Trong ký túc xá đại học, tôi thường chọn ở chung phòng với các du học sinh Âu Châu, hả hê ngồi phì phèo thuốc lá với họ chỉ trích người Mỹ. Nhìn lại, thật ra đó chỉ là phản ứng lố bịch của kẻ thiếu hiểu biết và mặc cảm ngoài lề. Tôi nghĩ, người thiểu số ở Mỹ, dù bản xứ hay nhập cư, sẽ luôn đối mặt với vấn đề căn cước chủng tộc, sẽ không bao giờ cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong xã hội văn hoá da trắng. Nhưng không phải vì cảm giác khó chịu này mà người ta có thể phủ nhận sạch trơn những mặt tốt đẹp của xã hội Mỹ. Đối với người nhập cư, ít nhất đất nước này đã cho họ cơ hội làm ăn, học hành, và sự bình đẳng trước pháp luật. Những điều tuy căn bản nhưng người ta không tìm thấy ngay trên quê hương mình. Người ta không thể nói đất nước này thiếu tự do, kể cả tự do chỉ trích chính phủ. Nhưng có những chỉ trích cụ thể, xong rồi thôi, có những chỉ trích cho thấy một cái gì như mối thù thăm căn cố đế, như xung đột văn hoá, tôn giáo. Kiểu thường thấy ở những người đạo Hồi chống Mỹ. Vì Mỹ là một nước tự do, tôi hy vọng những Việt kiều ghét Mỹ sẽ không tiếp tục tự làm khổ mình. Khác với người trong nước không có sự chọn lựa, Việt kiều có thể rời bỏ nước Mỹ bất cứ lúc nào. Họ sẽ được đón chào bởi chính phủ Việt
Tôi rời phi trường
JAKARTA
Từ trên cao, biển có màu xanh lục, cắt chia bởi hàng trăm đảo nhỏ, nhiều đảo chìm lờ mờ mặt nước như cá voi mắc cạn. Những chiếc tàu đánh cá bé tẹo đậu gần bờ, nhà cửa lụp xụp, có thể thấy những bãi rác ngập ngụa lúc máy bay xuống thấp. Sân bay Soekarno-Hatta giống một nhà sàn dài ngói đỏ, bên trong thưa vắng, chỉ nhộn nhịp vì đám hành khách từ máy bay đổ xuống. Visa cấp tại phi trường, nhanh chóng, không hỏi han lôi thôi. Giống Tân Sơn Nhất, ngoài cửa phòng đợi, đám đông chen chúc sau rào sắt.
Hai người đón tôi cẩn thận cầm bảng đề tên đứng hai đầu lối ra. Người lái xe vạm vỡ, quần jeans đen, áo sơ-mi sẫm màu, giày da đen. Anh ta đội chiếc mũ lính vải hoa không ăn nhập với bộ đồ dân sự. Dáng vẻ nhanh nhẹn, anh luôn mỉm cười nhũn nhặn, nói chuyện lễ độ. Sau này, tôi biết anh tài xế xuất thân từ lính hải quân
Xe về đến khách sạn, tôi định đẩy cửa bước xuống, người tài xế ngăn lại. Phải chờ nhân viên bảo vệ khách sạn kiểm tra. Họ dùng chiếc kính lật ngửa có gắn bánh đẩy, nối vào tay cầm dài, rà soát gầm xe. Mỗi lần xe ra vào khách sạn đều qua màn kiểm tra như vậy. Văn phòng đại diện của Mỹ nơi tôi đến làm việc, an ninh nhiêu khê hơn. Chỉ một biệt thự, ở cổng có đến hai bảo vệ ngồi trong phòng gác xây kín. Cửa sắt cao quá đầu người, khi mở ra, phải nhấc thêm thanh chắn nặng nề, xe mới vào được. Xe của cơ quan, nhưng mỗi khi vào cổng phải kiểm tra, dù trên xe đang chở vị trưởng phòng. Người trưởng phòng làm việc ở
Tình hình an ninh như vậy, nên Jakarta, bình thường vốn không hấp dẫn như Bali, càng vắng khách du lịch. Theo sách hướng dẫn, tôi có ghé khu Jaksa, trung tâm của giới du lịch ba lô. Ở một khu lẽ ra nhộn nhịp, suốt buổi tối, không thấy quá mươi người nước ngoài. Jaksa chỉ là một con đường hẹp, bẩn thỉu, lề đường bị lấn chiếm bởi những lều bán thức ăn xập xệ và xe gắn máy. Lòng đường nhớp nháp nước rác. Những quán bar và tiệm ăn loè loẹt hơn chút đỉnh, nhưng vẫn mang vẻ ảm đạm thiếu điện. Ấn tượng mạnh nhất của tôi về
Jakarta là thành phố khổng lồ và lôi cuốn, ít nhất đối với những đầu óc mạo hiểm. Trong sách du lịch, thành phố được ví như trái sầu riêng: rất thơm ngon đối với người này nhưng có mùi lộn mửa đối với kẻ khác. Trải rộng trên 637 cây số vuông, Jakarta gần như không có trung tâm, hay nói cách khác, gồm nhiều trung tâm: Bắc Jakarta, Đông Jakarta, Nam Jakarta, Trung Jakarta. Bên cạnh những khu tồi tàn, Jakarta có nhiều nhà cao tầng, những đại lộ rộng rãi. Nam Jakarta phát triển nhất, với nhiều khu mua sắm sang trọng, những quán bar đông khách nước ngoài như Block M. Bắc Jakarta cũ kỹ, đường phố tối đen, đầy những xe bán sầu riêng bên lề, vài bàn nhậu bập bùng guitar, những bar rượu dùng đèn pin hướng dẫn khách. Jakarta vẫn còn những phương tiện giao thông cổ lỗ. Đặc biệt nhất là bajaj. Bajaj hình thù giống xe lam Việt Nam thu nhỏ, chở được hai người, không có vách ngăn giữa tài xế và khách. Xe thường sơn màu cam, mui vải, rất cũ. Ban đêm, nhiều xe chỉ thoi thóp một đèn đuôi màu vàng, nhiều xe hoàn toàn mù. Bajaj lạng lách tài tình giữa dòng xe cộ dày đặc, đâu cũng tới, nhưng không được phép vào những đường trung tâm. Taxi ở Jakarta tương đối rẻ, sử dụng đồng hồ hoặc ra giá phải chăng. Trong thành phố mênh mông chằng chịt như ma trận, đi taxi ban đêm đôi khi cũng ngại. Nhưng trong thời gian ở đây, tất cả những người lái taxi tôi gặp đều vui vẻ, đàng hoàng, dù vài người không rành đường lắm.
Chính trị ở Indonesia không bình lặng. Quyền lực ở một đất nước thiếu dân chủ nhưng đông dân, nhiều tài nguyên, đồng nghĩa với sự giàu có vô độ. Chế độ độc tài Suharto chấm dứt năm 1998 sau những vận động dân chủ, biểu tình rầm rộ của dân chúng. Theo báo Time Asia, sau gần ba thập kỷ cầm quyền, gia đình Suharto sở hữu khoảng chín tỉ dollars giá trị tài sản. Suharto được xem là tay độc tài nhũng lạm nhất lịch sử thế giới hiện đại. Từ khi Suharto bị hạ bệ, dân Indonesia hưởng nhiều quyền dân chủ quan trọng. Tôi hỏi người đồng nghiệp địa phương về tình trạng sách báo, anh cho biết, bây giờ ai muốn nói gì thì nói, chỉ trích tha hồ, tự do in ấn. Các nhân vật chính phủ đôi khi phản công, nhưng thông qua con đường pháp luật, bằng cách kiện tụng lại báo chí, chứ không thể ra lệnh, đàn áp như xưa. Tổng thống hiện nay của Indonesia, Yudhoyono, là tổng thống đầu tiên được bầu trực tiếp bởi dân chúng năm 2004. Vị tiền nhiệm của Yudhoyono, bà Megawati, con gái cố tổng thống giành độc lập Soekarno, đã ứng xử một cách lạ lùng khi Yudhoyono thắng cử. Bà này không tuyên bố thua cuộc, không chúc mừng người chiến thắng, cũng không tham dự lễ nhậm chức của tổng thống mới; bà chỉ lẳng lặng thu xếp rời khỏi dinh. Bà là người rất tin bói toán. Ông Yudhoyono được coi là có học và đầu óc cấp tiến. Indonesia vẫn nhiều tham nhũng, quản lý yếu kém, nhưng dân chúng có tự do ngôn luận và bầu cử dân chủ. Ở những nước như Indonesia, ít ra người ta có thể công khai xuống đường đòi trừng trị bọn sâu mọt. Ở những nước độc tài, dân chúng chỉ có thể tìm cách “sống chung với sâu mọt” và chấp nhận những phủ dụ dối trá. Vấn nạn của Indonesia hiện nay là khủng bố và ly khai. Dù sao, tôi đặt cược vào Indonesia nhiều hơn những chế độ độc tài “ổn định để phát triển”. “Ổn định để phát triển” chỉ hiệu quả nếu dân tộc may mắn có được những nhà lãnh đạo yêu nước, tài năng, trong sạch, và can đảm. Gặp phải những kẻ không ra gì, đất nước sẽ bị làm nhục. Dân tộc Việt Nam chưa bao giờ được lịch sử chứng minh là dân tộc may mắn.
Indonesia giống Việt Nam nhiều thứ: khí hậu nóng nực, nghèo nàn, lộn xộn. Nhưng Indonesia vẫn đi xa hơn Việt Nam một khoảng. Jakarta căn bản đã là thành phố xe hơi chứ không phải xe gắn máy như Sài Gòn, Hà Nội. Trong khi Sài Gòn và Hà Nội vẫn ít nhiều còn vẻ êm đềm đô thị nhỏ, Jakarta đã xây dựng nhiều nhà cao tầng và khu thương mại lớn. Sự phát triển của Jakarta tuy vậy, rất khập khiễng. Xe hơi nhiều nhưng đường phố không mở kịp nên thường kẹt xe, ô nhiễm. Xe cộ chạy lấn đường, xem nhẹ luật lệ. Nhà cao tầng xây nhiều nhưng đa số dân chúng vẫn chen chúc trong những khu lụp xụp, thiếu vệ sinh. Như nhiều nước nghèo khác, Indonesia chỉ phát triển chút đỉnh ở một hai đô thị lớn với mật độ dân số rất cao. Đảo Java chiếm bảy phần trăm diện tích Indonesia nhưng chứa gần sáu mươi phần trăm dân số. Mười triệu người sống ở Jakarta.
Việt Nam bắt đầu đua nhau sắm xe hơi, xây nhà cao tầng. Với cung cách quản lý lũng đoạn hiện nay, chẳng bao lâu, Sài Gòn và Hà Nội sẽ đối mặt với những vấn nạn đô thị hoá trầm trọng như Jakarta. Xe hơi nhiều, nhưng sẽ mất thời gian hơn để di chuyển trong thành phố; nhà cao lên, nhưng dưới bóng của chúng sẽ đông hơn trẻ đánh giày và ăn xin. Trong những chế độ độc tài, kinh tế quốc gia sau cùng chỉ là trò làm ăn mafia của tập đoàn cầm quyền. Dân chúng được vứt cho khúc xương. Khúc xương lúc toàn gân lúc dính chút nạc, nhưng bao giờ cũng có mùi nhục. Câu hỏi của người trí thức trong những xã hội độc tài không nên cao xa kiểu “tồn tại hay không tồn tại”, mà là “gặm xương hay không gặm xương”.
Đồ mỹ nghệ Indonesia tuyệt đẹp, đặc biệt đồ gỗ Bali và Papua. Những mặt nạ vừa hiện thực vừa cách điệu, vừa khiêu khích vừa bí ẩn, màu sắc khi rực rỡ lúc u trầm, tất cả được thể hiện hết sức chi tiết; chúng nhắc nhở du khách rằng những gì họ nhìn thấy có thể chỉ là khuôn mặt hoá trang của dân tộc, rằng có một bộ mặt khác, không bao giờ hiển lộ cho con mắt người ngoài. Đất nước này rộng lớn và bí ẩn, món khoái khẩu của những nhà thám hiểm và thực dân. Thực dân Âu Châu rời Đông Nam Á đã hơn nửa thế kỷ, nhưng ngày nay khách du lịch từ nước giàu vẫn ít nhiều nếm được mùi thuộc địa xa hoa ở những xứ như Indonesia, Thái Lan, Việt Nam. Đời sống nghèo nàn và tâm lý sùng ngoại vẫn còn đó. Người ta đến những xứ sở này để ngồi ăn có người hầu, để được bóp chân sau một ngày rong chơi, rồi đi ngủ với những thiếu nữ trẻ đẹp giá rẻ mạt. Người ta đến những xứ sở này để nhìn thấy một thế giới khác, nhưng cũng để chạy trốn cảm giác tầm thường của đời mình trong xã hội máy móc. Nơi đây, bỗng chốc ta thành ông vua con, hay chí ít cũng là viên quan huyện. Và cuộc đời thật tươi đẹp khi mình có quyền lực, dù quyền lực thuốc súng hay quyền lực đồng tiền. Với quyền lực, mình không chỉ được phục vụ, mà còn được kính sợ.
Tôi cũng là người du lịch từ nước giàu. Nhưng trước khi mang hộ chiếu Mỹ tôi đã là kẻ không hộ khẩu ở Sài Gòn, trước khi tiêu những đồng dollar xanh tôi đã từng gần chết đói trên căn gác đường Nguyễn Tri Phương. Trước khi là “thực dân”, tâm hồn tôi đã bị đô hộ. Người bồi lễ độ này là phiên bản của chính tôi. Tôi chỉ đổi vai với anh ta vài phút trong bữa ăn thịnh soạn. Tôi là người du lịch đeo mặt nạ. Vì tôi khởi đi từ Việt Nam.
4/2006
No comments:
Post a Comment