NGUYỄN VIỆN - TRƯỚC NGÀY CHÚA LẠI ĐẾN - văn


Một cuộc “gây hấn” toàn diện trong lối viết chắc chắn sẽ phân hóa bạn đọc kịch liệt. Cũng giống như mấy cuốn trước (Đĩ thúi, Em có gì bí mật hãy mail cho anh), Cơn bấn loạn dưới đất hoàn toàn trượt khỏi quỹ đạo tự sự truyền thống để hiện diện như một văn bản “bấn loạn” (cố ý). Nó được ghi thể loại là “tiểu thuyết” nhưng chất điện ảnh và chính luận lại quá trội. Số trang ngắn ngủi, chen chúc không biết bao nhiêu sự kiện, con người, khung cảnh, tất cả đều là thật, nhưng tất cả đều chỉ là những bóng ma. Chúng từ quá khứ xa lắc xa lơ trơ về hiện tại để tham dự vào cơn bấn loạn của những tham vọng, ngộ nhận về quyền uy, những mông muội, hoang dại bản năng, những dối lừa và tự huyễn hoặc…
Nhân vật người kể chuyện có một lời bình luận: “Có người nói truyện của tôi giữa những dòng chữ là nỗi nghẹn ngào. Cũng có người nói tôi tàn ác. Nhưng Hàng lại bảo tôi: em thích cái dâm đãng của anh”. Cuốn sách này khước từ sự “thánh hóa” văn chương nhưng cũng không mua vui dễ dãi. Nó tàn nhẫn, ngập những chuyện làm tình nhớp nhúa, ngôn từ trần trụi, thô nhám nhưng lại dưng lên một thế giới toàn biểu tượng. Đọc nó, như bị ném vào cơn ác mộng ngột thở. Khi tỉnh lại hầu như không còn nhớ mình bị tra tấn thế nào, chỉ còn lại cảm giác có thật của nỗi đau “con người lăng nhuc lẫn nhau vì sự khốn cùng của tâm thức” – nỗi đau trước ngày Chúa lại đến!
PGS - TS Nguyễn Thị Bình

TRƯỚC NGÀY CHÚA LẠI ĐẾN

Chiếc chiếu hoa cạp điều bay lờ lững từ tây sang đông, ở giữa in hoa văn chữ “song hỷ”, hai bên có dòng chữ tiếng Việt “gia đình - hạnh phúc” viết theo kiểu chữ triện. Trên những ngọn cây tràm, lũ chim ngóc mỏ tò mò nhìn theo chiếc chiếu bay, không có một hạt thóc hay con sâu nào trên chiếc chiếu đẹp đẽ ấy. Bởi thế, việc chiếc chiếu bay chẳng có ý nghĩa gì với những con chim đang đói khi cơn lũ ồ ạt chảy dưới gốc cây. Nhưng cô gái leo ngọn dừa trốn một nỗi buồn đã nhìn thấy chiếc chiếu như một cơ may và cô phóng người lên chiếc chiếu đang bay ấy mà không hề bận tâm mình sẽ đến đâu.
Tôi nói với Hằng, vấn đề của em không phải là có thích nghi được với đời sống hay không, nhưng chính là cần phải sống như em vẫn sống. Chúng ta luôn luôn phải đối diện với sự trống rỗng và đôi khi vô nghĩa. Anh nghĩ, em cần trở lại trường học sớm. Hằng nói, hẳn nhiên là em sẽ phải trở lại trường, một ngày nào đó, cho xong, nhưng em luôn luôn bị ám ảnh bởi một kẻ rình rập đánh cắp những ý nghĩ của mình, như thể người ấy có thể thò tay vào trong óc em, moi ra những điều tồi tệ nhất. Tôi bảo chẳng cần phải cảnh giác với những việc như thế, ý nghĩ là một cái rất riêng, người ta không thể lấy cắp nó mà không bị nhức đầu.
Ngày 2.3.2004. Chiếc chiếu bay đã đặt cô gái xuống trên một cái ghế ở quán café gần cầu Văn Thánh, nơi mặt đất đang nghiêng đổ. Cô gái đã trở thành người đàn bà lỡ dở. Người đàn bà đang tìm những cô gái khác. Trên chiếc xe ôm chở một cô gái gầy ốm, nhếch nhác cặp sát lề, gã đàn ông lái xe khoảng bốn mươi tuổi, lùn và đen nhẻm, đôi mắt có vẻ lương thiện nhướng lên hỏi: Lấy không?
Vào đây. Người đàn bà nói.
Gã lái xe ôm bảo cô gái xuống rồi dựng xe. Cô gái ngại ngùng bước ra xa. Người đàn bà giơ tay vẫy cô gái và nói: Vào đây.
Cô gái vẫn đứng ngoài đường. Gã xe ôm phải dắt tay cô dẫn vào.
Ngồi xuống đi. Đừng sợ. Em có phước mới được đưa đến đây. Người đàn bà vỗ về. Em uống nước nhé? Quay vào trong bà bảo cô tiếp viên: Cho nó một ly nước. Bà hỏi cô gái mới đến: Em đi mấy đứa?
Dạ, ba.
Hai đứa kia đâu? Bà hỏi gã xe ôm.
Chúng đi xe khác.
Ông đi tìm tụi nó lại đây cho tôi.
Bà phải cho tiền cò.
Bao nhiêu?
Mỗi đứa mười ngàn.
Được. Đi đi.
Cô gái vẫn còn vẻ lấm lét. Bà hỏi: Quê ở đâu?
Dạ, Cam Ranh.
Bạn có muốn thuê Cam Ranh không? Bao nhiêu? Ba trăm triệu đô/năm. Đắt quá. Bạn thừa biết mặt tiền của nó có một không hai trên thế giới. Nhưng hoàn toàn không sinh lợi. Vấn đề của bạn đâu phải để sinh lợi. Cũng đành là thế, nhưng nó phải có ý nghĩa. Tất nhiên, nó chính là biểu hiện quyền lực của bạn.
Trong chốc lát, gã xe ôm đã chở thêm hai cô gái tới. Người chúng đầy bụi. Người đàn bà nhìn các cô gái và nghĩ, cộng cả ba đứa lại chắc mới bằng tuổi bà.
Các em có muốn làm với tôi không? Phụ bán quán, ăn ngủ tại chỗ, lương bốn trăm ngàn. Chúng em xin vâng theo ý bà.
Tôi nói với Hằng: Lối sống Mỹ là một giải pháp mà không nhất thiết phải thừa nhận nó hay không. Đừng nói là em không chịu đựng được. Hằng bảo lúc nào cũng có một cái camera nó chĩa ống kính vào mình, giống như là bị phanh thây.
Ngày 30.4.1975. Người đàn ông đi từng nhà căn dặn: Hãy cạo sạch hình lá cờ quốc gia vẽ trước cửa và lấy giấy làm cờ giải phóng. Nếu đoàn quân giải phóng tiến vào thì ra đón. Lúc ấy cô gái vẫn còn ngồi trên chiếc chiếu bay. Cha cô gật đầu, rất nhiều ý nghĩa, với người đàn ông. Mọi người đổ xô đi mua giấy đỏ, vải đỏ. Mặc dù tổng thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng, người ta vẫn lo sợ một cuộc thảm sát. Những người lính giải phóng đi chân đất, quần áo xốc xếch và ướt sũng, có người chỉ mặc quần ngắn. Có lẽ họ vừa lội qua sông. Trông họ hiền lành, ngơ ngác và đầy phấn khích. Một ai đó bảo hoan hô. Mọi người hoan hô mà không biết hoan hô cái gì. Trước đó vài tiếng đồng hồ, từng toán lính quốc gia lấm lét vừa chạy vừa trút bỏ những bộ quân phục. Trên đường đầy nón sắt và những thứ quân trang khác. Cô gái bảo toàn thành phố đầy rác. Cả súng và lựu đạn. Nón sắt để làm cối giã cua rất tốt nhưng không ai dám lượm về nhà. Nhưng trong các trại lính và khu nhà của người Mỹ đã bị người dân lao vào hôi của. Những người khôn ngoan hơn thì chạy ra bến tàu. Những chiếc tàu đã biến họ thành Việt kiều, trong số ấy có anh Đại của cô. Cô không bỏ chạy vì cô không sợ bị rút móng tay hay phải lấy thương binh Việt cộng. Cũng ngay trong ngày hôm ấy, mẹ cô mang tấm ảnh sĩ quan của người anh trai lớn của cô từ trên bàn thờ xuống và đốt đi cùng với nhiều thứ giấy tờ khác. Những tấm hình của người anh trong album và một số sách vở cũng bị mẹ cô cho vào lửa. Một số quần áo xem ra chẳng liên quan gì đến sắc phục của một chế độ cũng bị đốt sạch. Tất cả những gì đẹp đẽ còn lại mà bà không cảm thấy nguy hiểm trong nhà đều được đóng thùng cất giấu. Còn cha cô thì lái chiếc xe của ông ra sông và dìm nó xuống nước. Nghèo, hèn là những phẩm hạnh cao nhất của cuộc sống mới.
Cuộc hôn nhân vội vã của những kẻ bị đẩy xuống bùn lầy giống như cách kết thúc của những con chim bị chặt cánh. Khi họ cảm thấy không còn gì trong cuộc đời thì lấy nhau chính là cách gia cố sự hiện hữu, đồng thời cũng là cách để sở hữu cuộc đời mình. Hằng là cô gái được sinh ra bởi sự vô vọng. Và sự vô vọng đã được cứu rỗi bởi những linh hồn đày đọa trong những giấc mơ vượt thoát. Hằng nói: Em chỉ là hiện thân của sự chạy trốn.
Ngày 2.3.2004. Ba cô gái được đưa về nhà hàng của người đàn bà bên Lái Thiêu. Bà nói với các cô gái: Chúng mày cần phải ăn mặc cho đẹp và hấp dẫn. Tao sẽ ứng tiền trước cho chúng mày để sắm đồ.
Các cô gái được phi tang nguồn gốc bằng son phấn và những chiếc váy.
Hằng hỏi: Tại sao anh lại bảo họ phi tang? Tôi nói cuộc sống đã bị hình sự hóa ngay từ khi cha mẹ của người đàn bà muốn xóa bỏ quá khứ của họ năm 1975. Với những người khác thì đã xảy ra từ 1954.
Người đàn bà nói với các cô gái: Từ hôm nay, ba đứa mày sẽ được gọi là Kiều Hạnh, Mỹ Loan, Khánh My. Đứa nào thích tên nào thì lấy tên ấy. Tao cho chúng mày quyền chọn lấy số phận của mình.
Cô gái gầy ốm nói: Em chọn tên Khánh My.
Hai cô gái còn lại dành nhau tên Mỹ Loan. Cô gái đã chọn cho mình tên Khánh My bảo: Thôi hai đứa mày bốc thăm đi.
Một cô hỏi bà chủ: Chị cho em tự đặt tên được không?
Được.
Cô gái ngẫm nghĩ trong giây lát rồi rụt rè nói: Hồng Phượng được không chị?
Được.
Hồng Phượng mình dây nhưng hai vú to. Người đàn bà nghĩ, rồi ra con bé này có khả năng áp đặt đàn ông trong những tính toán của mình bằng sự xảo quyệt của một con đĩ hảo hạng.
Đầu tháng 5.1975. Căn nhà của gia đình cô gái bị nhà nước mượn làm trụ sở ủy ban phường. Cả gia đình cô thu gọn lại trong căn nhà để xe. Nhiều lần ủy ban đề nghị với cha cô cống hiến căn nhà cho cách mạng, tuy sợ nhưng cha cô khôn khéo từ chối nói cách mạng cần thì chúng tôi cho mượn, nhưng không thể cống hiến vì đó là căn nhà của ông bà để lại. Cho dẫu khôn khéo thế, căn nhà của họ cũng không bao giờ đòi lại được.
Người đàn ông mặc đồ bộ đội, nói giọng miền Nam, hào sảng dù quê mùa vẫn tìm cách nói chuyện với cô mỗi khi có thể. Ông ta bảo: Cô nên đi sinh hoạt đoàn thể.
Tôi không thích đám đông, cô trả lời.
Tập thể là sức mạnh. Cô cần phải dựa vào tập thể để phát huy mình.
Cô gái không cần phát huy, nhưng cô không thể không tuân lệnh khi có người đến yêu cầu cô phải đi sinh hoạt buổi tối cùng với những thanh thiếu niên khác. “Vòng tròn có một cái tâm. Cái tâm ở giữa vòng tròn. Quay sao cho đều cho khéo… cho vòng tròn đừng méo đừng vuông…”. Cô chỉ thấy những cái vòng tròn như trong đèn kéo quân, ở giữa là một ngọn lửa dối trá. Để chấm dứt tất cả những trò vớ vẩn ấy, cô nghĩ mình sẽ lấy chồng.
Người đàn ông bộ đội, đeo lon đại úy, làm chủ tịch ủy ban quân quản phường, đang chiếm ngự căn nhà cô biết được ý nghĩ quyến rũ ấy, tự đặt mục tiêu phấn đấu: Chồng cô sẽ là tôi.
Việc đầu tiên ông ta làm là bố trí một căn nhà khác cho gia đình cô một cách chí tình và chí lý. Bất cứ một căn hộ nào khác cũng thoải mái hơn cái cảnh phải sống chui rúc như tội phạm trong chính căn nhà của mình. Cô không biết mẹ mình đã uất hận như thế nào, phần cô, khi rời bỏ căn nhà quen thuộc của mình, cảm giác nó giống như một cái cây bị bứng ra khỏi mặt đất.
Hằng nói, em không còn bé để dẫy đành đạch hai chân khi người ta bế em lên quẳng xuống biển, mà em đã nhìn biển như thể đấy là chính em. Và em chờ đợi giây phút mình thật sự rơi xuống biển.
Lúc ấy, cha cô đã vào trại cải tạo chỉ vì tính quá cẩn thận của ông.
Tôi đã giải ngũ, có phải trình diện không, thưa anh?
Trước đây ông làm gì?
Đại úy.
Đại úy hả?
Vâng.
Đại úy thì vào đi.
Ông đại úy ngụy đi vắng thì đã có ông đại úy cách mạng. Ngày 19.5.1975, ông đại úy cách mạng đeo khẩu K54 kè kè bên hông đưa cho cô gái tờ giấy, nói:
Đây là di chúc Bác Hồ. Tối nay em sẽ đọc ở sân trường học.
Em không đọc đâu. Chọn người khác đi.
Không phải ai muốn cũng được. Đây là vinh dự rất lớn lao, anh đã tranh đấu dành cho em.
Cô không mường tượng được điều ấy sẽ làm thay đổi cuộc đời cô. Tối 19.5, trước toàn thể nhân dân trong phường tụ tập ở sân trường học, cô đã đọc bản di chúc theo cái cách hằn học nhất mà lòng cô không thể che giấu, nhưng các cán bộ của phường lại bảo cô có một giọng đầy khí thế cách mạng. Qua ông chủ tịch, họ đề nghị cô tham gia vào ban xã hội của phường. Cô lên danh sách những gia đình khó khăn cần được giúp đỡ. Cô tìm thấy niềm vui vì sự có ích của mình, ít ra với những người cần vài ký gạo.
Ngày 5.3.2004. Quán Lan Thanh vắng teo, không một người khách. Bữa cơm chiều vẫn diễn ra một cách bình thường. Tất cả người làm và các cô tiếp viên vào bàn. Họ hỏi nhau: Chị Lan Thanh sao không về ăn cơm?
Hình như chị ấy đi đòi tiền.
Có đứa nào muốn đi đòi nợ thuê không? Một người đùa.
Cần phải mang mã tấu theo không? Hồng Phượng hỏi.
Mày chỉ cần giơ cặp vú ra là được.
Vô duyên.
Chỉ giơ vú ra là lấy được tiền thì tôi giơ suốt ngày. Mỹ Loan nói.
Khánh My vừa ăn vừa tư lự. Cô tự hỏi, quán vắng tanh thế này, chị Lan Thanh lấy tiền đâu trả công người làm, thế mà chị còn nhận thêm ba đứa bọn cô.
Tháng 7.1975. Thành phố nham nhở với những căn nhà bị đập phá khi người ta bị buộc phải đi “kinh tế mới”. Tất cả những gì có thể mang đi được như khung cửa, mái tôn, cột kèo… người ta đều dỡ hết. Chiến tranh đã chấm dứt, nhưng sự tang thương của những bức tường vỡ trong hòa bình cũng đau xót không kém, đôi khi nó còn nhức nhối hơn bởi sự vô lý và dã man. Một cuộc sống không được chuẩn bị đẻ ra những từ ngữ ngớ ngẩn. Những sự việc ngu độn đến hoang đường. Ông đại úy cách mạng bảo Lan Thanh: Nếu nhà em không đi kinh tế mới thì cha em rất khó về.
Lan Thanh nói lại với mẹ chuyện ấy. Bà mẹ nói: Mẹ chỉ lo cho con. Rồi bà lẳng lặng từng ngày mang đồ trong nhà đi bán.
Thành phố lốm đốm những chợ trời. Người ta máng quần áo lên người như những cái mắc áo di động. Trí thức và vô học. Trên lề đường, chén bát cũ xô đẩy nhau tìm một chỗ phơi mình. Sang và hèn cùng tìm thấy một mùi vị nhân sinh cặn bã.
Ông đại úy cách mạng nói với Lan Thanh: Nếu em lấy một cán bộ cách mạng thì nhà em không sợ phải đi kinh tế mới.
Thư của Hằng. Em nghĩ cần phải xức thuốc đỏ trên cái mồm lở loét của những chính trị gia. Em tin rằng văn chương có thể tách rời khỏi chính trị mà nó vẫn không mất đi những giá trị nhân bản. Tôi bảo, dù em có chính trị hay không, thì em vẫn phải sống trong một cơ chế chính trị. Trong cơ chế ấy, em bị chính trị ràng buộc. Có thể đấy là quả bóng bay hay cái cối giã gạo, nhưng em không bao giờ thoát khỏi nó.
Ngày 6.3.2004. Lan Thanh nói với Hồng Phượng: Em đi với chị. Họ tới một khách sạn. Ở đó họ gặp một người đàn ông có vẻ sang trọng. Ăn uống và nói chuyện thời trang. Sau đó họ về phòng. Hồng Phượng cảm thấy mình trôi đi trong một thế giới khác. Những cánh đồng cỏ khô héo và con bò vàng đói khát dũi mõm vào cát. Ở một chỗ nào đó trên cơ thể, cô cảm thấy đau đồng thời với một nỗi rạo rực cô chưa từng biết, nó làm cô nẩy tưng lên. Khi cô tỉnh lại sau một giấc ngủ dài, cô thấy mình trần truồng. Người đàn ông đưa cho cô mười triệu.
Cầm mười triệu trước. Khánh My và Mỹ Loan không cần phải cho uống thuốc mê. Họ thản nhiên đến khách sạn với người đàn ông không quen biết.
Tôi nói với Hằng, anh tin rằng hầu hết những vụ bán trinh đều được mang ý nghĩa cao cả của sự hiếu thảo với cha mẹ.
Ngày 30.4.1975. Từ hôm nay các ngươi được gọi là ma ngụy. Tổ quốc không ghi ơn các ngươi nữa. Kẻ nào trong các ngươi là con của Chúa thì hãy về với Chúa, kẻ nào là con Phật thì liệu mà tìm đường đến Tây phương cực lạc kẻo muộn. Chẳng còn bao lâu nữa, các ngươi sẽ là những con ma không mồ. Xương máu các ngươi sẽ bị chà đạp và linh hồn các ngươi bị nguyền rủa. Mộ phần các ngươi thành bình địa và sự hy sinh của các ngươi trở thành vô nghĩa. Các ngươi đừng ăn cháo lú và uống nước sông mê kẻo lòng các ngươi thù hận. Các ngươi hãy đi và bỏ lại vành khăn tang cho người đến sau. Cả sự sống lẫn sự chết đều vô ích trước sự lầm lạc của con người. Sự đau khổ không cứu chuộc các ngươi. Sự vinh quang không tha thứ các ngươi. Thế gian mà các ngươi đeo đuổi không thật. Chỉ có nỗi niềm của các ngươi tồn tại đích thật và phù phiếm trong hồi quang của ánh chớp số phận. Các ngươi đừng gán cho nhau những tội ác lố bịch của bọn tay sai, bởi vì không ai trong các ngươi có quyền lựa chọn. Thượng đế đã đến và ngài bảo: Hãy có. Người có sẽ có thêm và người mất sẽ mất hết. Để dấu vết các ngươi được xóa sạch, các ngươi đừng chui vào chỗ tối tăm, cũng đừng tìm cách phơi mình ra ánh sáng. Khi đến ngày tận thế, đấng công bằng sẽ xuất hiện và ngài sẽ an ủi các ngươi trong gấu áo của ngài.
Ngày 10.3.2004. Trong nhà hàng Lan Thanh có hai phòng kín, chỉ những người quen mới được tiếp đón ở đó. Cả ba cô gái Khánh My, Mỹ Loan và Hồng Phượng đều được gọi lên tiếp khách. Họ mặc váy ngắn và không có đồ lót. Bà chủ nói: Đây là những vị khách đặc biệt của chị, các em phải chu đáo tiếp các anh, đừng để các anh buồn.
Thưa chị, vâng ạ.
Quay sang các anh, bà chủ bảo: Các anh thích gì cứ thoải mái.
Vấn đề là ở chỗ ấy. Các em cứ hồn nhiên rồi các em sẽ là tiên. Thế giới đích thật ở trong cánh cửa đóng kín. Trong thế giới này, các em sẽ được phóng thích từ chân tơ tới kẽ tóc mà không phải vất vả làm cách mạng. Các em sẽ được tôn vinh trên các tầng trời khi nhảy múa và cho đàn ông uống sữa và mật của mình. Sự màu nhiệm của con người còn linh thiêng hơn thần thánh khi cửa mình các em mở ra cho tự do và nhân quyền hiển lộ. Vũ trụ được nhận biết bởi một niềm sướng thỏa. Đừng bảo các em là đĩ mà hãy gọi các em là thiên sứ . Cũng đừng vu cho các em là điếm mà hãy xưng tụng các em như tình nhân bằng túi tiền của mình. Và đừng lên án các em là sa đọa mà hãy cổ vũ các em như những kẻ tiên phong của nền mỹ học hậu tương lai.
Ngày 10.10.1975. Hôm qua em vẫn còn là con gái. Hôm nay em đã thành đàn bà. Người đàn bà trẻ hỏi ông đại úy: Nhà em không còn phải lo đi kinh tế mới? Ba em sẽ sớm được về phải không?
Tất nhiên là nhà em không bao giờ phải đi kinh tế mới, khi có anh ở đây. Cũng tất nhiên là ba em sẽ sớm được về, nếu ba em cải tạo tốt.
Lẽ ra, anh nên để cho các cô gái rên rỉ vì sướng. Văn chương là tiếng nói của cơ thể. Hằng nói. Mọi sản phẩm của trí tuệ chỉ dẫn đến sự tha hóa.
Ngày 10.3.2004. Anh Hai nói với Hồng Phượng: Em vừa ngon vừa ngọt.
Thèm không?
Thèm.
Cho anh bú liếm suốt ngày nhé.
Sướng.
Cho em về làm vợ anh.
Ok. Anh thuê nhà riêng cho em ở.
Ở nhà thuê có ma.
Nhưng về nhà anh sao được.
Thì mua nhà cho em.
Để anh tính.
Ngày 11.3.2004. Hồng Phượng gọi điện thoại cho anh Hai: Anh đến quán em chơi.
Hôm nay anh bận.
Ngày 12.3.2004. Hồng Phượng lại gọi điện thoại cho anh Hai: Anh có nhớ em không?
Nhớ.
Đến quán em chơi đi.
Hôm nay anh kẹt.
Ngày 13.3.2004. Hồng Phượng vẫn kiên nhẫn gọi cho anh Hai: Sao anh không đến chơi với em?
Anh rất muốn.
Đến đi, em cho anh bú.
Anh đang bị sưng lưỡi.
Ngày 11.11.1975. Người đàn bà trẻ nói với ông đại úy: Hình như em có bầu.
Thật không?
Thật. Anh không vui sao?
Anh không biết phải tính thế nào.
Thì cưới em đi chứ còn tính gì nữa.
Chưa được đâu. Vợ anh mới ở quê lên.
31.12.1975. Cái bầu của người đàn bà trẻ đã to lên, ai cũng nhìn thấy. Ông đại úy phải làm kiểm điểm với đảng ủy, ban chấp hành công đoàn, cơ quan cấp trên và bị cho nghỉ việc đồng thời bị khai trừ ra khỏi đảng và xuất ngũ. Lý do chính yếu không phải vì ông đã phá hoại đời một cô gái, mà ông đã quan hệ bất chính với phần tử nguy hiểm con của sĩ quan ngụy. Ông về quê với người vợ cũ. Đến khi người đàn bà theo ông làm cách mạng bản thân sinh con thì ông để bà vợ cũ ở dưới quê như hồi nào vẫn thế và lên thành phố ở hẳn với người mẹ trẻ của con mình. Dẫu sao thì ông vẫn là người có công với cách mạng, không khó khăn lắm, ông tìm cho mình một công việc mà ông tin rằng có thể kiếm tiền một cách dễ dàng nhất. Đi buôn gỗ.
Ngày 1.3.2004. Cái Nhớn, cái Nhỡ, cái Bé bỏ ruộng muối. Chỉ có mình cái Nhỡ ôm theo bọc quần áo. Hai đứa kia, mỗi đứa mặc hai áo. Chúng ra đường đón xe về thành phố. Chúng bảo muối làm hai bầu vú chúng teo lại và cửa mình chúng khô cong. Chúng muốn có quần áo đẹp và những chàng trai thành phố. Chúng không muốn suốt đời phải úp mặt xuống ruộng muối. Trong túi chúng, không đứa nào có tới một trăm ngàn đồng. Nghe nói, trong thành phố dễ kiếm việc làm. Cho dù có phải đi ở cho người ta thì cũng hơn ở cái xứ sở chỉ có cát và muối này. Ngày đầu tiên ở thành phố, chúng loanh quanh khu bến xe. Thành phố không ai biết chúng. Đêm đến, chúng ôm nhau ngủ. Mấy thằng bụi đời chen vào nằm giữa, bọn chúng sợ hãi vào ngồi với ông bảo vệ bến xe. Ông bảo vệ bảo muốn tìm việc làm thì nhờ mấy ông chạy xe ôm. Ông xe ôm bảo muốn xin việc làm thì gặp mấy bà chủ quán. Chúng mày muốn bán bia ôm, cà phê ôm hay vào động đĩ? Chỗ nào kiếm tiền cũng dễ. Không muốn dễ thì đi bán vé số. Chúng cháu không có vốn. Không có vốn thì đã có cái trời cho. Chúng mày cứ bán cái trời cho cho tiện. Xét cho cùng thì nó cũng đâu phải của chúng mày. Cứ tung hê cho cuộc đời phủ phê nồng ấm. Các bác khôn ngoan, xin các bác cứ dạy.
Năm 975. Bà Phạm Thị vãn cảnh chùa Tiêu Sơn, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, hứng tình với thần thánh về có bầu. Cùng năm đó đẻ ra Công Uẩn. Ba năm sau, xem tử vi cho Công Uẩn, biết đứa trẻ có số làm vua, sư Lý Khánh Văn mới nhận mình là cha và đem về nuôi.
Ngày 20.5.1976. Lan Thanh đẻ đứa con trai đầu lòng. Khi đứa trẻ vừa lọt lòng, người mẹ thấy một vầng sáng lớn xuất hiện ngay cửa ra vào, nên đặt tên con là Đại Quang. Hai tuổi, Đại Quang đã đọc được sấm Trạng Trình.
Năm 1010. Lý Công Uẩn làm vua, bỏ Hoa Lư chọn đất có rồng bay làm kinh đô. Lúc ấy có một thày địa lý người Tàu đến Thăng Long, ông ta sợ rằng người Việt sẽ làm bá chủ thiên hạ, bèn ếm bùa ngay mắt con rồng, chỗ sau này người Hà Nội gọi là Hồ Gươm. Bùa hiệu nghiệm đến nỗi, chỉ tám năm sau ngày đăng quang, Lý Thái Tổ đã không nhìn thấy đường vội sai người sang Tàu thỉnh kinh Tam Tạng về làm quốc đạo, xuất công khố đúc chuông, xây chùa khắp nước. Từ đó, quốc đạo của người Việt thời nào cũng phải thỉnh từ xứ người.
Ngày 14.3.2004. Hồng Phượng không điện thoại cho anh Hai nữa. Cô gái hiểu rằng tất cả đàn ông đi uống bia ôm đều là “người Việt nói dối”. Giữa lúc ấy Đại Quang về nước thăm mẹ. Hồng Phượng nhìn thấy hắn và nghĩ, con mồi này xem ra còn có dây buộc.
Anh Đại Quang ơi, anh là ánh sáng là chân lý của đời em.
Em là cái bánh bao khai.
Không phải, em là đặc sản nhà hàng Lan Thanh.
Cho anh nếm mùi đi.
Em cho anh luôn đời em.
Anh chỉ cần ít ngày thôi.
Lan Thanh không thích mối quan hệ này, bà nói với Đại Quang: Không được quá trớn. Mày muốn vui chơi đi chỗ khác.
Tuy thế, Hồng Phượng vẫn tìm cách gặp Đại Quang với hy vọng gắn bó đời mình với bà chủ.
Năm 1976. Ông đại úy, bố của Đại Quang cùng vài người bạn đã xuất ngũ quay trở lại rừng. Họ thuê người đốn cây và chở về thành phố bán cho các xưởng cưa. Kẻ nào muốn làm luật thì có luật. Tiền vãi ra trên đường, họ vẫn giàu lên nhanh chóng. Chủ nghĩa xã hội muôn năm. Cha chung không ai khóc. Những kẻ ưu tú là những kẻ sống trên sự ngu dốt của người khác. Trong lúc con cái của nhân dân lớn lên bằng khẩu hiệu thì cậu ấm Đại Quang lớn lên bằng sữa ngoại. Năm tám tuổi, cậu ấm được gửi đi vượt biên đến ở với bác Đại, bởi vì cha mẹ cậu biết rằng, trong một xã hội giả dối, sự giàu có nào cũng bị coi là gian lận.
Khí hậu mát mẻ của nước Mỹ làm Đại Quang lớn nhanh như thổi. Năm mười lăm tuổi, Quang đã như một thanh niên trưởng thành. Bà chị Mỹ đen trông thấy cậu trong hành lang của tòa nhà tháp đôi ở New York đang giáo dác nhìn ngó những cặp vú lủng lẳng qua lại. Bởi một sự mẫn cảm của loài thỏ, bà chị Mỹ đen ngửi thấy mùi sữa tinh khiết trong háng cậu và chị không cưỡng được cơn thèm muốn uống cái nước trắng đục ấy của cậu. Chị vỗ vào mu của mình, gọi cậu: “Come here”. Cậu đi theo mùi cháy khét bí ẩn và bị đẩy vào thang máy. Trong một khoảng chật hẹp đầy hơi người, cậu thấy con cu của mình bị nắm chặt. Đến tầng thứ năm mươi ba, con cu cậu vẫn bị nắm và kéo vào một phòng làm việc nhỏ. Ở đó, cậu bị tụt quần và bà chị Mỹ đen quì xuống mút điên cuồng con cu của cậu. Vẫn không làm chủ được mình, cậu bị bà chị Mỹ đen ấn đầu cậu xuống bắt ngửi cái mùi hôi nhất của chị, khi chị đã tốc váy lên và ngồi trên bàn. Cậu chịu không nổi cái mùi vừa hôi vừa khét của chị. Nhưng có một nguồn cơn nào đó không hiểu, đun đẩy cậu ngoạm vào cái miếng thịt bầy nhầy đầy lông ấy như một con chó con giúi mõm vào hũ bơ. Cái mùi hôi dần dần tan biến và trên sóng mũi của cậu, chỉ là mùi lúa chín trên cánh đồng vàng của quê hương dâng lên dào dạt. Mùi lúa chín trở thành nỗi ám ảnh của cậu và nó khỏa lấp tất cả sự thông tuệ của một thần đồng nơi cậu.
Năm 975. Con rồng trên mái chùa Tiêu Sơn cũng đã ngửi thấy mùi lúa chín trong háng bà Phạm Thị. Đợi cho lúc ánh nắng chiếu vào mắt bà, con rồng quẫy đuôi bay xuống sân chùa và nó cũng không thể cuỡng nổi cơn thèm muốn uống cái mùi nồng nàn đồng ruộng của bà. Nó chui vào trong váy bà quẫy đạp làm nổi cơn cuồng phong suốt vùng Kinh Bắc. Từ ngày ấy, con gái Kinh Bắc lúc nào cũng dậm dật hát quan họ, chèo kéo một nỗi niềm xa vắng.
Năm 1894. Lý Công Uẩn luân hồi tái sinh trong một gia đình trọng Nho học ở Chợ Lớn. Với vốn chữ Hán trong kinh Tam Tạng mà Uẩn đã học được từ năm 1018, Uẩn làm thơ tiếng Hán để bày tỏ chí khí của mình, nhưng thơ không thể cứu được nước mất và kinh Tam Tạng không phải là vũ khí chống được quân thù. Trong một buổi chiều nắng cực, Uẩn ra bến sông Sài Gòn hóng gió. Chiến hạm của Pháp đậu kín mặt sông. Uẩn nghĩ, cọc gỗ của Ngô Quyền hay Trần Hưng Đạo không thể đánh đắm được những con tàu sắt. Thời nào cần có giải pháp của thời đó. Vốn là một minh quân, Uẩn nhận ra chân lý và ngay chiều hôm đó Uẩn xin xuống tàu làm tạp dịch với mong ước đi khắp thế giới tìm tâm kinh về cứu nước. Lòng nhiệt thành đến nỗi Uẩn không kịp về nhà từ giã cha mẹ, anh em.
Năm 1914. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra, Uẩn được đưa đến mẫu quốc làm công nhân trong một xưởng đúc súng. Ở đó, đêm đêm Uẩn đọc sách của Voltaire, Montesquieu và cả Machiavel, tránh xa những khu nhà thổ đang mọc đầy lên khắp nước Pháp.
Ngày 16.3.2004. Trong quán bia ôm, Hồng Phượng đổ bia lên người mình. Bia chảy đến đâu, Đại Quang liếm đến đó. Mùi lúa chín khét của bà chị Mỹ đen năm nào vẫn ám ảnh khiến mũi hắn khụt khịt vì sặc nước trong cửa mình Hồng Phượng tuôn ra.
Ngày 30.10.1979. Trên vùng biên giới Kampuchia, những cây gỗ bằng lăng to hai người ôm lần lượt ngã đổ, để lộ ra một toán lính Khmer đỏ với súng AK Trung Quốc và đạn dược quấn quanh người. Ông cựu đại úy, bố Quang, nhìn thấy sát khí hừng hực trên mặt bọn Khmer đỏ, biết ngay tình nghĩa quốc tế vô sản đã không còn nữa. Ông ta bỏ chạy. Bọn Khmer đỏ nổ súng. Tiếng súng quen thuộc của chiến trường năm xưa làm ông sợ hãi, nhưng vẫn đủ tỉnh táo để luồn lách giữa những lằn đạn thù hận. Khi được bộ đội biên phòng cứu thoát, ông mới hoàn hồn nhận ra mình bị thương ở bọng đái.
Người vợ tận tụy trung thành năm xưa của ông ở dưới quê mang ông về nuôi.
Năm 1918. Thằng Kuzu ở xứ Congo thuộc Pháp lôi Uẩn ra khỏi đống sách, nó bảo:
Mày muốn làm cách mạng thì cần phải biết đàn bà là gì, nhất là đàn bà mẫu quốc.
Uẩn nói: Tao ăn chay trường.
Cũng được. Nhưng chắc mày biết Đức Phật cũng đã lấy vợ và đẻ con. Chúa Giêsu cứu thế cũng đã yêu say đắm Madalenna.
Ngày xưa họ Lý nhà tao đã mất ngôi vì mấy con thị mẹt. Tao thù đàn bà.
Nhưng nếu mày không biết đàn bà thì không bao giờ mày hiểu được cái xã hội cần giải phóng là gì.
Tao không cần biết cái xã hội cần. Tao chỉ cần biết cái tao cần.
Đấy là phục hồi ngai vàng nhà Lý?
Không, tao muốn bọn Tây phải cút khỏi đất nước tao.
Chuyện này để tao chỉ cách cho mày. Nhưng trước hết mày vẫn cần phải biết mùi đàn bà.
Cách gì?
Sang Nga. Nhưng mày không thể đi một mình.
Kuzu dẫn Uẩn đến một khu nhà ổ chuột. Céline như một đám mây trước giờ mưa bão đón họ. Kuzu nói: Mày muốn đến được Moscou an toàn thì phải lấy Céline. Phòng nhì Pháp đang đặt câu hỏi về tính cách bất thường của mày.
Uẩn và Céline ra tòa thị chính đăng ký kết hôn.
Uẩn nói: Anh là người chay tịnh.
Céline cười: Còn em là loài ăn thịt sống.
Con thú ăn thịt sống đè kẻ chay tịnh xuống đất và bảo: Cuộc cách mạng vĩ đại nhất của nhân loại là phụ nữ nằm trên.
Ngày 15.10. 1980. Bố của Lan Thanh được tha khỏi trại cải tạo. Ông là một trong những người đầu tiên làm đơn xin đi Mỹ theo diện HO do chính phủ Mỹ bảo lãnh. Ông bảo: Đã chịu đựng được cái nhục khi phải nhận tội cái mình coi là lý tưởng, thì không còn cái nhục nào không chịu đựng được.
Tháng 10. 1954. Cô bé Mì mới bảy tuổi được bố đem gửi cho người bạn thân di cư vào Nam. Bố Mì nói: Tôi cảm thấy có điều gì đó dường như sai lầm, nhưng không thể sửa chữa được nữa. Tôi không muốn nó phải gánh chịu sự sai lầm của mình. Anh mang nó đi càng xa càng tốt. Nó là con anh.
Bố Mì trở về Cao Bằng, tiếp tục cầm súng trong nỗi xao xuyến về địa ngục.
Năm 1925. Uẩn nói với Céline: Anh phải về nước. Em ở lại nuôi con. Hy vọng một ngày nào đó, chúng ta sẽ gặp nhau lại, nếu em chờ anh.
Céline không nói gì. Bà hiểu rằng, không điều gì có thể ràng buộc được một người đam mê chính trị, ngoài chính tham vọng của anh ta.
Uẩn không về nước ngay mà cùng với Kuzu đi Moscou. Suốt hai năm, Uẩn ăn ngủ trong thư viện của trường đệ tứ quốc tế, đọc và học thuộc lòng tất cả các sách của Marx, Engel, Lénine. Uẩn nói với Kuzu: Sự thuận hòa của Phật giáo chỉ là thứ chính trị của thời bình. Tôi đã tìm thấy đạo cho dân tộc mình bằng sách lược của Lénine.
Chia tay Kuzu, Uẩn theo con đường tơ lụa của nhiều thế kỷ trước về Trung Hoa thăm dò tình hình.
Ngày 16.3.2004. Đại Quang đã chếnh choáng buồn ói. Hắn nằm gối đầu lên đùi Hồng Phượng. Mùi thơm của những cánh đồng lúa chín vàng tràn vào phòng. Hắn hỏi: Thực tại hay hư vô?
Hồng Phượng không hiểu hắn nói gì. Cô nói: Cứ vô đi thì biết thực hay hư.
Ừ thì vô. Chăm phần chăm nhé.
Hồng Phượng đổ bia vào hư vô. Đại Quang uống bia từ thực tại. Cho đến khi Đại Quang đã chui cả trí khôn và mình mẩy vào trong âm ty của Hồng Phượng thì lại một lần nữa hắn trở nên thông tuệ. Hắn nói: Mùi lúa quê hương cứu rỗi những linh hồn xa xứ.
Năm 1932. Uẩn đứng trên bờ biển Hồng Kông nhìn về phương Nam thấy lửa khói mịt mờ. Từng đoàn người gậy gộc trong tay rời bỏ cánh đồng, họ đi về phía lửa cháy, hô vang: Không làm nô lệ. Tiếng hô của họ làm rách một bên màng nhĩ của Uẩn. Trong lòng bồn chồn, Uẩn nhìn thấy họ chết trong đống lửa. Về sau này, Uẩn chỉ nói mà không nghe được người khác nói.
Hằng hỏi: Năm 1968, anh ở đâu? Tết Mậu Thân anh ở Kontum. Sao người ta bảo anh làm chánh án tòa án nhân dân ở Huế? Ngày ấy, người ta nhuộm máu nhau, nhưng anh không giết người. Có người lại bảo, anh là một trong những người lập danh sách những kẻ phải chết? Không, anh không giết người. Vậy những kẻ đã chết thì do ai giết? Anh không biết. Ai biết? Nhân dân.
Năm 1893. Hồn Lý Công Uẩn bay phất phơ trên mái Lăng Ông, Bà Chiểu. Uẩn tiếc nuối cơ hội mở mang bờ cõi về phía Tây của Lê Văn Duyệt. Vì lòng nghi kỵ, Minh Mệnh đã cản đường Duyệt. Lê Văn Duyệt không có người nối dõi, Uẩn đành chọn cô gái có lòng thành tín lúc ấy đang xin xăm trong lăng để đầu thai. Cô gái đầm đìa nước mắt khấn: Thần thánh có thiêng xin cho con tấm chồng. Cô gái nóng lòng lắc ống xăm. Quẻ xăm có nội dung như sau: “Nhà rồng có một đứa con, không chồng mà chửa mới ngon hơn người. Số này đến chín phần mười, đẻ con quí tử rạng ngời tông môn”. Cô gái bồi hồi bước ra ngoài, nắng mùa hè làm cô lóa mắt, dường như có một ánh chớp mang hình con rồng đánh vào người cô. Tháng ấy, cô tắt kinh. Một nỗi xao xuyến từ trời đổ xuống lòng cô. Ngày ngày, cô vào lăng, lắc mình trong ống xăm tìm lời giải đáp của định mệnh. Quẻ xăm càng nhiều, lòng cô càng rối. Thày đồ chuyên viết thư pháp ở cổng lăng, vốn dòng dõi nhà Lý, tên Công Chính, nhìn thấy sự hoang mang lo lắng của cô, ngỏ ý đón cô về làm thiếp. Cô gái từ chối lời cầu hôn của Công Chính, trốn vào Đồng Ông Cộ chờ ngày lâm bồn. Bởi một linh tính của huyết thống, Công Chính đi lại thăm nom cô.
Ngày rồng hạ sinh, có mây ngũ sắc phủ trên mái nhà. Để cho cuộc đản sinh của rồng mãi mãi là huyền thoại, người mẹ đã phải chết trong sự sợ hãi bởi những bóng ma tật nguyền của tương lai đứng trước cửa đòi báo oán. Rồng không khóc. Bà mụ đỡ đẻ cho rồng bảo: Đứa bé có năm tràng hoa quấn cổ này về sau gan lì lắm.
Lý Công Chính đem rồng về nhà mình nuôi nấng và gọi là Uẩn. Uẩn lớn lên trong sự thù ghét của những đứa con bà cả. Chính vì thế, sau này Uẩn không bao giờ về thăm nhà, cho đến khi tất cả anh em đều chết.
Ngày 8.3.1980. Cậu bé nhỏ hơn Lan Thanh mười tuổi mang đến cho nàng một bó hoa hồng, nói: Hoa hồng mang tôi đến tặng cho chị.
Hoa hồng nghĩ là tôi sẽ nhận cậu?
Vâng, vì tôi yêu chị.
Người đàn bà một con thiếu đàn ông đã lâu nhìn cậu bé chăm chú. Cậu có đôi mắt buồn gợi cảm, nhưng đôi môi lì lợm. Lan Thanh nói: Lại đây với tôi.
Cậu bé bước tới ngồi dưới chân Lan Thanh. Nàng xoa đầu cậu bé: Biết mùi đàn bà chưa?
Rồi.
Thật không?
Cậu bé im lặng. Lan Thanh kéo đầu cậu bé vào lòng mình cho ngửi mùi lúa chín.
Ngày ấy, Đại Quang đang ở Mỹ với ông bác. Lan Thanh sống một mình buồn tẻ. Nàng mang cậu-bé-hoa-hồng về nhà mình giúp giặt quần áo, lau nhà và làm tình để cảm thấy cuộc đời không vô vị. Nhưng cậu bé lãng mạn bẩm sinh ấy tiềm tàng một sức mạnh tình dục không bờ bến đã đẩy nàng đến một thói quen trần truồng hoang dã. Cứ ở cạnh nàng là cậu cương cứng. Cậu dùng cả thân xác mình và những ý tưởng sáng tạo phụng hiến cho sự dâm đãng ẩn giấu của nàng bất kể sáng trưa chiều hay đêm tối.
Năm 1963. Bà Trần Lệ Xuân bảo món thịt nướng của mấy ông sư ăn không được. Mì lên chùa Ấn Quang đốt hương cầu nguyện cho bố. Người đưa tin cho biết, miền Nam sẽ có nhiều biến cố khó lường, nếu Mì muốn, sẽ đưa Mì ra nước ngoài. Mì nói: Tôi đã một lần xa bố. Tôi không muốn đi xa hơn nữa.
Hai năm sau, Mì lấy chồng, một người làm dân biểu quốc hội phò các thày ở chùa Ấn Quang.
Năm 1945. Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Bảo Đại trao ấn kiếm cho đại diện Việt Minh để làm công dân một nước độc lập. Lý Công Uẩn lúc ấy đang ở Hàn Quốc thăm họ hàng, được tin ông vua cuối cùng của Việt Nam đã thoái vị, uống cạn ly rượu với hậu duệ, Uẩn thốt: Chế độ phong kiến đã cáo chung, nhưng các vương triều vẫn sẽ lần lượt trị vì thiên hạ. Ta và con cháu của ta sẽ trở lại.
Năm 1965. Lính Mỹ đổ bộ vào Việt Nam mang theo kẹo cao su, thuốc lá và kiểu cách làm tình mới. Con gái Việt Nam làm me Mỹ sướng hơn làm me Tây vì Mỹ thích bú lồn. Bà Phó Đoan bảo ngày xưa thằng Xuân tóc đỏ không biết chơi kiểu sáu chín.
Ngày 20.7.2001. Mì trưng bày 40 bức tranh sơn dầu ở Trung tâm triển lãm thành phố Hồ Chí Minh theo những hồi ức về cuộc tình lén lút với một cố vấn Mỹ. Không ai biết bà già sáu mươi học vẽ lúc nào. Cuộc triển lãm được Ban chấp hành Hội Mỹ thuật thành phố đánh giá là thành tựu đột biến của một tài năng. Các phóng viên báo chí dựa vào đấy cũng viết bài ca ngợi như một hiện tượng. Riêng các quan chức chính quyền và các doanh nhân giàu có thì được thúc đẩy bởi một sự đầu cơ chính trị đã đến vét sạch tranh của bà bằng cái giá tranh của bộ tứ Phái-Sáng-Liên-Nghiêm.
Tôi kể cho Hằng nghe: Có một tin đồn không biết xuất phát từ đâu, nói rằng bà Mì là con của ông Lý Công Uẩn. Những kẻ theo chủ nghĩa bảo hoàng muốn theo đóm ăn tàn, đón gió, hy vọng một ngày kia Lý Công Uẩn lên ngôi trở lại, sẽ trở thành người có công với vương triều. Bà Mì không phủ nhận tin đồn đó, chẳng những thế, bà còn cho mọi người xem album ảnh của bà chụp ở lăng và đền thờ nhà Lý tại làng Đình Bảng, Bắc Ninh, cũng như những bức ảnh bà chụp ở ngôi nhà cũ của Lý Công Uẩn trong Chợ Lớn. Phần anh, đánh giá tác phẩm của bà ấy như thế nào? Hằng hỏi. Tôi nói: Đấy là tranh của người tập vẽ.
Ngày 25.4.1975. Ông cố vấn Mỹ gọi điện thoại cho Mì bảo: Em đi Mỹ với anh. Việt Cộng đã bao vây Sài Gòn.
Mì trả lời: Em không thể đi với anh. Cám ơn anh đã cho em những ngày hạnh phúc, cũng cám ơn anh những gì em đã được biết từ anh. Em phải ở lại để đón bố.
Năm 1954. Vô sản thế giới đoàn kết lại. Quân thù có cái bụng Xã Xệ. Quân thù có con mắt Lý Toét. Quân thù mang tên địa chủ. Quân thù là Khái Hưng. Quân thù là Nhân Văn Giai Phẩm. Quân thù là Vũ Trọng Phụng. Quân thù là Phạm Quỳnh. Quân thù là tư sản. Chúng ta đến xứ này để phanh thây xẻ thịt kẻ thù. Chúng ta phải giành lại bát cơm của nó và bắt nó phải ăn cứt. Chúng ta phải cướp lấy ngôi nhà của nó và cho nó xuống ở chuồng lợn. Chúng ta tru di ba đời nhà nó bằng chủ nghĩa lý lịch.
Rít cạn một hơi thuốc lào rồi chiêu ngụm trà, Lý Công Uẩn nhắm mắt không muốn nhìn thấy cảnh đấu tố hỗn độn ở sân đình. Nhưng rồi Uẩn đứng lên, bảo một người dưới quyền: Đồng chí hãy đánh chiêng trống lên cho thêm phần bi tráng.
Năm 1920. Phan Chu Trinh gặp Lý Công Uẩn ở Paris. Trinh nói: Tôi cho rằng cuộc cách mạng dân trí mới là cuộc cách mạng căn bản.
Uẩn cười: Kinh nghiệm của tôi từ thế kỷ mười một cho thấy, nhân dân lúc nào cũng là bầy cừu. Vấn nạn của một dân tộc là vấn nạn của người chăn dắt.
Năm 1882. Quan huyện Từ Sơn Lý Công Chính treo ấn từ quan, thác là bệnh nhưng thật ra ông chán cảnh luồn cúi. Chính bảo hoặc làm vua, hoặc làm dân. Làm quan ở giữa giống như con cu bí đái. Ông về làng dạy học. Nhưng ông như cái gai trong mắt bọn quan lại, chúng tìm cách hãm hại ông, vu cho tội tuyên truyền phản động. Chính phải bỏ làng vào Nam sống lẩn lút trong Chợ Lớn với người Hoa, để lại người vợ với hai đứa con cho thành hoàng và tổ tiên chăm sóc. Bang trưởng Quảng Đông thấy Chính có cốt cách bèn vời Chính về nhà làm phụ đạo cho con mình. Ba năm sau, Chính được bang trưởng đặc cách mai mối cưới một cô gái lai Việt. Cũng nhờ ông bang trưởng này mà khi Lý Công Uẩn về Trung Quốc, đã được người Hoa giúp đỡ.
Năm 1972. Mì gặp đại tá Custer tại hồ bơi của chuẩn tướng Bách ở Thủ Đức. Lúc ấy người Mỹ đã thấm mệt trong cuộc chiến Việt Nam. Nhìn cái thân thể ướt đẫm đầy lông của Custer từ dưới hồ lên, Mì chợt có cảm giác con dã thú này sẽ ăn thịt mình. Custer nói: Đàn ông thường giải quyết sự mệt mỏi của mình bằng cách tìm một mệt mỏi khác với đàn bà. Tôi đã thấy sự sợ hãi trong mắt bà, Mì ạ, và bản năng đàn ông trong tôi vừa muốn che chở bảo vệ bà, vừa muốn chiếm đoạt bà.
Mì phản ứng tự vệ: Người Mỹ đang bỏ cuộc. Tôi nghĩ ông cần phải chạy trước.
Custer cười: Lẽ ra người ta phải đưa bà tới cuộc đàm phán ở Paris.
Nếu tôi có quyền quyết định, tôi không đàm phán.
Bà định bắc cầu ngang Thái Bình Dương qua đánh San Francisco?
Mì cười. Custer cũng cười. Con thú nói:
Bà thật khiêu khích. Tôi không thể nào không chiếm đoạt bà trước khi bà đến được Washington DC.
Lần gặp thứ hai, Custer nói: Tôi muốn mời bà đến Mỹ khảo sát địa hình trước.
Tôi sẽ cùng đi với chồng chứ?
Không, tôi sẽ thu xếp cho ông ấy đến Australia.
Lần gặp thứ ba, Custer hỏi: Em có ý định chiếm hết nước Mỹ không?
Em nghĩ chỉ cần New YorkWashington DC, Los Angeles là đủ.
Năm 1949. Những người bạn Trung Hoa của Lý Công Uẩn đã đẩy Tưởng Giới Thạch ra đảo Đài Loan. Uẩn được chứng kiến một trong những cảnh tượng hoang đường nhất của lịch sử nhân loại. Từng người một bị vặn cổ oặt ra phía sau, nên mắt họ thường nhìn mông của mình. Cu đàn ông biến thành đuôi và vú đàn bà biến thành hai cái gù như gù lạc đà. Người ta bảo rằng dị dạng như thế là đẹp.
Năm 1973. Mì đến Mỹ cùng với Custer. Ở đó, lần đầu tiên trong đời Mì mới biết âm hộ đàn bà quí giá và đáng kính dường nào. Mỗi lần muốn bú, bao giờ Custer cũng lạy ba lạy trước cửa lồn Mì. Custer bảo đấy là lễ giáo Đông phương. Trong chỗ thân tín, Mì cũng tán tụng: Cặc Mỹ ngon nhất thế giới.
Ông chồng dân biểu của Mì không phải là thằng đần. Ông biết chuyện vợ ngoại tình với Custer, nhưng ông muốn lấy điểm với Mỹ cũng như cần lòng từ bi của các thày ở chùa Ấn Quang.
Ngày 16.3.2004. Hồng Phượng hỏi Đại Quang: Anh mỏi mồm chưa?
Mỏi rồi nhưng vẫn thèm.
Thèm thì bú tiếp đi.
Năm 1995. Cha mẹ Lan Thanh đã xuất cảnh được một năm. Nàng ở lại vì ghiền cái măng sữa của cậu-bé-hoa-hồng. Nhưng cậu bé đã cảm thấy mật của Lan Thanh có vị tanh, sữa của Lan Thanh có mùi ôi. Cậu đi tìm sữa tươi hơn và mật ngọt hơn. Buồn chán, Lan Thanh kinh doanh nhà hàng mong tìm được niềm vui trong sự sa đọa của mình và của những người chung quanh.
Hằng đã rất ít liên lạc với tôi. Tôi hỏi: Em tìm thấy cái gì ở Mỹ? Hằng chọc tức tôi: Một thằng Custer. Tôi bảo: Nếu là một thằng Custer thì mừng cho em, nhưng anh sợ là một nàng Rosa. Hằng chửi: Anh là thằng khốn. Nhưng không lâu sau, Hằng lại viết cho tôi: Rosa rất dễ thương, tụi em đi ăn với nhau và Rosa dẫn em về nhà. Rosa cho em coi những dụng cụ cầm tay của nó. Nó hỏi có thích thì nó cho một cái. Em bảo không xài hàng giả. Nó bảo hàng giả nhưng chất lượng thật. Tại sao anh không ở đây với em?
Năm 1947. Những người bạn Trung Hoa bảo Lý Công Uẩn: Đồng chí nên làm một người bình thường trước khi trở thành vĩ nhân.
Thì tôi vẫn là người bình thường.
Không, đồng chí đang đóng vai thánh nhân. Ngô Đình Diệm đã vào tu viện. Đồng chí cần chứng tỏ mình thật sự là đàn ông. Bọn lại cái hay đồng tính không có chỗ đứng ở phương Đông.
Tôi đã có vợ rồi.
Đồng chí cần phải làm lại lý lịch của mình, thể hiện triệt để tính giai cấp. Đồng chí phải xóa bỏ dấu tích hoàng tộc, phủ nhận vợ ngoại bang để làm một bần nông bất khuất, lấy vợ công nhân kiên cường, và đẻ một lũ con trung dũng. Khi thời cơ thích hợp, chúng tôi sẽ đưa đồng chí về nước.
Tháng 3.1975. Ông dân biểu, chồng Mì, tất tưởi đi lại chùa Ấn Quang, tìm một chỗ đứng trong thành phần thứ ba của Hiệp định Paris. Ông thỉnh ý các thày: Con phải làm gì?
Các thày bảo: Khi lũ đổ xuống thì người biết bơi cũng có thể chết.
Ông bảo vợ: Em hỏi Custer xem, liệu có thể thành lập chính phủ liên hiệp không?
Custer bảo Mì: Chỉ có thể có một liên hiệp là liên hiệp giữa ba chúng ta.
Ngày 16.3.2004. Giữa lúc Đại Quang vẫn còn đang bú Hồng Phượng thì Khánh My xô cửa vào phòng. Hồng Phượng quát: Mày làm gì vậy?
Khánh My trơ tráo nói: Tao vã quá.
Đại Quang bảo Khánh My: Đến đây với anh.
Năm 1951. Sau khi chứng kiến cuộc thảm sát Khổng Tử, Lão Tử và Thích Ca Mâu Ni trên đất Trung Quốc, Lý Công Uẩn đã bị dao động mạnh. Staline giết người hàng loạt. Mao Trạch Đông giết người tập thể. Hai mươi bốn năm sau, Pôn Pốt cũng giết người đại trà. Lý Công Uẩn đọc kinh sách của Marx, Lénine chữ nào cũng thấy nhỏ máu. Đêm hạ huyền, ngày nguyệt tận, Uẩn âm thầm rời bỏ vợ con, lội qua sông Nậm Thi trốn về nước. Ở Lào Cai ít ngày, Uẩn đóng bè chuối thả trôi theo dòng chảy sông Hồng xuống đồng bằng. Hào cửu nhị: “Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân”. Quẻ Bát thuần càn. Uẩn nói với những người chung quanh: Khi thánh nhân xuất hiện thì đức của người làm cho cây cỏ tươi tốt, mưa thuận gió hòa. Nhưng năm ấy trên toàn cõi Việt Nam khô hạn, mùa màng thất bát, một nửa dân số phải cạp đất tìm giun dế bỏ vào mồm.
Anh vừa mở thùng thư với hy vọng nhận được một cái gì đó của em. Nhưng chỉ có hai tờ giấy bạc năm trăm và hai trăm không biết của ai bỏ vào đấy. Anh nghĩ, rồng đã đi qua đây. Rồng bảo năm 1956 rồng đã khóc vì những ai oán trong cuộc cải cách ruộng đất. Năm 1968 rồng cũng đã khóc vì những xác người vô tội bị chôn vùi ở Bãi Dâu, Huế. Từ năm 1975 đến nay, ngày nào rồng cũng khóc vì những cuộc ra đi tủi nhục của rồng con.
Năm 1954. Pháp rút khỏi Việt Nam. Mì xuống Hải Phòng và lên tàu há mồm di cư. Trên đỉnh núi Yên Tử, Lý Công Uẩn cùng ba vị sư tổ của Trúc Lâm thiền phái ngậm ngùi nhìn dòng người ra biển. Uẩn chảy nước mắt, hỏi: Tại sao họ lại từ chối chúng ta?
Trần Nhân Tông bào chữa: Không, họ mang chúng ta đi thì đúng hơn.
Pháp Loa bình tĩnh: Đi hay ở cũng là đạo.
Huyền Quang không nói gì vì ngài có nhiều kinh nghiệm của người làm chính trị. Những biến thiên của lịch sử chỉ là tâm vọng động.
Một số đệ tử Phật xuống núi di cư. Lý Công Uẩn lại hỏi: Cả các ngươi nữa cũng bỏ ta ư?
Các đệ tử thưa: Chẳng lẽ hoàng thượng cũng muốn chúng tôi phải chết?
Không. Nhưng Pháp cần phải được hoằng trong u tối và Đạo cần phải sáng giữa vô minh. Đức vô úy của các ngươi đâu?
Thưa hoàng thượng, tránh voi chẳng xấu mặt nào.
Người săn voi ở Bản Đôn đã lấy người vợ thứ sáu và đẻ được hai mươi mốt đứa con. Ông ta bảo không có khoảng cách giữa sự ngu xuẩn và lòng dũng cảm, nhưng tiếng tù và có thể khiến được voi qui phục. Ông ta cũng nói, những con voi cuối cùng đang đi về phía biển. Rừng không còn phải là chỗ cho thú hoang.
Năm 1232. Lễ tế tiên hậu nhà Lý ở thôn Thái Dương, huyện Đông Ngạn, Bắc Ninh, Trần Thủ Độ sai bọn lính tâm phúc đào hầm, làm nhà lá bên trên. Tất cả tôn thất nhà Lý đến lễ đều bị sập hố, Trần Thủ Độ cho lính lấp đất chôn sống, không tha một ai. Trước đó, Lý Huệ Tông đã trốn vào chùa Chân Giáo nhổ cỏ làm công quả mong thoát khỏi nghiệp chướng, nhưng Trần Thủ Độ bảo nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ cái. Huệ Tông hiểu ý, vào sau chùa thắt cổ tự vẫn. Trần Thủ Độ cũng ra lệnh, con dân trong nước, ai là họ Lý muốn sống phải cải thành họ Nguyễn. Từ đó, họ Nguyễn trở thành họ đông nhất ở xứ Rồng.
Năm 1954. Ở miền Bắc, dòng dõi đáng để kiêu hãnh nhất là con nhà bần cố nông. Lý Công Uẩn khai lý lịch, bố: Lý Khánh Văn quét lá đa chùa Cổ Pháp. Ông nội: Lý Khánh Vũ cày thuê cho địa chủ ở Từ Sơn.
Năm 1975. Ở miền Nam, dòng dõi an toàn nhất là con nhà gia đình có công với cách mạng. Mì khai lý lịch, bố: Lý Công Uẩn hoạt động bí mật. Ông nội: Lý Công Chính là bạn của nhà cách mạng Phan Châu Trinh.
Ngày 16.3.2004. Khánh My và Hồng Phượng đồng thanh nói với Đại Quang: Tụi em cho anh làm vua. Rồi đặt Đại Quang nằm trên bàn, hai cô xoay vòng bú liếm hắn từ lỗ tai xuống ngón chân.
Ngày 30.4.1975. Chế độ Sài Gòn đổ sụp, Đại chạy ra bến Bạch Đằng, tất cả tàu hải quân đã nhổ neo. Một người nào đó nói xuống Rạch Giá, Phú Quốc chắc còn kịp. Người ta vội vã tìm đường ra các cửa biển. Đại đeo một chiếc xe đò ra Vũng Tàu. Sau ba đêm canh me, Đại đã lên được một chiếc tàu đánh cá ra khơi.
Đứng ở sân chùa Ấn Quang, Lý Công Uẩn hỏi thượng tọa Thích Trí Sáng: Tại sao ngày nào cũng có hàng ngàn người bỏ chạy?
Thượng tọa Thích Trí Sáng nói: Vì rồng đã chết rồi.
Lý Công Uẩn lại hỏi: Kể cả ta nữa ư?
Vâng, thưa hoàng thượng.
Hai năm sau, Đại liên lạc được với gia đình, nói: Cố gắng đi được thì đi. Lúc ấy, người cha đã nằm trong trại cải tạo, Lan Thanh lại lấy một đại úy Việt cộng. Nhưng dẫu sao, quà từ Mỹ của Đại cũng đã đến đúng lúc trong nhà không còn gì để bán.
Năm 1954. Hơn mười ngàn bộ đội chết ở Điện Biên Phủ. Hơn mười bảy ngàn lính Pháp chết và bị bắt làm tù binh. Ngày ấy, Lý Công Uẩn làm dân công khiêng đạn. Các cố vấn Tàu nói: Chiến thuật biển người, từ lớp này đến lớp khác lao vào chỗ chết, là một cảnh tượng ngoạn mục nhất của chiến tranh. Bọn hậu thế không tin thì cứ xem phim Trương Nghệ Mưu khắc biết.
Hằng nói, nước Tàu nó thừa người, thí bao nhiêu chẳng được.
Ngày 30.4.1975. Lời tuyên bố đầu hàng của tổng thống Dương Văn Minh qua sóng phát thanh như lưỡi dao cắt đứt sợi dây thừng treo cổ. Ông dân biểu chồng Mì bảo: Có lẽ chúng ta phải xuống đường đón quân giải phóng.
Mỗi người cầm một lá cờ, họ hòa vào dòng người nô nức của ngày hòa bình đầu tiên, nhưng tâm trạng bất an. Số phận của họ không thuộc về họ. Chỉ đến khi thoát khỏi bị bắt vào tù, họ mới cảm thấy được rũ bỏ với quá khứ. Đấy là cái may của ông dân biểu khi cán bộ hoạt động nội thành để tên ông trong danh sách khoảng hai mươi ngụy quân, ngụy quyền được miễn phải tập trung cải tạo, vì được coi là yêu nước.
Năm 1968. Chưa bao giờ có nhiều xác chết đến vậy. Xác người chật các ngõ hẻm và la liệt trên các cánh đồng. Lý Công Uẩn được phân công nhặt xác bộ đội trên tất cả các mặt trận, từ Bình Trị Thiên tới đồng bằng sông Cửu Long. Xác thường dân thì để cho thân nhân tự lo. Bọn lính ngụy thì mặc cho quỉ tha ma bắt. Không có xác con thú nào chết hôi thối bằng con người, Lý Công Uẩn lấy bông gòn bịt hai lỗ mũi, miệng nối với bình rượu đế, ngày nào Uẩn cũng đi từ sáng sớm cho đến khi mặt trời lặn.
Hằng hỏi: Hôm nay Uẩn vẫn còn đi nhặt xác bộ đội chết phải không? Ừ, nhưng Uẩn không phải bịt mũi và uống rượu đế nữa, vì xác người đã tan thành đất. Vả lại, mũi của Uẩn cũng tịt rồi.
Tháng 3.1975. Dân Kontum bỏ chạy. Dân Pleiku bỏ chạy. Dân Phú Bổn bỏ chạy. Dân Huế bỏ chạy. Dân Đà Nẵng bỏ chạy. Dân Quảng Ngãi bỏ chạy.
Anh có bỏ chạy không? Hằng hỏi. Không, anh đã ở lại.
Lý Công Uẩn vào điện Thái Hòa và ngồi lên ngai vàng, nhìn suốt mọi thời đại: Các khanh hãy bình thân.
Trần Quốc Tuấn tâu: Giải phóng miền Nam xong, hoàng thượng nên miễn thuế cho trăm họ ba năm để hồi sức dân.
Lê Lợi bảo: Trường kỳ kháng chiến hai cuộc liền, tuy thắng lợi nhưng tổn hại nguyên khí, nên cho lính cả hai bên giải ngũ về quê làm ruộng lập kế tự lực, thế nào chúng ta cũng phải đánh nhau với Tàu lần nữa.
Nguyễn Huệ nói: Sau khi tôi chết, Nguyễn Ánh còn đào mồ bốc mả lên trả thù một cách kinh tởm, để cho lịch sử không tái diễn với hàng triệu người thì theo tôi nên đốt sạch lý lịch toàn dân để tháo giải oán cừu.
Trần Nhân Tôn thêm vào: Quang Trung nói phải. Chính tôi đã ra chiếu chỉ xóa bỏ hẳn quá khứ với tất cả những kẻ lầm lạc cầm kiếm theo giặc Nguyên, còn những người có công lớn như Trần Hưng Đạo thì cho về hưởng nhàn ở Vạn Kiếp, Trần Quang Khải cũng không giao trọng trách nữa. Bản thân tôi, rũ hoàng bào đi tu. Chính vì thế mà tránh được nạn kiêu binh, hòa hợp được dân tộc.
Nguyễn Trãi tâu: Lính Nam hay lính Bắc khi cầm súng đều nghĩ mình hy sinh vì đất nước. Xin hoàng thượng lấy đức khoan dung và chính trực cho làm hai tượng đài trên hai sông Gianh và Bến Hải ghi công tất cả những người đã chết với dòng chữ: “Chúng ta chỉ có một tổ quốc”.
Trần Thủ Độ lên tiếng: Các ông đều là những người mơ hồ. Không biết phân biệt địch ta thì không thể giữ được cơ nghiệp.
Nghe Trần Thủ Độ nói xong, Lý Công Uẩn không kịp tuyên bố bãi triều lật đật tụt xuống đất, tiếp tục đi nhặt xác người.
Ngày 20.7.1954 tại Thụy Sĩ. Chung quanh cái bàn vuông, mỗi cạnh có một người ngồi gồm Đức Khổng Phu Tử, đồng chí Staline, tướng De Gaulle và người cho bánh. De Gaulle khai mạc hội nghị bằng một tuyên bố rút lui khỏi Đông Dương: Nhiệm vụ khai hóa của chúng tôi đã hoàn tất. Tương lai nền văn minh nhân loại thuộc về quí vị.
Người cho bánh rút súng đặt trên bàn theo cái cách mà tổ tiên họ vẫn hành xử, nói:
Năm 1945, chúng ta đã phân chia thế giới theo lẽ công bằng của những người chiến thắng, nhưng ngài Staline và ngài Khổng đã có những tham vọng vượt quá giới hạn cho phép. Chúng tôi đã nhẫn nhịn ở Triều Tiên. Chúng tôi không muốn tiếp tục nhẫn nhịn ở Việt Nam. Chúng tôi vẫn còn nhiều bom nguyên tử.
Staline quơ cây sắt ra trước mặt, lạnh lùng cắt lời: Xin đừng quên là người của chúng tôi đang làm chủ Việt Nam. Cây gậy sắt này có thể đập nát cả phần thế giới còn lại.
Đức Khổng Tử lên tiếng: Chúng ta nên thực tế và giữ hòa khí với nhau.
Người cho bánh nói: OK. Phía Bắc sông Gianh hai vị chia nhau.
Mặt Staline nở ra, ông ta cười cười: Không nên khơi lại vết thương lòng của dân tộc họ. Vả lại, chúng ta cũng cần có dấu ấn riêng của cuộc dâu bể này. Theo tôi, chia đôi Hương Giang thơ mộng thì đề huề cho cả hai bờ thương nhớ.
Người cho bánh nổi cáu: Ông đừng ấm ớ văn nghệ văn gừng với tôi.
Trong khi đồng chí Staline đắc chí cười hô hố thì Đức Khổng Tử điềm đạm góp ý: Trung dung là cái đạo của người quân tử. Chúng ta nên chia nhau ở phần giữa sông Bến Hải.
Họ nhất trí. Đại diện Liên Hiệp Quốc được mời vào khui sâm banh.
Bố tôi kể ngày ấy làm lính của Đức Cha Lê Hữu Từ một tháng chỉ có mấy ký gạo và một bịch muối. Dù vậy, chú tôi đang đi lính cho Tây cũng bỏ về theo đoàn quân của Đức Cha bởi chiếc roi sắt của Chúa đã giáng xuống thế gian.
Trên bãi đất hoang gần biển, đoàn quân vào Nam sau hiệp định chia cắt đất nước vừa xuống tàu hạ trại. Họ dựng lều cho một cuộc trú đóng tạm. Hầu hết vốn là nông dân và họ cầm súng để vinh danh Thượng đế. Trước bữa cơm chiều của ngày ly biệt, đấng cứu thế đã cầm bánh chia mọi người và nói “Này là mình ta, các con hãy cầm lấy mà ăn”. Họ hát vang cả một góc trời để cảm tạ sự sống. Lúc ấy họ đã nhìn thấy biển trên đầu. Những con sóng tạt ngang bầu trời mang theo mọi loại sinh vật được Thượng đế tuyển chọn. Ông Ngô Đình Diệm cho người đến đón đoàn quân và trao tặng thực phẩm dán dấu hiệu bắt tay nhau của viện trợ Mỹ. Đức Cha nhận quà nhưng không vui. Ngài biết ngày của ngài sắp hết. Kẻ cho bánh đã đến và đàn chiên của ngài sẽ rời bỏ ngài. Cánh đồng cỏ của Thượng đế có gai và cũng đến lúc chính ngài sẽ phải nằm xuống trên những cây gai sắc. Kẻ đi tìm vinh quang trần thế không thể tìm thấy sự êm dịu trên trời. Dưới ánh sáng nhá nhem, đàn chiên của ngài, những chiến sĩ tự vệ đang ngửa mặt lên cùng với Thượng đế. Bản thánh ca của họ làm cho biển lặng sóng và mở ra một lối đi giữa hai bờ nước. Nhưng không một ai trong số họ đủ lòng tin bước xuống.
Năm mươi năm sau một thằng cao bồi Mỹ nói trong phim găng tơ rằng, nếu bạn đến một thế giới khác thì cũng không có gì thay đổi. Và hắn bóp cò.
Bố tôi bây giờ đã tám mươi tuổi. Suốt ngày ông nằm một mình. Ăn một mình. Nhưng ngủ với tất cả giấc mơ của nhân loại. Kẻ cho bánh vẫn ngự trên đầu chúng ta và phân phát lòng tin vào miếng ăn. Các chiến hữu Ba Cụt, Năm Lửa hay Trịnh Minh Thế tất nhiên cũng phải ăn mới sống. Đức Cha nói với đàn chiên của mình: Các con hãy cảm tạ Chúa vì sự sống mà ngài ban cho và bổn phận của chúng ta là gìn giữ sự sống ấy để vinh danh ngài. Đàn chiên hỏi: Thưa Đức Cha, gìn giữ bằng cách nào? Đức Cha bảo hãy đi tìm kẻ cho bánh mà hỏi. Bố tôi chẳng bao giờ kể lại như vậy thì tất nhiên điều ấy chỉ có thể do đám hậu thế như tôi phịa ra. Nhưng tôi tin rằng Đức Cha đã nói với ông Ngô Đình Diệm khi giao đàn chiên của ngài cho ông ta, thế này: Ông là người giữ kho, chia bánh là việc của ông, nhưng tôi hỏi thật ông với vài ổ bánh và mấy con cá, liệu ông có thể cho năm ngàn người no đủ không? Ông Ngô Đình Diệm nói: Thưa Đức Cha, con tin vào quyền năng của Chúa và sự lựa chọn của ngài. Đức Cha bảo: Nếu ông tin thì ông cứ làm. Rồi ngài từ bỏ mọi quyền bính và ẩn mình vào trong bóng tối của thời thế. Bố tôi và các chú của tôi vẫn được nhận bánh và họ đổ máu xuống cánh đồng cỏ nuôi tôi.
Thằng cao bồi Mỹ bảo nếu bạn không bước đến một thế giới khác thì sẽ không có gì thay đổi. Hắn lại bóp cò.
Âm vọng lời cầu kinh của đoàn quân tự vệ năm xưa vẫn vang trên bầu trời, nhưng ý định của Chúa thì không một ai thấu hiểu. Cây roi sắt của Chúa đã quất vào lưng chúng tôi. Chúng tôi rời bỏ căn nhà của ngài. Căn nhà ấy biến thành nhà kho của hợp tác xã. Ngọn roi đầu tiên lột hết áo quần của chúng tôi. Đấng cứu thế phán: Từ nguyên thủy các ngươi đã là bầy đàn, giờ ta đến để nối kết các ngươi trở lại trong bầy đàn. Dưới sự chăn dắt của ta, các ngươi được bình đẳng trong sự sống cũng như sự chết, nhưng kẻ nào trong các ngươi khôn ngoan hơn đồng loại kẻ đó phải bị đấu tố bởi sự đố kỵ và thù oán. Bố tôi bảo cần phải trốn khỏi cái lũy tre của các đấng tổ phụ Đinh, Lê, Lý, Trần… Giữa lúc ấy, kẻ cho bánh đến và nói: Bên ngoài lũy tre còn có bức tường sắt, không ai có thể đến với tự do mà không phải đổ máu. Nhưng máu của các ngươi là máu của chim, loại máu ấy không đổi được tự do nếu các ngươi không biết bò sát xuống mặt đất và chui qua háng của các vị thần. Bố tôi bảo chúng tôi chỉ có một thượng đế và ngài sẽ dẫn đường cho chúng tôi. Kẻ cho bánh độ lượng nói: Này, ta hỏi thật, các ngươi sống bằng bánh hay bằng lời? Chúng tôi nhao lên trả lời thay cho bố: Bằng bánh.
Đồng chí Staline cầm cây can bằng ngà voi gõ vào vòng xích chiếc xe tăng nói: Bọn duy tâm chỉ được cái hoa hòe hoa sói. Lịch sử sẽ chứng minh, khi ngồi trên xe tăng, con người là thần thánh.
Tôi thích ăn bánh hơn ngồi trên xe tăng, nhưng người cho bánh đã bỏ đi. Bố tôi bảo đói cho sạch rách cho thơm. Tôi nói: Đức Khổng Tử đã bị đồng chí Mao Trạch Đông treo cổ rồi. Bọn người nửa điên nửa dại vì trót đọc sách thánh hiền cũng đã bị đưa đi lao động cải tạo. Bụng đói thì đầu gối phải bò, các đấng tổ phụ cũng đã nói như vậy. Bố tôi dọa: Đứa nào bò tao đánh cho gẫy cẳng.
Chúng tôi nhìn thấy bụi bốc lên từ phía Đông. Đám bụi mỗi lúc một lớn dần và di chuyển về phía chúng tôi. Nhìn qua hướng Tây, chúng tôi cũng nhìn thấy một đám bụi tương tự. Bố tôi bảo đấy là huyễn tượng của thế giới, chúng mày đừng nhìn kẻo mù mắt. Nhưng chúng tôi đã nhìn thấy từng đoàn người đủ mọi sắc tộc, màu da đang bò lết trên mặt đất. Sự cọ xát của da thịt với đất tạo nên những âm thanh ầm ì như tiếng sấm và bụi che phủ khuôn mặt họ. Tôi nhắm mắt lại khi họ bò sát tới chỗ chúng tôi. Ép chúng tôi vào giữa. Tôi nghe thấy tiếng rú của những linh hồn thanh bạch. Mở mắt ra, tôi chỉ thấy bụi và bóng những con người đang bò xuyên qua nhau.
Trên đỉnh đồi mà người La Mã đã đóng đinh bọn trộm cướp và các đấng tiên tri, đồng chí Staline cầm cây can vung lên trời nói: Tao sẽ giải phóng nhân loại khỏi bọn trộm cướp và bọn nói phét, thiết lập một trời mới đất mới trong ba ngày. Một nửa thế giới đã nghe thấy tuyên ngôn ấy và họ đi theo người.
Bố tôi bảo: Ta không muốn giao các con cho ông ta. Tôi nói: Các anh con đã đi rồi. Lần đầu tiên tôi thấy bố khóc. Các anh tôi sẽ không bao giờ quay lại cho đến khi bố tôi chết.
Ông Ngô Đình Diệm bảo con người là một nhân vị. Cần phải tôn xưng con người giữa ma quỉ và thần thánh. Nhưng giữa thần thánh và ma quỉ không có chỗ cho con người, bố tôi bảo hãy tự tìm đường mà đi. Sau đó bố tôi tịnh khẩu. Khi người Mỹ trầm lặng đến Sài Gòn đã tìm gặp bố tôi hỏi làm thế nào có thể bẻ được chiếc roi sắt mà không phải dùng sức. Bố tôi không nói gì chỉ cầm viên đá ném xuống nước. Báo chí nước Mỹ bình luận cuộc chiến ở phương Đông không thể có người chiến thắng cuối cùng. Ông Ngô Đình Diệm cũng đến hỏi bố tôi làm thế nào để không cho quân Mỹ vào Việt Nam. Bố tôi không nói gì chỉ dùng cây đóm hút thuốc lào vẽ lên trời chữ “Thiên cơ”.
Ngày ấy, chim tôi bắt đầu mọc lông. Tôi nhìn thế giới qua nhân dáng và số phận của đàn bà. Ông Trần Thủ Độ cưỡng bức vua Lý Huệ Tông phải thắt cổ tự tận và bắt bà hoàng hậu vốn là chị mình về làm vợ. Tôi nhìn thấy gái cũng chỉ muốn hiếp. Ông Trần Thủ Độ bảo: Hiếp được đàn bà đấy là đại nhân. Tôi hỏi: Còn đàn bà bị hiếp là gì? Đấy là dâm tính hiển lộ. Thuận Thiên công chúa, vợ của Trần Liễu, có thai ba tháng bị đại nhân bắt gán cho Trần Thái Tông mà không tuẫn tiết làm một mệnh phụ tiết hạnh khả phong triều nghi chính trực phải chăng cũng là dâm tính đăng đàn? Đại nhân bảo: Đấy là chính sự thượng thừa của đàn bà, không phải của mỗ.
Ông Ngô Đình Diệm cho người đi tìm những người anh tôi để thương nghị, nhưng các anh tôi đã ngồi trên xe tăng của đồng chí Staline. Thế giới được nhìn qua ống ngắm của lòng súng. Trần Thủ Độ lại bảo: Lịch sử chỉ là cơ may với vận rủi. Ông Hồ Quí Ly vuốt râu cười. Tôi được khai hóa bởi một con đĩ. Ông Trần Thủ Độ bảo cơ nghiệp nhà Trần được và mất cũng chỉ là việc của các công cụ sinh tồn.
Bố tôi bị u xơ tuyến tiền liệt phải cắt bỏ hai tinh hoàn. Các anh tôi nhắn tin về bảo phải làm tang lễ cho cái chết của linh vật. Tôi đóng hộp hai tinh hoàn của bố gửi cho các anh tôi theo đường bưu điện qua Paris. Ủy ban giám sát đình chiến của Liên Hiệp Quốc đòi kiểm tra nhưng ông Ngô Đình Diệm đã lên tiếng phản đối vì cho đó chuyện nội bộ của người Việt. Tuy nhiên, cái hộp của quí ấy cuối cùng đã bị CIA đánh tráo bằng hai tinh hoàn của một người khác. Cho đến nay tôi cũng thật sự không biết hai tinh hoàn của bố tôi nằm ở đâu.
Thằng cao bồi Mỹ bảo gìn giữ bản sắc dân tộc là một kiểu phòng thủ của kẻ yếu. Và hắn lên ngựa.
Người dạy dỗ tôi nên người là một thiếu phụ có hai con, chồng chết trong chiến tranh. Đạn của Nga hay của Mỹ cũng đều là đạn và có công dụng như nhau. Người đàn ông ấy chết lần thứ nhất vì đạn, chết lần thứ hai vì bọn đào mồ bán đất. Người đàn bà mang tôi về làm công cụ chính chuyên cho tiền đồ của hậu thế trong vai một gia sư. Tôi được trả công bằng tiền bằng tình và cả sự khát khao lãng mạn. Bà Hồ Xuân Hương bảo: Mày cơm no bò cưỡi là phúc ấm của bà đấy. Tôi nói: Thì bà cũng có hẩm hiu đâu.
Khi trong nhà ngoài ngõ đều có tiếng súng thì thế hệ hậu duệ của những người đi lính đánh thuê cho Tây dành phần lên tiếng phản đối chiến tranh bằng triết lý của Krishnamurti và những người khác. Họ suy tôn một nhà tiên tri lên làm minh chủ. Người Mỹ vỗ tay. Vấn đề của tôi không phải là người Mỹ muốn gì mà giời ạ, cô em của minh chủ mới là giấc mộng của tôi. Tôi nói với minh chủ rằng: Một nội các chuyển tiếp sẽ được thành lập và bố tôi đã dàn xếp để minh chủ nắm chức quốc vụ khanh phụ trách văn hóa, phần tôi sẽ là phó thủ tướng. Ngày huy hoàng tráng lệ ấy, tôi muốn có cô em minh chủ đứng bên cạnh với tư cách là một phu nhân. Thế là chỉ trong ba ngày tôi đã cắt tiết cô ta ngay trong nhà minh chủ. Trần Thủ Độ bình việc này như sau: ú ớ u ơ ù ờ ú ớ. Tôi nói với người đàn bà nuôi tôi rằng: Dâm tính thì bất khả tư nghị. Nhưng người đàn bà bảo: Nó là chuyện bình thường.
Giấc mộng không như tôi tưởng. Cô gái có máu điên. Khóc cười ngằn ngặt. Cao cả và hèn hạ. Cô ta bảo: Hãy nuôi em bằng sự cuồng bạo của anh. Ôi, nào có phải thế, tôi con rồng cháu tiên bốn ngàn năm văn hiến ứng xử nho nhã và làm tình thơ mộng. Cô gái nói: Tất cả các tổ phụ đều có tốc độ đêm bảy ngày ba, vào ra không kể. Theo lý thuyết của Darwin thì cái ấy càng ngày phải càng kỳ vĩ, vì thế anh phải phục vụ em với tinh thần thi đua quyết thắng.
Tôi không cần biết truyền thống hay hiện đại, bỏ của chạy lấy người. Nhưng cô gái nói: Em quen hơi anh rồi. Anh không thể chạy thoát khỏi em đâu. Bà Hồ Xuân Hương thở dài. Thời đại không còn liêm sỉ. Ông Ngô Đình Diệm bị thuộc hạ giết trong xe tăng. Bố tôi chôn ông trong nghĩa trang giữa thành phố. Chúa Jésu bảo muốn nhìn thấy mặt Thượng đế thì lòng phải trong sáng. Krishnamurti cũng bảo phải giải trừ kiến thức. Nhưng các anh tôi bảo muốn tiến thân thì phải học thuộc lòng Lê Nin toàn tập. Cô gái đứng chặn cửa: Anh không làm cho em sướng thì không được về.
Danh sách chính phủ chuyển tiếp được người cho bánh duyệt không có anh của cô gái. Tất nhiên cũng không có tôi. Gia đình cô gái cấm cửa không cho tôi đến nhà. Cô gái bỏ nhà tìm tôi. Tôi bỏ nhà tìm sự yên ổn. Cuộc rượt đuổi ấy biến cô ta thành một họa sĩ trong hành trình của không và sắc. Hoang tưởng và nhạt nhòa. Tôi nhìn thấy tôi trong các họa phẩm của cô ta. Sự điêu đứng của ý thức trong những khuôn mặt người méo mó. Nó tra tấn người xem ở cảm trạng của kẻ bị dồn vào chân tường. Vì thế mỗi một bức tranh của cô ấy là một bố cáo thất tung về tình yêu.
Tôi thay đổi hình dạng.
Nhà cảm xạ học ngồi trước tấm bản đồ. Ông ta đưa quả lắc vào vị trí ngang vĩ tuyến 17. Quả lắc quay vòng rất mạnh. Ông ta cố kìm nén hơi thở rồi ghìm quả lắc lại. Thiên đỉnh của ông ta mở ra. Trên con đường ngang của vĩ tuyến 17 là sông Bến Hải, đoàn người từ hai miền Nam Bắc đang tiến dần về phía con sông. Tôi nhìn thấy nhiều người từ những thế kỷ trước, cả đàn ông, đàn bà, trẻ con và các cụ già. Tất cả họ đều mang theo khí giới. Bố tôi bảo đừng nhìn kẻo điên loạn. Nhưng tôi đã nhìn thấy trong số họ bên này là các chú và các em họ của tôi, bên kia là các anh ruột tôi. Đôi mắt họ tóe lửa. Và khi họ đứng trước mặt nhau, họng súng bốc khói. Nhà cảm xạ học bảo xương cốt không phân biệt được chính tà.
Các anh tôi hỏi: Tại sao người ta lại bỏ chạy khi các anh đến? Tôi nói: Vì trên tay các anh cầm chiếc roi sắt.
Tất cả những kẻ phục vụ cho chế độ cũ đều phải học tập cải tạo, bất kể nghề ngỗng gì. Họ buộc phải nhận tội trước người chiến thắng. Và không một ai trong số họ không nhận tội. Ngày ấy, tôi là một người phu quét đường. Tôi đã nhận tội thế này: “Tôi có tội với nhân dân vì ngày nào tôi cũng quét đường sạch sẽ, vệ sinh để cho bọn ngụy khỏe khoắn chống phá cách mạng”. Nguyễn Huệ bảo: Con người lăng nhục lẫn nhau vì sự khốn cùng của tâm thức.
Tôi bước ra khỏi từ đường. Chiếc xe lửa chạy đường Bắc Nam rầm rập đi qua. Ở một đường ngang trên địa phận tỉnh Quảng Trị, xe lửa đã đâm vào chiếc ôtô chở các thương binh đi thăm lại chiến trường cũ. Mười bốn người chết tại chỗ. Chiếc ôtô bị dập đầu. Khi tôi đến nơi thì không còn một vết tích nào. Chiếc xe lửa vẫn chạy.
Các xác chết bảo: Đừng quật mồ chúng tôi.
Trong một thời gian rất lâu, tôi không biết mình đi đâu. Bố tôi bảo hãy khép con mắt lại. Nhưng cô gái bảo hãy mở con ngươi ra mà đón nhận. Trước mặt tôi, cô gái đứng chắn trên bệ cửa, giạng chân, giang tay thành hình chữ X. Anh không thể đi đâu mà không bước qua xác em.
Khi ấy, nhà tiên tri đứng trên chiếc bục tròn giữa ngã tư của người cảnh sát hướng dẫn giao thông, to tiếng nói:
Các ngươi đừng bận tâm về việc phải đi bên trái hay bên phải, bởi vì trái hay phải không thuộc về các ngươi. Các ngươi cứ đi như các ngươi muốn, bởi vì sự muốn của các ngươi là sự muốn của người làm ra luật lệ. Các ngươi đừng sợ mắc nghẽn giữa đường, bởi đường đi ở trong lòng các ngươi.
Các anh tôi bảo thế giới toàn những thằng điên, cần phải cho chúng đi lao động cải tạo.
Đêm 24.12.1980. Trong lán trại bằng lá giữa rừng, có một tiếng nói nhỏ: Chúa đã đến. Hơn một trăm người đang nằm thao thức đều ngồi bật dậy. Họ tiếp tục thầm thì: Chúa đã đến. Và rồi từng ngọn nến được thắp lên trên đầu giường họ. Ánh sáng giống như đêm phục sinh soi sáng thế gian. Những khuôn mặt người hiện ra, râu tóc bù xù và quần áo rách rưới. Họ khổ hạnh và tăm tối. Có tiếng người làm dấu thánh giá. Tất cả những người khác làm theo. Xin Chúa đến giải thoát chúng con khỏi sự dữ và mang bình an của người cho chúng con. Trong giây lát sự im lặng trở nên trầm trọng như thể Chúa đã thật sự đến và vỗ về họ. Rồi tất cả những ngọn nến đều tắt phụt như chưa hề có một thứ ánh sáng nào đã được thắp lên trên thế gian.
Chúa nhận lời cầu xin của họ.
Người cho bánh hứa mang họ đi khỏi sự lầm than và âu lo khi họ rời trại cải tạo.
Nhà tiên tri bảo: Các ngươi sẽ phải trốn chạy đồng loại và nguyền rủa lẫn nhau vì chân tay các ngươi đã mọc móng vuốt và máu các ngươi đã tràn đầy sự dữ.
Các anh tôi bảo chỉ có một nhà tiên tri cho thế giới này là Marx. Hãy san bằng mọi sự và làm nên một thế giới khác.
Ngày ấy, bọn địa chủ, bọn trung nông, bọn làm ăn buôn bán có tiền đều bị đập mặt xuống đất và đuổi ra khỏi nhà. Chỉ tiêu thành phần ác ôn được phân bổ về cho từng địa phương. Nơi nào không đủ thì cứ đôn lên cho đủ. Vượt chỉ tiêu có thưởng. Tấn tuồng nhân sinh ai oán mà hoành tráng. Tổ cha nhà chúng mày. Ông cố ông kỵ nhà mày. Ngày xưa bà rửa đít cho cả nhà chúng mày. Bây giờ thì cả nhà chúng mày cúi xuống ăn cứt bà. Cứt bà là tinh hoa chắt lọc của tổ tiên nhà chúng mày đấy. Người đàn bà mồm loa mép giải dí đầu ông lão xuống bãi phân dưới đất, đôi mắt đẫm lệ.
Tôi hỏi các anh: Tại sao người đàn bà được tổ chức cho đi đấu tố lại khóc, đấy không phải là vinh quang của giai cấp sao?
Các anh tôi bảo: Mày không hiểu lịch sử là gì. Cần phải biết ăn ớt và uống rượu mới làm chính trị được em ạ.
Chén đắng mà con người dành cho nhau khó uống hơn của Chúa. Tôi không biết ăn ớt cũng không biết uống rượu. Sầu thiên cổ đổ vào đáy vực đàn bà. Nhưng tổ mẫu Thị Màu bảo gian dâm cũng có chín mười đường gian dâm. Staline chết thì mặc mẹ nó, chúng mày khóc lóc như ông tổ nhà chúng mày thì bà tổ nhà chúng mày đây ai khóc? Tôi vội thưa: Có con. Mày là thằng nào? Con là con hoang của bà đây. Lại đây bà xem mặt nào. Tôi bước tới gần, trong lòng khao khát được ôm chầm lấy bà. Thị Màu bảo: Mặt mày giống Thị Kính chứ đâu giống tao. Tôi thưa: Bên ngoài con giống Thị Kính nhưng bên trong con giống bà. Thị Màu hỏi: Thế bây giờ mày làm gì? Dạ, con quét lá đa. Thị Màu cười sằng sặc: Mày quét lá đa thì đích thị là con Thị Kính chứ không phải con tao.
Nền văn chương ẩm ướt tạo ra nấm. Các anh tôi bảo đó là nấm độc. Các ông Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Võ Phiến... không trồng nấm độc nhưng cũng phải bỏ trốn. Chỉ còn Thị Màu ở lại, bà nói: Tao mới chính là tâm linh dân tộc.
Khi ấy nhà tiên tri đã vào tù, ngài rao giảng: Các ngươi có than khóc thì hãy than khóc cho con cháu các ngươi vì con cháu các ngươi đã chết trước khi chúng được sinh ra.
Người cai ngục nghe thấy thế thì kinh hãi bởi ông ta đã lấy ba bốn người đàn bà mà không một ai đẻ cho ông ta đứa con nào. Bọn quan quyền sai đem nhà tiên tri đến dinh thự của họ. Họ hỏi: Tại sao con cháu chúng tôi lại tật nguyền? Nhà tiên tri đáp: Các ngươi chỉ nhìn thấy tai ương mà không thấy ánh sáng soi rọi trên bầu trời. Hãy nhìn vào trong mắt con cái các ngươi, các ngươi sẽ thấy sự công bằng của đấng sáng tạo.
Bọn quan quyền sai đem trả nhà tiên tri về nhà tù. Họ nói: Chúng tôi không chịu trách nhiệm về cái chết của người này.
Người cai ngục treo cổ không một lời tuyệt mệnh. Các quan hỏi nhau: Tại sao không phải là nhà tiên tri mà lại là người của chúng ta phải chết? Trong song sắt, nhà tiên tri ngửa mặt lên trời cầu nguyện. Thượng đế sẽ đến trong ánh sáng chói lọi. Kẻ mù sẽ được nhìn thấy và người sáng mắt sẽ đui mù. Người sẽ làm cho sự tàn rữa được hồi sinh và sự phù ảo trở nên vĩnh cửu.
Tôi vẫn nghĩ một ngày nào đó tôi sẽ cạo đầu làm một hành giả. H bảo: Anh cạo đầu trông không đẹp trai bằng để tóc dài, nhưng em thích kẹp cái đầu chôm chôm của anh giữa hai đùi. Tôi bảo tôi đi tu rồi. H nói: Tình tu mới lãng mạn mà tu tình thì đáo bỉ ngạn niết bàn phật tính.
Nhà tiên tri bảo: Trước khi ngày ấy đến, con người sẽ hủy diệt nhau và thế giới đổ vỡ. Người sống sót không phải đã lên tàu của ông Nôe mà nhờ biết im lặng. Người ấy sẽ bắt đầu một ngông cuồng khác cho đến khi Chúa lại đến để kết thúc mọi sự.
Tôi hỏi: Chúa có khóc không?
Lúc nào Chúa cũng khóc.
Tạo vật do Chúa dựng nên còn khóc nhiều hơn Chúa.
Bởi vì chúng không nhận biết Chúa.
Sao Chúa không mang con người về?
Con đường phải đi không khác được.
Chén đắng của Chúa đấy ư?
Các anh tôi nói: Mày lầm bầm cái gì vậy? Triết học chỉ là thứ ngớ ngẩn của con người. Khi máu đã đổ thì tốt nhất là đọc kinh cầu hồn.
Cô gái đẩy tôi vào bờ tường: Hãy nói yêu em đi. Nói đi. Nói đi. Tôi há mồm bảo: Anh sắp chết. Cô gái nói: Hãy yêu em đi rồi chết. Hai tay tôi buông xuôi. Cô gái hét lên: Anh không được chết. Nhưng hai chân tôi đã khuỵu xuống. Cô gái quào vào mặt tôi: Hãy mở mắt ra.
Tôi nghĩ tôi chưa bao giờ nhắm mắt. Thế giới được tạo dựng để nhìn ngắm và hưởng thụ nhưng ngay cả sự hưởng thụ, con người cũng ép buộc nhau. Tôi đến và tôi đi trên con đường thép gai hoen rỉ có những bộ xương người co quắp. Ở đấy cỏ mọc lên nhưng không che giấu được sự hoang tàn của quá khứ, hiện tại và tương lai.
Tôi nhìn ngắm tấm ảnh. Ông Ngô Đình Diệm mặc áo dài khăn đóng đứng dưới chân cụ Ngô Đình Khả, bên phải ông Diệm là Đức Cha Ngô Đình Thục, bên trái là ông Ngô Đình Nhu, kế tiếp là ông Ngô Đình Khôi, rồi ông Ngô Đình Luyện, cuối cùng là ông Ngô Đình Cẩn. Cụ Khả nói: Chúng ta đã làm tất cả những gì có thể làm được và rồi chúng ta chết. Lịch sử là sự dối trá vĩ đại nhất được viết bởi máu của những con người nhỏ mọn. Nói xong cụ Khả quay lưng lại và bước lui vào trong. Những người con của cụ cũng quay lưng lại, nhưng câu chuyện của họ vẫn tiếp tục.
Ông Diệm buồn rầu nói: Chúng ta đã không được chết như chúng ta muốn.
Giọng ông Khôi trầm trầm: Và máu của chúng ta sẽ còn chảy mãi...
Ông Cẩn than thở: Em không nhắm mắt được.
Đức cha Thục: Ở Phi châu xa xôi, đôi khi ta vẫn tự hỏi đâu là ý Chúa, khi số phận giáng lên gia đình chúng ta những cái chết khốc liệt. Những cái chết tức tưởi ấy minh giải điều gì?
Ông Luyện: Chúng ta đã chết như hàng triệu người Việt Nam khác đã chết trong sự nhầm lẫn ấy. Và không phải chỉ có máu của chúng ta mà máu của tất cả những người khác cũng không bao giờ khô được.
Ông Nhu không nói gì. Tôi nhìn thấy những sợi tóc sau gáy của ông dựng lên. Ở trên góc cao của bức hình, những người phu đào huyệt đang quăng đất lên và có rất đông người xếp hàng chờ bước xuống. Họ ăn mặc chỉnh tề và nghiêm trang như các vị thánh.
Đồng chí Mao Trạch Đông phát không cho mỗi anh trí thức một giải lụa, anh nào không thích màu mè thì cho một bát thuốc độc. Nhưng không anh nào dám tự xử. Tôi nghĩ đi chơi đĩ thì anh nào cũng thế. Đồng chí Mao Trạch Đông đã xiết dây thòng lọng quanh cổ họ và dắt xuống ruộng bắt cày thay trâu. Tôi lại nghĩ và được miếng cơm vào mồm thì ai cũng phải nhục.
Tôi thấy ông Nhu đứng lên đi về phía những người đang xếp hàng chờ bước xuống mộ. Ông xem mặt từng người. Vẫn im lặng. Chỉ có một người ông không quen. Hai người nhìn nhau cố nhớ một điều gì đó, nhưng rồi họ quay đi. Tôi biết người lạ mặt đó. Nhà tiên tri nói: Khi thằn lằn biến thành khủng long, trời khô hạn nắng nóng, rừng bốc cháy và không một hang hốc nào có thể trú ẩn, con người sẽ phải rời bỏ đất đai và than khóc trên biển cạn.
Kẻ biến hình bảo: Ta là đấng sáng tạo vĩ đại nhất của mọi thời đại. Hãy hoan hô ta trên mọi nẻo đường trốn chạy của các ngươi. Bởi sự trốn chạy chính là khởi nguồn cho mọi hy vọng và sáng tạo. Trong lòng bàn tay ta trái tim con người run rẩy và chân ta nhuốm máu dơ bẩn của những con vật hiến tế.
Ông Nhu quay lại hỏi nhà chính khách trẻ:
Anh có tin việc anh làm không?
Thay đổi bao giờ cũng là điều tốt.
Anh có biết kẻ biến hình không?
Đấy là đấng sáng tạo.
Anh tin người ấy?
Không. Tôi chỉ tin việc tôi làm.
Thực sự nó là gì?
Xóa bỏ quá khứ.
Tôi bỏ tấm ảnh vào trong ngăn kéo. Tiếng ông Diệm vọng ra: Xin Chúa tha thứ cho kẻ không biết việc họ làm.
Tôi không muốn nghe nữa. Tôi cần xả xui. Em bán trinh được ba cây vàng cũng bõ đời con gái. Đừng làm em nhột. Thế giới đã thay đổi. Kẻ biến hình bóp vú cô gái quê và bảo: Vấn đề không phải là vú to hay vú nhỏ, cái chủ yếu là có vú hay không. Vâng, tôi nói, có vú là có sữa, chúng ta sẽ không phải chết khát. Nhà chính khách trẻ bảo không cần phải cải tạo tư tưởng, quyền lực cách mạng đủ để áp đặt mọi cảm giác. Khi giơ tay đầu hàng, nước trong quần tôi chảy xuống, nước mắt tôi cũng chảy xuống. Cuộc chiến tranh kết thúc đã lâu nhưng những người lính vẫn cầm súng. Tôi vẫn giơ tay đầu hàng, trong tư thế ấy tôi ngửa mặt bú sữa từ một bầu vú không phải mẹ mình.
Ngày 13.10. 1977. Hôm nay Đức Mẹ sẽ hiện ra cùng với con cái của người. Từ chín giờ sáng nhà thờ Fatima đã đông nghẹt. Người ta đến từ khắp nơi. Uống nước phép và để cho cơn khát nhân đức được thánh hóa. Con muốn sống không phải như một niềm hy vọng được cứu rỗi mà chính sự cứu rỗi. Con không chỉ muốn lau nước mắt kẻ khác mà chính con là nước mắt. Sông Sài Gòn đầy những bè lục bình trôi. Màu hoa tím nhạt của nó mờ ảo. Tiếng cầu kinh trong nhà thờ rợn lên như sóng. Hãy cho chúng con một dấu hiệu về sự hiện hữu của Người. Tiếng cầu kinh mỗi lúc một lớn và khẩn thiết. Hãy gìn giữ chúng con trong thành trì của Chúa. Trời nóng hừng hực. Xin cứu chúng con khỏi sự dữ. Mặt trời chói lòa. Nước Nga sẽ trở lại. Tin mừng và hy vọng của Người thiêu đốt chúng con.
Có rất nhiều người bảo họ đã nhìn thấy Đức Mẹ trong chiếc áo của ánh sáng. Có người bảo họ nhìn thấy bánh thánh đỏ máu.
Ngày hôm sau cha sở nhà thờ Fatima bị bắt. Phép lạ của Chúa vẫn xảy ra ở những nơi mà con người cần.
Tháng 3.1975. Ông dân biểu chồng Mì hỏi thượng tọa Thích Trí Sáng:.
Thày ủng hộ chúng tôi để lật đổ chính quyền Thiệu chứ?
Hãy về nói với chủ của anh rằng, quyền lực phải được kiểm soát kẻo nó là tai họa.
Chúng tôi sẵn sàng chia sẻ quyền lực.
Anh có quyền đến đâu để chia?
Chúng tôi cướp nó trên tay người khác.
Khi tôi chưa cho phép thì điều ấy không xảy ra được đâu.
Xin thày chỉ dạy.
Khi lịch sử chọn, anh chấp nhận chứ?
Tôi yêu nước.
Anh không cần bày tỏ điều ấy. Tôi không muốn anh chiến đấu, mà tôi muốn anh đầu hàng. Anh làm được không?
Thưa thày, nếu điều ấy có thể làm chấm dứt cuộc chiến.
Đồng chí Mao Trạch Đông bảo: Tao muốn chúng mày phải đánh nhau tiếp. Thế giới cần phải đại loạn. Đứa nào thiếu đạn cứ đến gặp tao. Đồng chí Pôn Pốt nói giết người bằng cán cuốc có nhiều ấn tượng thị giác hơn bằng súng. Nền văn minh cán cuốc được xuất khẩu từ Trung Quốc sang Campuchia. Chủ nghĩa thi đua lên cao trào. Đếm sọ tính bậc lương. Thủ tướng Trần Văn Hương thưa bẩm: Chúng em chống cự với quân Minh mười năm oải lắm rồi.
Đồng chí Mao Trạch Đông gầm gừ trong mồm: Chúng mày không muốn đánh nữa thì tao đánh cho chúng mày một bài học.
Năm 1979. Việt Nam có một cuộc chiến tranh mới. Ngắn ngủi nhưng sinh động. Cú mìn cóc nhảy lên nửa thước chém đứt đôi chân đi đứng của người anh em làm công nương Diana thương cảm. Nhưng công nương đáng yêu nhất trần đời tử nạn quá sớm. Thế giới chưa gỡ hết mìn. Họa sĩ Thành Chương bảo không cần đụng vào tớ cũng biết quả nào nổ quả nào tịt. Ừ khôn chết dại chết biết thì sống. Tình hữu nghị anh em của thế giới đại đồng môi hở răng lạnh. Chúng mày chê súng đạn thì tao viện trợ cho cuốc sẻng. Tiện nghi kiểu Trung Quốc đấy. Giết người và đào mả lấp mộ đều tốt.
Nhà chính khách trẻ bảo tuẫn tiết như tướng Nguyễn Khoa Nam thì không nổi tiếng thơm bằng đầu hàng. Ông bác tôi trong trại cải tạo nói với những người bạn tù: Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cần phải giữ lấy tư cách và khí tiết. Làm chính trị thì chỉ có vấn đề thắng thua chứ không có chuyện đúng sai. Cho nên đứa nào nhận tội và không thắt cravate khi gặp ban quản giáo thì chỉ đáng vất vào sọt rác.
Tôi ở trong thùng rác chui ra nói: Bác ơi cháu là dân ngu cu đen thì thế nào ạ? Thì ở đâu cứ ở đấy là lẽ khôn ngoan của người đời. Đứa nào muốn đổi đời thì đừng hèn. Bác lạc hậu rồi. Nhạc Bất Quần đứng trên đỉnh vũ lâm Trung Hoa nói: Ai trong số các bạn không ăn gian thì cứ xuống núi về quê chăn vịt. Quần hùng chĩa kiếm lên trời hô vang: Chúng tôi theo gương minh chủ. Các nhà phê bình văn học đồng thanh nói truyện của Kim Dung vẫn còn tính thời sự. Thị Màu bảo họ vẫn nói thế từ khi bà vén váy tìm chồng.
Ngày 21.4.1975. Các phóng viên của AFP, UPI, BBC, Reuter chầu chực trong quán bar. Anh bạn Custer ba ngày nay không đi đánh billard. Mọi người uống rượu giết thì giờ. Cô Silver của BBC sốt ruột không biết làm gì bèn lột quần lót ra nhìn: Em đã cởi quần rồi, tới đi Custer.
Cuối cùng thì Custer cũng tới, hắn bô bô cái mồm: Anh ngửi thấy mùi quần của em từ Dinh Độc Lập.
Mọi người hỏi: Anh ở trong đó ra à?
OK.
Có gì mới không?
Các bạn nên chuẩn bị chuồn là vừa. Ông Thiệu đã sẵn sàng chuyển giao quyền hành.
Hắn chỉ nói có thế rồi đến uống rượu tán tỉnh Silver. Một tuần vài lần, Custer đi đánh billard. Tất cả các phóng viên nước ngoài đều bám vào hắn. Những câu chuyện tầm phào vô tội vạ của hắn làm đảo lộn thế giới.
Ê Custer, hẹn nhau ở Trung Đông chứ?
Hỏi Chúa.
Khi quá buồn thì con làm gì? Kẻ biến hình hỏi tôi. Tôi nói: Chửi một ai đó. Chửi sau lưng hay trước mặt? Dạ, chửi sau lưng. Sao không dám chửi trước mặt? Vì đó không phải là cách của tổ tiên dạy bảo. Thế con đã từng chửi ai? Dạ, con không dám nói. Con chửi thế nào? Địt mẹ mày, sao không hiện nguyên hình. Chửi xong có hết buồn không? Dạ, buồn hơn. Rồi con làm gì? Con hoan hô. Hoan hô ai? Người con ghét. Hoan hô trước mặt hay sau lưng? Dạ, trước mặt. Vì sao? Lúc ấy nó mới hiện nguyên hình.
Custer hỏi Silver:
Em về Mỹ với anh?
Không, em ở lại để nhìn sự đổ vỡ.
Ngày 16.3.2004. Mỹ Loan tông cửa vào phòng giữa lúc Khánh My và Hồng Phượng đang mút những ngón chân của Đại Quang. Hai cô đồng thanh quát: Sao không gõ cửa?
Lịch sự làm quái gì. Cho tao vui với. Tao cần tiền.
Hồng Phượng hỏi Đại Quang: Cho nó ngồi luôn không anh?
Càng đông càng vui.
Đại Quang vén váy Mỹ Loan, hỏi: Thơm hay thối?
Thơm.
Năm 1972. Dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, mỗi điểm 10 là một dũng sĩ diệt Mỹ-Ngụy, điểm 10 môn toán giá trị bằng xác một Mỹ, điểm 10 môn thủ công bằng xác một Ngụy. Máu giặc chảy thành sông và xương giặc chất thành núi trong sổ học bạ của nhà văn Phạm Thị Hoài.
Hằng nói, em đã đọc bà Hoài viết điều ấy trên Talawas. Văn Cao cũng hát: Đường vinh quang xây xác quân thù. Tính căm thù trở thành đạo đức cách mạng. Chúng ta đã sống và chết trên xác người.
Năm 1972. Ở Sài Gòn người ta bảo ba thằng Việt cộng đu một cành đu đủ không gãy.
Em cảm thấy mình già đi. Những cái vớ vẩn làm em mệt mỏi. Em muốn nằm xuống, chìm rất sâu vào giấc ngủ. Nhưng Quân đến rủ đi uống cà phê. Em nói em chỉ muốn tan ra thôi. Quân bảo muốn tan ra thì uống rượu. Em nói em thích uống rượu với nhân vật Lý Công Uẩn của anh. Quân hỏi Lý Công Uẩn là ai? Em nói Lý Công Uẩn là nhân vật đi nhặt xác người. Sao giống như đi nhặt lá bàng của Nhất Linh vậy? Quân hỏi. Em cười, thì cũng đại khái vậy. Một cái lá với một xác người thì có gì khác nhau đâu, phải không. Bao giờ về Việt Nam, chắc em phải mời Lý Công Uẩn của anh lên đê Yên Phụ nhậu thịt cầy. Nói chuyện thế sự với Lý Công Uẩn chắc vui.
Ngày 28.3.1975. Ba triệu người tán loạn trong tầm đạn pháo ở Đà Nẵng và các vùng phụ cận. Họ tìm cách vào các sân bay hoặc chạy ra bờ biển. Và họ chết trên đường băng. Chết trên cánh máy bay. Chết bên mạn tàu. Chết dưới biển. Họ đạp lên nhau mà chết. Họ làm mồi cho súng đạn mà chết. Họ chết vì tuyệt vọng và đói khát. Họ chết vì hy vọng viển vông.
Năm 1976. Những ngôi sao chứng kiến cảnh tượng này: Có tiếng đập cửa dồn dập lẫn với nhiều tiếng người hò hét. Mở cửa. Mở cửa ra mau. Cánh cửa vừa hé thì bị đẩy tung ra. Người ta ập vào giữ chặt tay cha em. Rồi bắt tất cả mọi người ra khỏi nhà ngay lập tức, chỉ được mang theo quần áo. Mẹ em, chị em sợ hãi khóc. Cả nhà bị tống lên một chiếc xe tải. Người ta đem gia đình em tới một nơi gọi là khu kinh tế mới, chỉ có cỏ tranh mọc ngút ngàn. Sau đó người ta đã đào hết nhà em lên xem có giấu vàng bạc không.
Năm 1978. Em được sinh ra trên hải phận quốc tế. Em không có tổ quốc. Quân nói.
Năm 1967. Lý Công Uẩn đang chữa bệnh ở Trung Quốc được mời về để bàn việc quân cơ. Khi chiếc máy bay chuẩn bị hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm, người lái máy bay phát hiện tín hiệu đường băng không đúng, vội hỏi: Bây giờ làm sao?
Uẩn bình tĩnh nói: Hãy hỏi lại mặt đất.
Tín hiệu vẫn không thay đổi.
Đồng chí nhìn kỹ lại đi.
Đường băng này quá quen thuộc với tôi.
Thế thì hãy đáp xuống theo thói quen.
Ở dưới đất, ban lễ tang đã được thành lập, những bài điếu văn đã được viết xong. Nhưng máy bay xuống an toàn.
Các quan chức đón người nói: Chúc mừng đồng chí bình an.
Lý Công Uẩn cười nhạt: Tôi còn phải sống để nhặt xác các đồng chí.
Năm 1968. Lý Công Uẩn giơ tay phát biểu ý kiến tại tổng hành dinh chiến dịch Mậu Thân: Tôi không đồng ý. Nhưng bộ đội vẫn tổng tiến công vào các thành phố miền Nam. Không nơi nào nhân dân nổi dậy. Không ít trong số họ đã trở thành những kẻ phản bội. Cũng không ít hơn trong số họ đã phải chết vì không tìm thấy đường rút lui. Những chiếc máy bay bà già phát loa phóng thanh kêu gọi Việt cộng hồi chánh. Trong khi những chiếc C47 khạc đại liên nghe man rợ như tiếng bò rống trước khi chết. Lý Công Uẩn nhìn hỏa châu sáng suốt đêm trên bầu trời, lòng tan nát. Nhân dân tránh bom đạn dồn từ chỗ này đến chỗ kia. Nhưng ở Huế không có chỗ cho họ trốn tránh. Bãi Dâu đầy xác người vô tội. Họ được phán xử bởi lòng căm thù.
Năm 1972. Nhân dân lại phải bỏ cửa nhà chạy trốn binh đao. Chúa phán: Con chồn có hang, con cáo có ổ, nhưng con người sẽ phải sợ hãi vì không nơi nương tựa. Đạn pháo nổ trên đầu họ. Mìn nổ dưới chân họ. Xe tăng phục kích họ.
Năm 1975. Nhân dân bỏ cả đất để chạy. Xác họ lênh đênh làm thối nước biển. Từ ngày ấy Lý Công Uẩn dở điên dở dại, khi thì ngẩng đầu cười, khi cúi mặt khóc nấc. Hai tay Uẩn lúc nào cũng đưa ra phía trước lẩm bẩm phân bua: Tôi vô tội.
Trần Nhân Tôn bảo: Ông về Yên Tử với tôi để giải trừ nghiệp chướng.
Nhưng Uẩn đáp: Còn một xác người lưu lạc thì tôi chưa về được.
Ngày 16.3.2004. Lan Thanh đập cửa phòng Đại Quang đang uống bia với các em.
Nứng lồn thì vào.
Lan Thanh bước vào. Ba cô gái sợ hãi vội quơ quần áo che người.
Chúng em xin lỗi. Chúng em không biết.
Lan Thanh không đếm xỉa gì tới chúng, chỉ nói với Đại Quang: Tao mở quán để cho thằng khác hủ hóa sa đọa chứ không phải mày.
Nói xong bà đi ra.
Cô gái phọt ra từ miệng tôi sau cái hắt xì. Lý lịch tự khai của nàng thế này: Em biết chữ nhưng chữ không biết em, vì thế em có thể hát karaoke với anh mà không sợ chữ ngộ. Tôi bảo tôi cũng sợ chữ lắm, nhưng thích em nên tôi hát bằng tay. Và bàn tay tôi đã được mách bảo: Nàng là con gái của người tình cũ của tôi. Năm 1979, mẹ nàng vượt biên để nàng lại cho bà nội nuôi. Khi tôi gặp mẹ nàng, nàng mới biết bò. Tôi còn nhớ bức thư người đàn bà viết cho tôi từ một bệnh viện ở Indonesia, “em bị hiếp hai mươi mốt lần trên vịnh Thái Lan”. Người đàn bà ấy không bao giờ trở lại. Người con gái nhất định không đi, dù được mẹ bảo lãnh. Vậy thì chúng ta hãy hát lên. Tôi ôm cô gái. Chúng ta không thừa nước mắt để khóc quá khứ.
Tôi bảo em giống như thiên thần. Nàng bảo bà nội em giàu lắm, nhưng em vẫn thích đi làm. Tại sao không làm nghề khác? Nàng bảo cho em hút thuốc. Ngọn khói bay lờ lững. Em thích, nàng nói, tại sao không hôn em? Tôi lắc đầu: Anh rất muốn. Thì làm đi. Tôi lại lắc đầu. Cứ nghĩ là mẹ em cũng được. Không phải thế.
Năm 1979. Mọi người đều phải ăn bo bo, nhưng chúng tôi thì không. Thậm chí nếu muốn, chúng tôi còn có thể ăn bơ Mỹ. Nàng kiếm được tiền dễ dàng như có một kho báu ở giữa sự nghèo đói. Đó là cái khe hở dành cho những kẻ có quyền lực. Buổi trưa, tôi về nhà nàng ăn. Ăn xong, làm tình rồi đi làm tiếp. Buổi tối, tôi ngủ lại và làm những việc của đêm tối. Đôi khi kiệt sức, tôi phải trốn khỏi đêm tối. Buổi sáng, tôi đến cơ quan dạo một vòng trình diễn cho các sếp thấy cái bộ mặt rửng mỡ của mình rồi chuồn về nhà nàng ngủ bù. Tôi cũng không quên rờ má các em đồng nghiệp trẻ và tặng phần tiêu chuẩn bao cao su cho các bạn trai.
Ngày 16.3.2004. Thôi uống đi. Tôi cầm ly bia đưa cho cô gái. Cưa đôi nhé, cô gái nói. OK. Đừng nói chuyện mẹ em. Nhất trí. Cô gái lại đốt thuốc. Tôi hỏi: Em chơi ma túy? Chút đỉnh.
Năm 1979. Nàng đã bước xuống từ trên mái nhà. Và đạp trên đầu tôi, nói: Anh phải chiều em cho đến lúc em đi khỏi anh. Từ dưới nhìn lên, tôi thấy nàng tràn ngập ánh sáng. Làn da mỏng hồng lên như màu mận, hai đùi tròn và mịn. Hai tay tôi vuốt ve cổ chân nàng. Bàn chân nàng di chuyển trên người tôi.
Ngày 16.3.2004. Em có biết cái phần sa đọa nhất của con người không? Biết, cái lỗ mồm. Thế thì uống hoan hô cái lỗ mồm.
Năm 1979. Nàng bắt tôi há mồm ra rồi lùa tất cả nàng vào đó, bắt đầu từ cái lưỡi mang theo những ngôn từ của con cá mắc cạn. Cho đến khi ngón chân út của nàng chỉ còn một đụn xương nhỏ, tôi bảo con người ta no bụng đói con mắt. Thế là nàng lại xòe ra như một con công. Diêm dúa và hân hoan. Nàng múa bằng hai mông.
Ngày 16.3.2004. Em có biết cái phần trinh bạch nhất của con người không? Biết, cái lỗ rốn. Thế thì uống phân ưu cái lỗ rốn.
Năm 1979. Kẹp hai tay vào trong đùi, nàng nằm co rút như con cuốn chiếu, chịu đựng cơn động cỡn bất chợt. Tôi bảo tôi không thể vào vai người khác. Nàng không bao giờ nhắc đến người đàn ông là bố đứa bé.
Ngày 16.3.2004. Em hơi mệt, cô gái nói, hôm nay em ngồi bàn ba lần, bị một lần có ông không biết uống, em phải gánh. Khách thích gọi em, phải không? Tại em biết chiều. Em cần tiền để hút? Cô gái gật đầu. Sao anh đi một mình? Tại vì anh đi không để vui.
Năm 1979. Mỗi lần đạt tới cảm giác sướng nhất, bao giờ nàng cũng đẩy tôi ra. Run rẩy một mình. Tận hưởng và hối lỗi. Xa cách và khó hiểu. Nàng ích kỷ vùi đầu vào đống gối và đôi khi nàng khóc.
Ngày 16.3.2004. Không để vui thì để làm gì? Chỉ để thấy con người đơn độc. Anh nói năng kỳ quá hà. Hà quá kỳ năng nói? Em muốn đi toa-lét. Anh muốn đi theo em. Thôi, anh ngồi đó đi, chờ em.
Năm 1979. Nàng bảo, em mơ thấy toàn nước. Nước tràn qua em, tràn vào em, rồi cuối cùng em tan thành nước. Thế rồi em thấy em bay lên. Chúa bảo: Xuống. Em biến thành cơn mưa. Nước mưa chui vào ống cống. Trong ống cống, em nhìn thấy tất cả mọi người quen biết. Không hiểu sao một cảm giác kinh hoàng tối tăm bỗng phủ ụp xuống, em mù mắt.
Ngày 16.3.2004. Doãi người trên ghế, tôi thực sự cảm thấy thèm một điếu thuốc. Thèm một an nghỉ. Sự trống trải giống như một cánh buồm rũ, tôi há mồm ngáp. Một đàn ruồi bay ra. Tiếng vỗ cánh của chúng có mùi tanh và mùi tanh có âm thanh của hai mép cửa mình xao động. Cô gái quay trở lại, miệng cười tươi tỉnh. Níu tay cô gái đứng dậy, đi vào toa-lét, tôi không thể không nhìn vào bàn cầu, chỗ cô gái vừa tụt quần ngồi xuống. Tôi đái chồng lên lớp nước vàng ong của bia của mọi nỗi niềm vớ vẩn. Tôi cũng đái lên người cô gái. Đái vào cơn co giật chuyển mình của thế giới. Đái vào nỗi trầm thống mơ hồ dưới lớp da trơn. Đái vào mọi ám thị. Đái vào sự khổ dâm của chín phần mười nhân loại dúm dó.
Năm 1976. Tất cả chuông nhà thờ, nhà chùa đều rền rĩ vang lên giờ báo tử. Chúa sẽ ra tay uy quyền cho người giàu có trở về tay không và đưa người hèn mọn lên. Nhưng trước khi Chúa kịp ra tay, nàng đã giúp gia đình chồng tẩu tán toàn bộ tài sản đến những người họ hàng nghèo khó. Ban cải tạo công thương nghiệp cho cậy tủ, đào bới nền nhà và moi móc tất cả mọi ngõ ngách nhà chồng nàng chỉ để thấy một nỗi ai oán. Toàn bộ hàng hóa gửi gấm họ hàng sau đợt cải tạo ấy không ai trả lại. Họ bảo nếu họ không lấy thì nhà nước cũng lấy mất. Cuộc cách mạng vô sản thiếu phần chuyên chính này được nàng hoàn chỉnh đoạn kết. Đến từng nhà mà trước đây gia đình đã nhờ cất giấu tài sản, nàng điều đình: Các bác đều biết đấy là mồ hôi nước mắt của gia đình tôi. Để đền ơn các bác đã tiếp tay cho tư sản mại bản thoát khỏi sự trừng phạt của nhân dân (tội này cũng dễ bị bắt đi cải tạo lắm), tôi đề nghị các bác cho mua lại với giá vốn. nếu bác nào không đồng ý, tôi nhờ công an giải quyết giùm. Sòng phẳng kiểu giang hồ, nàng thu hồi được toàn bộ số hàng hóa đã gửi và bán đi với số lời gấp hai mươi lần. Sự biết ơn của gia đình chồng đã cho phép nàng tự do đi lại với tôi, đồng thời tìm kiếm mọi cơ hội để nàng vượt biên cho khuất mắt.
Ngày 16.3.2004. Cô gái nằm nhắm mắt. Tôi hỏi: Em say à? Không. Nàng ngồi dậy. Nào uống tiếp. Em cần phải uống cho lũ chúng nó làm giàu. Anh có giàu không? Anh bo em bao nhiêu? Muốn gì em cũng chiều.
Năm 1979. Nàng nói: Em muốn đi xem phim. Chúng tôi vào REX B. Phim Ba Lan. Gái Đông Âu đẹp hơn Tây Âu. Tôi luồn tay vào trong áo nàng, mân mê bầu vú. Nàng bảo âu yếm nhau nơi công cộng cũng thú vị. Tôi nói: Suốt thời đi học, anh vẫn ao ước được dẫn gái vào rạp bóp vú.
Ngày 16.3.2004. Má mì gõ cửa bước vào. Cô gái rót bia. Mời anh, má mì cầm ly, chào mừng Trung Quốc đưa người vào vũ trụ. Chúc mừng em hết kinh. Tin thời sự cuối ngày cho biết ông Arafat đau bụng. Hàng ngàn người biểu tình chống chuyến thăm Philippines của tổng thống Mỹ. Tôi xoa mông má mì, nhớ mùi da nồng của người đàn bà hơn hai mươi năm trước.
Năm 1980. Chiều mai em xuống Vũng Tàu, nàng nói. Anh đưa em đi. Thôi, coi chừng đi tù oan. Nàng kể: Người ta dẫn em đến một căn nhà trong xóm. Ở đó, đã có bốn năm người cùng chờ vượt biên như em. Đến chập tối thì căn nhà đông nghẹt. Con đường đi ra chỗ tàu phải qua một cánh đồng. Bất ngờ một ngọn đèn pha từ trong xóm quét trên bờ ruộng. Người dẫn đường hô nằm xuống. Ngọn đèn quét đi quét lại một lúc lâu rồi tắt hẳn. Khi em đứng dậy thì không còn ai. Em lủi thủi lần mò quay lại trong xóm. Không dám gõ cửa nhà ai. Em ngủ ngồi suốt đêm ngoài sân nhà người ta chờ sáng đón xe về lại Sài Gòn. Gần mười lần như thế, chưa bao giờ nhìn thấy tàu bè. Một lần khác, cũng ở Vũng Tàu, khi mọi người đang tụ tập trong nhà chuẩn bị xuống bến thì du kích xuất hiện ngay cửa. Họ hô đứng im. Một người nào đó đã nhảy ra ôm anh du kích. Tiếng đạn nổ, mọi người bỏ chạy. Đêm đó, em ngâm nước dưới ruộng tới khi chuông nhà thờ đổ lễ sáng. Còn có một lần ngay tại con kinh bên quận tám. Gã chủ đò bảo em ẩn vào trong cái lu đựng nước ngọt. Cảm thấy điều ấyï ngu xuẩn, em không vào, nhất định ngồi ngoài. Khi chiếc ghe tách bến, không biết vì lý do gì, nó lật nghiêng. Tất cả những người chui vào trong lu đều chết. Tôi hỏi: Em vẫn chưa sợ à? Nàng bảo có nhiều điều còn đáng sợ hơn cả cái chết.
Ngày 16.3.2004. Má mì nói: Em mời anh một món nhé. Tôi vẫn xoa mông má mì. Thực đơn của ngày là một cơn mưa. Cô gái bên tay trái nép sát vào tôi. Chàng thanh niên chạy bàn gõ cửa thò đầu vào nói: Liên có điện thoại. Cô gái xin lỗi đứng dậy. Tôi nói với má mì: Cứ để nó chạy sô.
Năm 1980. Anh tìm mua giùm em khẩu M 79 được không? Em sử dụng à? Không, chủ tàu. Chủ tàu thì để nó lo. Em muốn có một khẩu Colt 45 hoặc K 54. Anh nghĩ nó chỉ rắc rối và nguy hiểm hơn. Em không muốn bọn cướp biển sờ vào em.
Ngày 16.3.2004. Tôi chui vào một phòng ngủ có rất nhiều chữ viết trên đầu giường và những hình vẽ bộ phận sinh dục. Cô gái nói: Anh có thể viết hoặc vẽ bất cứ cái gì cũng được. Mỗi người ngủ với em đều làm thế à? Dạ. Nàng đưa cho tôi cây bút. Tôi viết: Khoan cắt bêtông, phone 08.8888888.
Bốn mươi phần trăm người dân không được dùng nước sạch. Ba phần tư nhân loại sống dưới mức nghèo khổ. Đồng chí Elsin hỏi ý kiến Mỹ trước khi bắn vào tòa nhà quốc hội Liên bang Xô viết. Gấu bị săn bắt bất hợp pháp. Triều cường ở thành phố Hồ Chí Minh làm nhiều con phố ngập lụt. Cơn bão mặt trời làm thông tin nghẽn mạch. Cô gái bảo em sẽ lấy chồng. Tú bà đốt phong long trước cửa. Cuốn tiểu thuyết bị tịch thu. Cô gái viết tôi đứng dạng chân dưới gốc cây xù xì để cho gã trai đâm vào đáy tử cung nước bắn ra tung tóe ướt cả đùi mở mắt nhìn khuôn mặt con đực rồi tôi lạnh lùng thả váy xuống. Cơn cớ chịu chơi cuối mùa hiu quạnh, tôi hỏi chơi tiếp nhé? Cô gái nói anh đọc văn chương thế à? Không đọc thế thì đọc thế lào? Triết lý cũng là để hành động. Văn chương cũng là để đồng hành. Bọn ấm ớ bảo văn chương là cuộc chơi. Thế thì chúng mày có dám chơi tới bến không? Tôi hỏi cô gái trời sáng chưa? Cứ ngủ thì trời sẽ không bao giờ sáng, cô gái nói. Vậy thì ngủ. Hãy trùm cho anh cái chăn. Thế giới trong chăn con sâu ủ dột, con cua lột vỏ.
Em đã đi rồi ư? Nếu như anh mua cho em khẩu súng thì em có bị hiếp không? Trên thuyền, bọn đàn ông run bần bật, nàng kể trong thư cho tôi, bọn cướp biển run một chi giữa, còn bọn đồng hội đồng thuyền thì cả tứ chi đều run. Đã có lúc em ưỡn người lên cho tất cả đàn ông được thấy. Có thể là em đã hạ nhục mọi người khi mọi người để em bị hạ nhục. Cũng có thể là em đã hạ nhục chính em.
Tồn tại là cứu cánh cho cái gì? Con sâu vẫn ủ dột, nàng bảo, anh là đồ vất đi. Tưởng là đồi trụy, hóa ra phản động. Nàng cười nắc nẻ với ý nghĩ của mình và đắp thêm cho tôi một cái chăn nữa. Như thế là tôi đã nằm trong mộ huyệt, trước khi có thể tự quyết định về sự tồn tại của mình. Ba mươi năm trước, tôi đã khổ sở vì ông Heidegger hiện tồn tính thể, bây giờ lại vẫn ông Heidegger tính thể hiện tồn. Tôi vất quyển sách vào sọt rác, úp mặt vào cô gái. Cô gái hỏi thế này là triết học hay phi triết học? Tôi bảo bất khả luận. Anh buồn cười thật, nàng vò đầu tôi. Tôi cảm thấy mình vô nghĩa và muốn chui vào nàng. Những lúc như thế này, nàng nói, em mới thật là em. Có thật sự một niềm an ủi không, tôi không biết, nhưng nó đã là một hành động, ít ra khải thị tôi về tông truyền án lệ. Bọn cưỡng dâm tập thể bảo, trên ngọn cờ đầu độc quyền đổi mới văn chương không có chỗ cho chúng mày. Đừng tưởng bở. Thưa các bác, nhà em không dám giành chỗ của các bác, nhà em vẫn đang trùm chăn để khóc thương cho Argentina – Madonna buồn nôn trên sự trinh tiết của Á Căn Đình phiên âm Hán tự.
Tôi trốn chạy khỏi cô gái. Trốn chạy trú xứ.
Người đàn bà năm xưa viết: Có thể anh ngạc nhiên khi nhận được thư em. Có thể anh nghĩ rằng em đã quên mọi sự. Thật ra, em chẳng thể quên điều gì, cũng như đã chẳng thể quên anh. Cuộc sống giống như một bản án mà kẻ tuyên án không ai khác hơn là chính ta. Những trải nghiệm thật sự không mang đến một điều gì khác ngoài sự hồi cố. Mọi việc chúng ta đã làm, mọi khoảnh khắc chúng ta đã sống đều quí giá. Em có một đứa con như anh đã biết, lúc nó bé tí, cũng như lúc nó là một cô gái. Em cũng biết anh đã từng ngủ với nó. Và em tin rằng anh yêu quí nó. Hiện bây giờ nó đang ở trong trại cai nghiện. Nó cần anh. Em biết chắc thế. Anh hãy đến với nó, như một người cha, và quan trọng hơn, như một người tình. Anh và nó là phần em lưu lạc. Em không thể làm gì tốt hơn được cho anh và cho nó, bởi em là người đã chết. Em đùm bọc anh và con trong linh hồn em.
Năm 1969. Lý Công Uẩn bị đem ra phê bình.
Đồng chí là con của giai cấp quan lại phong kiến thì không xứng đáng đứng trong hàng ngũ vô sản.
Đồng chí là sản phẩm của thứ đạo đức lạc hậu.
Đồng chí không có quyết tâm làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Năm 2002. Lý Công Uẩn nằm hấp hối. Ông Putin của nước Nga sang thăm. Tả hữu đặt vào tay Uẩn cuốn “Lênin toàn tập”. Ông Putin buồn buồn nói: Ở nước tôi, không ai đọc sách này nữa. Nói xong Putin vuốt mắt Uẩn.
Nhưng Uẩn bật dậy, la toáng lên: Tao không chết. Tao không chết. Tao không chết.
Bà Năm Hồng ở Tây Ninh nói vọng vào: Còn nhiều xác người lắm.
Tôi đã đến nhà bà Năm Hồng nhìn thấy những chiếc bao nhỏ đựng cốt người được đặt trên những cái giá gác qua vách chờ thân nhân đến nhận. Từ khi cuộc chiến tranh chấm dứt, bà lang thang trên các chiến trường tìm lại xác đồng đội. Bà làm không vì ai, cũng không để được điều gì. Những bao cốt không có người nhận, bà gửi về nghĩa trang liệt sĩ huyện.
Năm 1010. Thày địa lý Tàu nhìn cái hồ tròn xanh long lanh như một con mắt, ông nhận ra ngay đây là chỗ hùng khí rồng phát lộ. Ông thuê người chở đất đổ xuống giữa hồ thành hình giống như cái mu rùa để làm mù mắt rồng. Sau này người Việt xây trên miếng đất nổi giữa hồ một cái tháp để thờ rùa mà không biết ác tâm của ông thày địa lý. Cái tháp giống như cán gươm mà lưỡi vô hình của nó đã đâm ngập vào mắt rồng.
Tháp bút “Tả thiên thanh” của ông Nguyễn Văn Siêu dựng bên hồ vừa nhỏ vừa ngắn không đủ sức để giải bùa ếm của người Tàu.
Sinh thời, bố tôi bị tâm thần phân liệt. Lúc nào ông cũng cảm thấy như có người đang âm mưu hãm hại mình. Khi lên cơn, ông ra đường quơ tay chỉ nhà hàng xóm, sừng sộ: Tao đây, có giỏi thì cứ bắt tao đi. Muốn giết thì giết tao đi. Tao đéo sợ thằng nào. Tuy chửi thế, nhưng tôi biết, đấy là lúc sự sợ hãi đã lên đến tột đỉnh. Ông không còn kiểm soát được mình. Ông chửi và đập tay vào nhau cho đến khi miệng ứa máu và hai bàn tay dộp lên mới qua cơn. Tháng tư vào mùa lễ phục sinh, khí hậu nóng nực nhất trong năm, bố tôi thường hay lên cơn. Tôi không biết phải làm gì, cũng không cảm thấy buồn tủi hay oán trách. Tôi chỉ nghĩ, nếu con người không được sinh ra thì tốt hơn.
Ngày 16.3.2004. Hồng Phượng không muốn lỡ mất cơ hội ràng buộc của mình với Đại Quang, cô nói: Anh đưa em đến khách sạn.
Tinh khí đầy cứng trong bầu giái, Đại Quang gật đầu.
Hắn gọi một chiếc Taxi.
Vừa đóng cửa phòng, Hồng Phượng đã chồm tới ôm cứng Đại Quang. Cô hiện nguyên hình là một con quỉ. Đôi mắt long lên, trắng dã. Hai hàm răng nghiến lại, cô đè Đại Quang xuống, vội vàng lột quần áo hắn. Lưỡi cô thè ra vừa liếm vừa quấn chung quanh người Đại Quang.
Khát vọng dâm dục của quỉ đã vuốt cặc Đại Quang dài ra như một con lươn. Nó đâm vào cửa mình Hồng Phượng lút đến cổ họng. Cô rên như bị chọc tiết.
Hệ thần kinh trên đầu Đại Quang tê điếng. Một xúc cảm hiện hữu chân thực và siêu thoát. Hắn thấy cửa vũ trụ mở ra tất cả những bí ẩn của sự sống.
Thuốc an thần càng làm cho bố tôi mất ngủ. Một vài loại thuốc khác có thể chế ngự được cơn điên nhưng tạo ra những phản ứng phụ như thèm thuốc lá, tay chân lật bật và thân thể mất thăng bằng. Bố tôi bảo, cứ để tao điên có khi lại dễ chịu hơn.
Năm 1961. Anh em nhà Lý Công Uẩn đều bị á khẩu mà không rõ nguyên do. Họ lần lượt qua đời trong sự cô quạnh. Chỉ sau cái chết của ông Ngô Đình Diệm năm 1963, Uẩn mới trở lại căn nhà xưa bởi một cảm thức tương lân về cái phù ảo của quyền lực chính trị.
Tôi đã trở về nơi tôi từng sống với bố mẹ và những đứa em. Căn nhà ấy giờ đây không còn nữa. Nó đã thuộc về một ai đó, tôi không biết. Điều chắc chắn nhất là tôi đang bước lên chiếc cầu thang gỗ. Phía dưới, đứa em gái áp út nằm ngủ trên ghế bố sau quày hàng. Mẹ tôi nằm ở chiếc giường phía trong. Tôi chỉ nghe thấy tiếng họ trong ký ức. Bố tôi đang bận bịu gì đó trong nhà bếp. Cũng chỉ là những âm thanh rất xa tiếng bố tôi phàn nàn vì đồ đạc thất lạc. Không nhìn nhưng tôi cũng biết đứa em gái kế tôi đang thay quần áo sau cánh cửa tủ. Tôi nghĩ cần phải sắp xếp lại căn gác cho hợp lý. Sẽ kê cái tủ ngay sát đầu giường cô em thay bức bình phong cho kín đáo. Bàn máy vi tính của thời tương lai đưa vào sát tường. Phần giữa nhà sẽ kê một bộ bàn ghế mây. Còn chiếc giường sát cửa sổ phía sau, trong một thoáng tôi không nghĩ được nó thuộc về ai. Tôi không nhớ được mình vẫn ngủ ở đâu trong căn nhà này. Và một nỗi bơ vơ tràn ngập tôi. Chiếc cửa sổ nhìn ra ngôi nhà thờ, tôi vẫn nghe thấy tiếng đọc kinh khi nhà thờ hoàn toàn vắng người, lúc ban trưa hoặc nửa đêm. Cuộc chiến tranh đã đưa đẩy gia đình tôi đi nhiều nơi, ở nhiều căn nhà khác nhau, và tất cả chúng tôi đều nghĩ đây sẽ là căn nhà chúng tôi sống mãi mãi, cả khi chúng tôi không một ai còn tồn tại. Có lẽ vì thế mà tôi đã trở về. Các em tôi cũng đã trở về. Bố mẹ tôi cũng trở về. Tất cả họ đều im lặng. Ký ức của tôi không phải là một ngăn tủ đóng kín. Trước cửa căn nhà, tấm màn gió màu xanh lá cây rũ xuống ngăn cách với mặt đường. Hình như có ai đó sợ ánh sáng. Nhưng bóng tối không phải là chỗ an toàn. Tôi vén màn nhìn ra ngoài, chú tôi vừa đi ra nói vọng lại: Mọi sự đã sẵn sàng. Đấy là cái gì tôi không hiểu. Chúng tôi sắp phải ra đi sao? Tiếng bố tôi vẫn càu nhàu, không thấy cái búa đâu cả. Làm sao bố tôi thấy được khi tôi đang cầm nó trong tay và đập vào bức tường. Tôi cũng không hiểu tôi đập tường để làm gì, nhưng tôi biết chắc đó là điều cần thiết. Sau này tôi mới biết được nhờ cái lỗ ấy mà tôi sống sót. Viên đạn pháo rơi ngay trước cửa và căn nhà bốc cháy bịt kín lối ra bằng lửa. Tôi chui ra cái lỗ nhỏ như lỗ chó ấy thoát ra đường. Tôi đã được chọn để sống. Và đôi khi tôi vẫn tự hỏi sự sống ấy để làm gì. Trong rất nhiều năm, tôi đã bị dằn vặt bởi ý nghĩ ích kỷ. Nhưng điều ấy cũng không làm cho đời sống tôi trở nên sáng tỏ. Sự mù mờ ảo ảnh sương khói và những giấc mơ nửa hư nửa thật luẩn quẩn mà tôi cũng không biết nó nằm trong đầu hay đang hiện hữu bên ngoài tôi. Có tiếng ai gọi ngoài cửa bảo: Đã đến giờ rồi. Tôi không biết chuyện gì, bố tôi trong nhà bếp nói vọng ra: Chúng tôi chưa chuẩn bị xong. Người ngoài cửa lại nói: Không cần chuẩn bị gì cả. Tôi nghĩ cho dù có là cái chết thì cũng nên chuẩn bị. Người ngoài cửa dường như nói với tôi: Nếu mày không muốn đi thì thôi. Vâng, tôi chỉ muốn ngủ. Thế thì hãy ra đường mà ngủ. Bố tôi bảo: Không được, nó là thằng hay ốm vặt. Người ngoài đường nói với tôi: Mày phải tự thu xếp. Dường như tôi bừng tỉnh nói thật to: Ông là ai? Không có tiếng trả lời. Người ngoài đường đã bỏ đi. Căn nhà yên tĩnh trở lại. Tôi nghĩ cần phải treo một cái gì đó lên tường. Tôi tìm trên kệ sách những tấm lịch cũ. 1974. 1973. 1972. Có những bông hoa đã úa tàn từ thế kỷ trước. Những người đàn bà khỏa thân sau bữa cơm chiều. Ánh trăng chiếu vào họ làm cho làn da ẩm ướt và có mùi cỏ. Phải treo họ lên ở đâu đó trong ký ức của những con giun. Tôi hỏi bố nhà mình còn đinh không? Bố tôi bảo không cần đinh. Cứ đóng đi. Liệu những người đàn bà có sống được không khi bị cất vào trong kệ sách? Mẹ tôi bảo đừng có dớ dẩn. Tôi nói mẹ đang ngủ cơ mà. Ừ mẹ ngủ đây, nhưng đừng có đóng đinh họ. Cô em gái đã thay quần áo xong và bước ra lan can. Tôi nói không nên mơ khi còn thức. Ít ra thì cũng để em nhìn thấy một thế giới khác chứ, em tôi nói. Làm gì có một thế giới khác. Tất cả chỉ là một thôi. Ở phía nhà thờ, những con chim sẻ ríu rít trên mái ngói. Người đàn ông đi tìm ý Chúa gục đầu trên những phím phong cầm. Mẹ tôi bảo khi con băn khoăn hoặc sợ hãi thì hãy phó dâng cho Chúa. Tôi đã chui ra khỏi cái lỗ chó nhìn ngọn lửa bùng bùng trên mái nhà. Cách thượng đế đến với con người giống như thợ săn dồn con thú vào bước đường cùng. Tôi đi tìm người chú để nương náu. Nhưng dường như chú tôi cũng chỉ là cái bóng. Những ngôi mộ đã được giải tỏa dành đất cho người sống. Người chết vất vưởng lang thang trên những cỗ bàn đã thiu mốc. Tôi quay lại ngôi nhà mình. Ngọn lửa vẫn cháy. Rất nhiều người đang đứng đọc kinh. Người đi tìm ý Chúa dang tay và ngửa mặt lên trời. Trong đầu ông ta có những con mọt đang đục đẽo. Tôi nghe thấy tiếng của chúng đùa rỡn với nhau. Thằng em trai út ngồi hút thuốc lá trong góc nhà. Nó bảo đốt cả thế giới thì mới mong diệt được chuột. Đứa em gái nằm ngủ sau quầy hàng đã thức. Nó chải đầu và ngứa miệng. Nhưng nó chỉ ú ớ những âm thanh của một cơn gió giật. Cái lược rơi xuống đất. Tôi bảo lại đây anh bóp đầu cho. Dùng cả mười đầu ngón tay bấu vào đầu nó, cái sọ nhũn như một quả bóng, tôi nói lý thuyết cấu trúc là một điển hình cho những áp đặt sinh tồn. Chẳng ai hiểu được câu nói ấy, tôi vẫn tiếp tục vò cái đầu đứa em cho đến khi nó thật sự mềm. Tôi bảo nó muốn nói gì thì nói đi. Nó lắc đầu. Thế gian khép mắt. Bóng tối tràn từ tây sang đông. Những ngọn cây cúi xuống ngủ. Trên mỗi một ngôi mộ mọc lên một ngọn nến. Những người đọc kinh đã xếp thành hai hàng. Họ đi dọc theo những ngôi mộ, một tay lần tràng hạt, một tay cầm hoa. Tôi nhìn thấy họ khuất sau đường cong của quả đất. Bố tôi đã tìm thấy cái búa, ông bảo Chúa vẫn chờ chúng ta đóng đinh người. Tôi không thích tranh luận với bố hay bất cứ ai, nhưng tôi vẫn nói một mình. Chúa đã xuống khỏi thánh giá và đi vào sa mạc. Tiếng búa của bố đập ong ong trong đầu tôi. Tôi nghĩ mình cần phải đi ngược về phía biển. Những người lưới cá đang ngồi khóc vì thuyền của họ đã vỡ. Tôi hỏi Chúa của các ông đâu? Ngài đã lên trời, họ nói. Tôi bảo không phải, Chúa của các ông trong sa mạc. Họ lấy đá ném tôi. Dường như tôi đã chui xuống đất và thoát ra ở dưới chân núi. Con khỉ nói: Ngộ cũng chuẩn bị chạy trốn đây, nị nên giả vờ chết thì mới may ra sống được. Cái đồ khỉ Tàu, tôi rủa và tiếp tục chạy lên núi. Với tay tới mặt răng, tôi cầm cái nia vàng ném xuống đất. Ánh sáng vỡ ra tung tóe làm mù mắt những người lưới cá. Mẹ tôi bảo đừng có viển vông, hãy cứ ngồi ở nhà khâu cúc áo đơm khuy cho mẹ, tao lấy vợ cho. Hãy chọn một cách sống an toàn cho đến khi ý Chúa được hoàn tất. Trong khi ấy, người đi tìm ý Chúa vẫn ngửa mặt lên trời. Những con mọt trong đầu ông ta đã gặm tới sổ kế toán thu chi. Và người đàn bà đứng gần nói: Thưa cha, đã tới giờ ăn cơm. Người đàn bà quạt cho ông ta bằng cái quạt giấy. Tôi hỏi: Cha có thể nuôi con một ngày không? Người đi tìm ý Chúa bảo: Thực phẩm này không phải của ta, con cứ ăn. Cha có thể cho con trú ẩn không? Chỗ này không phải của ta, con cứ ở. Mồm người đàn bà há to như mồm con cá sấu, răng chĩa ra tua tủa, quát vào mặt tôi: Vấn nạn của ngươi là gì? Ôi, to chuyện quá. Tôi bỏ chạy trước khi có thể mang họa. Phía sau lưng tôi, người đàn bà cười sằng sặc: Bé giái non hột mà cũng học đòi. Mẹ tôi bảo về nhà đi con, thế giới này đầy cạm bẫy. Tôi thắp một cây nhang cắm xuống đất. Lạy thổ thần, người là mẹ của hoa trái, là bà cố của tai ương, xin hãy chỉ đường cho tôi về nhà. Người đàn bà đốt phong long quơ ngọn lửa ngoài cửa. Thổ thần uống rượu trắng khề khà. Tất cả chúng mày đều vớ vẩn. Tôi nhắm mắt bước. Con đã về rồi đây mẹ ạ. Nhưng quả thật, tôi không thể nào nhớ được cái giường tôi vẫn ngủ nằm ở đâu.
Ngày 30.4.1975. Nhà chính khách trẻ kể: Hôm ấy tôi ở trong dinh Độc Lập, ngồi chờ quân giải phóng đến tiếp quản. Đây là lịch sử. Tôi đang ngồi trong lịch sử với một nỗi niềm lo sợ. Tất cả giơ tay lên. Chúng tôi lần lượt ra khỏi lịch sử trong tư thế hai tay để trên đầu. Một vài nhà báo quen chạy tới ôm lấy chầm lấy tôi. Chúng ta thắng rồi. Tới lúc đó, tôi khóc.
Ông Phan Thanh Giản bảo: Đầu hàng là một kinh nghiệm kỳ lạ nhất về sự hiện hữu.
Khi trong lòng an bình, bố tôi lảm nhảm đọc kinh. Giọng ông vui cũng như tôi đã nghe thượng tọa Thích Huyền Diệu ê a lời kinh tán trong vườn Lâm Tì Ni ở Népal xa xăm. Chúa không ngồi trên ngai vàng. Người ở trong gió và người mang lời kinh vu vơ đến cho những ai cần sự vu vơ để đi qua trần gian.
Nếu một lúc nào đó, người mang đến cho tôi chén thuốc độc và bảo: Phần của mi. Tôi sẵn sàng cầm lấy và uống trọn số phận mình.
Vì chột mắt, nên con rồng vẫy đuôi bay vòng vòng một chỗ mà cứ ngỡ mình bay thẳng. Quẻ Bát thuần càn, hào thượng cửu: “Kháng long, hữu hối”. Lý Công Uẩn nói với bà Năm Hồng: Cẩn thận kẻo động mồ động mả.
Ngày 16.3.2004. Những con ma ngụy tụ tập chật trên đồi Thương Tiếc. Chúng đến từ Nam Lào, Quảng Trị, Huế, Tây nguyên, duyên hải Trung bộ, các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam bộ. Trần truồng và đói khát. Lý Công Uẩn nói to: Chưa đến ngày phán xét, sao các ngươi lại đến?
Chúng đồng thanh trả lời: Ngày nào cũng là ngày phán xét.
Ai dám phán xét các ngươi khi ngày Chúa chưa đến?
Những ngọn cỏ này, những bóng cây này.
Ta có thể phán xử gì cho các ngươi?
Thưa hoàng thượng, chúng tôi cần một chỗ nằm.
Khi ấy, Bùi Giáng cầm cây phất trần đi ngang qua, nói: Nếu các bạn chưa chết thì đừng nằm. Còn rủi như các bạn đã chết từ khuya rồi thì lại càng không nên nằm, bởi các bạn là ma.
Chúng nói như hô khẩu hiệu: Ma cũng phải nằm.
Khi các bạn nằm, các bạn không phải là ma. Bởi vì bản chất của ma là không thật, hiện tượng của ma là nhát người. Các bạn hãy lên đường chọc ghẹo bá tánh cho hãi hùng thân phận, ly kỳ số kiếp.
Một số con ma vốn là văn nghệ sĩ nói: Phải đấy.
Vấn đề của các bạn là chọn hình thức nào cho ra dáng con nhà ma.
Nhạc sĩ họ Công Tôn xen vào: Các toa như thế nào thì cứ xuất hiện y như thế cũng đủ làm kinh động thế giới.
Nhà thơ Nguyễn Xoong bảo: Cậu chỉ là cái thằng Đã Là. Vấn đề ở đây là cái Đang Là.
Nhạc sĩ họ Công Tôn cãi: Chúng ta là cái Vẫn Là.
Cái thứ Vẫn Là của cậu chỉ là giả hình. Âm nhạc của cậu đánh đĩ thập phương.
Thơ của toa là thứ ma cô ma cạo.
Bùi Giáng ôm con khỉ bỏ đi. Lý Công Uẩn ngán ngẩm nói to: Thôi giải tán.
Cả ngọn đồi Thương Tiếc vọng lên: Thưa hoàng thượng, đi đâu?
Đi đâu là chuyện của các ngươi. Lý Công Uẩn nói như thế và kẻ nào trong các ngươi nghe được thì nghe.
Những con ma lại rầm rĩ hỏi nhau: Đi đâu?
Bấy giờ nhà thơ Nguyễn Xoong lên tiếng: Hãy đến vườn Đá Tảng.
Vườn Đá Tảng rộng hơn hai mươi mẫu trên cao nguyên Di Linh. Bên những viên đá tảng là tiếng thông reo từ muôn vạn kiếp phiêu diêu. Thái tử Siddhartha đã khai hoang miếng đất này từ tiền kiếp của ngài. Trước khi đi Tây hoằng pháp, ngài đã giao lại cho nhà thơ Nguyễn Xoong gìn giữ cùng với một thảo am nghi ngút mây trời. Nguyễn Xoong mang vợ con đến giữ đất chùa sau khi đã leo lên một tầng thượng trong thành phố đái xuống đất và nói: Con người đã chết.
Cái chết của Nguyễn Xoong xảy ra vào đúng giờ khắc cuối cùng của thiên niên kỷ thứ hai sau Thiên chúa giáng sinh, cũng là thời hạ nguyên của sắc tướng hiển lộ. Đêm ấy, Nguyễn Xoong vừa làm xong bài thơ ca tụng mùi khai trong háng đàn bà thì ngửi thấy mùi khét của cây cỏ cháy. Ông bước ra ngoài thảo am. Lửa phừng phừng bốn phương trời đất. Lửa cháy tới đâu lũ người xuất hiện tới đó, họ mang theo cuốc xẻng và những biểu ngữ viết bằng máu: “Máu tao chảy đến đâu, đất chỗ ấy thuộc về tao”. Lũ người chạy băng qua chỗ Nguyễn Xoong đứng và ngọn lửa của họ biến ông thành cây đuốc và đất của ông thành đất của họ. Cái chết của Nguyễn Xoong nhanh đến độ mùi khai của háng đàn bà trong thơ ông không kịp tan. Sau khi thành ma, Nguyễn Xoong tiếp tục làm thơ vần vũ với mùi khai ấy.
Bọn ma ngụy kéo nhau tới vườn Đá Tảng. Một con ma bỗng hỏi: Bùi Giáng đâu?
Ma Xoong bảo: Lão ấy giả điên quay lưng lại với thời cuộc.
Thế còn Công Tôn đâu?
Hắn về hội nhạc sĩ chờ kết nạp đảng.
Ở vườn Đá Tảng, ma Xoong đọc thơ khai trong lúc các con ma khác khóc than về sự chia cắt âm dương. Lý Công Uẩn buồn rầu bước đến bảo: Lẽ ra các ngươi phải nghe thơ Lý Thường Kiệt. Nhưng Triệu Đà từ Quảng Châu đội mồ chạy tới bảo: Tôi sai lầm. Tham vọng hùng cứ của các vĩ nhân là mầm mống nhiễu loạn thế giới. Lý Công Uẩn nói: Nếu ông không sai lầm thì đã không có tôi. Những con ma chập chờn cũng vọng âm: Nếu không có các ông thì đã không có chúng tôi.
Hằng nói: Em đã quen sống không có anh. Và đôi khi em tự hỏi: Anh có thật sự cần thiết với em không? Tôi nói: Thật sự không có điều gì cần thiết.
Ngày 30.4.1975. Công Tôn chạy đến giữa cầu Hiền Lương nói: Tôi có công với cách mạng. Nhưng cách mạng không tin ông, cách mạng còn muốn bỏ tù ông, nhờ có một vị lãnh đạo thích nhạc ông mà ông không bị bắt. Đến lúc ấy ông mới hiểu, chính trị không phải là chỗ của ông.
Công Tôn biến thành ma giữa khi danh vọng lừng lẫy, rượu ngon và gái đẹp ê hề. Lý Công Uẩn hỏi: Ngươi còn điều gì nuối tiếc?
Tôi đã chờ đợi suốt hai mươi năm chiến tranh và thêm hai mươi năm hòa bình để được vào đảng, nhưng đảng đã không kết nạp tôi.
Ngày 24.4.1975. Báo Saigon Post đăng một tin rao vặt làm Custer chú ý: “Nữ sinh viên năm thứ nhất, 19 tuổi, đẹp như mơ, còn trinh, con nhà giàu, biết chơi dương cầm, muốn được nhận làm con nuôi hoặc kết hôn với người Mỹ, Anh, Pháp, Đức để tiếp tục việc học ở nước ngoài. Mọi phí tổn xin thanh toán theo yêu cầu”.
Custer không còn thì giờ để phá trinh có thưởng.
Ngày 30.4.1975. Bùi Giáng ngồi thiền trong thiền viện Vạn Hạnh. Trước đó mấy ngày, quả bom CBU.55 lần đầu tiên được thả ở Việt Nam. Gần ba trăm bộ đội chết tại chỗ. Ký ức của họ chỉ có máu thoát ra từ thất khiếu.
Ngày 25.4.1975. Ông Dương Văn Minh bảo: Tôi chỉ làm tổng thống, không làm gì khác. Tôi là người duy nhất cứu được Sài Gòn không đổ máu.
Custer tìm các nghị sĩ chi tiền cho họ để mua sự nhất trí này.
Ngày 30.4.1975. Nguyễn Xoong bảo lũ con: Từ hôm nay chúng mày không phải đi học nữa.
Anh có muốn Custer chi tiền cho anh sang Mỹ chơi không? Hằng hỏi.
Đêm 31.12.1999. Bùi Giáng xem Kim Cương đóng kịch. Công Tôn ngồi uống rượu nhấm nháp một em hoa hậu. Lý Công Uẩn ngồi ở sân nhà bà Năm Hồng cọ rửa một bao cốt vừa tìm thấy trong ngày. Nguyễn Xoong nằm bò dưới đất đánh hơi mùi khai. Custer xem pháo bông trên bầu trời New York. Mì xoa nắn hai bầu vú teo tóp. Lan Thanh uống bia với khách.
Đêm ấy, anh làm gì? Anh nghĩ đến em và ước được hôn em. Liệu điều ấy hay tất cả những điều chúng ta làm còn có nghĩa gì sau ngày tận diệt? Hằng hỏi. Tôi nói: Anh chẳng hy vọng điều gì, bởi thế anh càng muốn hôn em.
Năm 1998. Nguyễn Xoong viết một thư ngỏ gửi tất cả văn nghệ sĩ trên thế giới, nội dung kết án Công Tôn là một thằng cơ hội, vì thế cần phải tẩy chay nhạc của ông ta. Cả thế giới cười sằng sặc. Riêng Bùi Giáng mới nhìn thấy bức thư đã bị nhồi máu cơ tim, ngã xuống đất. Máu tụ trong não, Bùi Giáng biến thành ma lảm nhảm nỗi nhớ miền sơn cước sắm vai tuồng chèo cho vui lòng mán mọi. Đôi khi tỉnh táo để lĩnh tiền nhuận bút, Bùi Giáng bảo: Thị phi là chuyện của ruồi, những con châu chấu dí buồi vào nhau.
Ngày 16.3.2004. Con ma mặt đỏ thèm rượu, ngáp dài nói với con ma đang nằm gác chân trên tảng đá: Nghe thơ thằng này giống như thủ dâm. Thà đi chơi đĩ hoặc uống bia ôm còn có lý hơn.
Con ma nằm bảo: Không thủ dâm thì làm được cái gì bây giờ.
Những con ma cái đâu hết nhỉ?
Chúng có thế giới của chúng.
Đấy là đâu?
Hỏi Nguyễn Xoong chắc nó biết.
Nếu nó biết, nó đã không phải thủ dâm.
Hay là hỏi Lý Công Uẩn?
Thử xem.
Thưa hoàng thượng, những con ma cái đi đâu?
Điều này thì phải hỏi Đức Phật?
Thưa Phật, những con ma cái đi đâu?
Cứ bước vào vòng luân hồi sẽ thấy.
Tại sao chúng con không được tái sinh?
Các ngươi không thể tái sinh khi trong lòng các ngươi vẫn còn quá khứ.
Năm 1998. Dưới gốc cây sứ của Hội Nhạc sĩ, Công Tôn nói với người bạn: Tụi nó không muốn cho moa ngồi đây nữa.
Thì đi chỗ khác.
Vấn đề không phải chỉ là cái chỗ, mà là chỗ của moa.
Chẳng có chỗ nào của moa hay toa. Toa không ngồi dưới gốc cây sứ thì đến gốc cây me.
Ở đây moa còn cảm thấy có bạn bè.
Toa tiếc gì chúng nó, khi chúng nó đẩy toa ra.
Moa không tiếc chúng nó, nhưng đấy là cuộc đời moa.
Cuộc đời toa là thế giới ngoài kia. Thằng Nguyễn Xoong nó chửi toa không phải vô lý.
Người bạn đứng dậy, bỏ đi. Công Tôn ngồi nhìn nắng đang đổ về phía mình. Trên túi áo của ông có một tờ giấy mới ghi rằng: Từ hôm nay ông được nghỉ hưu.
Năm 1997. Nhà nhiếp ảnh Hoàng Hôn dẫn vợ đến nhà Công Tôn chơi. Hào quang của Công Tôn tỏa ra trong tiếng đàn và giọng hát buồn. Hoàng Hôn lấy làm vinh dự vì hào quang ấy đang hắt vào mình, còn cô vợ trẻ đẹp thì dường như cảm động và xao xuyến. Nàng cảm nhận được giọng hát buồn của người nghệ sĩ tài hoa kia đang hát vì mình. Cái tình yêu mong manh trong bài hát chẳng phải chính là cái tình yêu của ông với nàng? Công Tôn nói với nàng: Em lên gác, anh cho xem cái này.
Nàng nhìn chồng. Chồng gật đầu.
Nàng theo ông lên gác. Ông chỉ vào bức tranh người đàn bà khỏa thân, nói: Anh đã vẽ em trong những đêm say.
Bây giờ anh say hay tỉnh?
Em thích anh tỉnh hay say?
Say.
Ông ôm cô và bảo: Anh là người suốt đời say.
Ông cởi quần áo cô và đặt cô vào chỗ của bức tranh.
Sau này, có người khen Hoàng Hôn: Thằng Công Tôn nó chơi vợ ông ngay trước mắt mà ông chịu được thì cũng giỏi.
Hoàng Hôn chỉ cười bảo: Với anh Tôn thì sao cũng được.
Không một ai biết giữa Hoàng Hôn và Công Tôn đã có một cuộc trao đổi ngầm mà xét ra Hoàng Hôn cũng chẳng thiệt tí nào. Hắn chơi cô em gái Công Tôn ngay trong nhà của ông ta sau khi chụp hình khỏa thân cô này.
Năm 1998. Nguyễn Xoong trói vợ vào cây thập tự làm bằng gỗ thông, rồi treo cây thập tự lên xà nhà. Tay cầm roi, Nguyễn Xoong quất vào cẳng vợ, tra tấn: Đêm qua, mày trốn đi đâu?
Người vợ tóc tai rũ rượi im lặng. Mỗi lần chiếc roi của Xoong quất vào người, bà chỉ hơi giật lên một chút. Bà càng im lặng, Xoong càng điên tiết, ông quất vào chân bà cho đến khi mỏi tay mới ngừng lại. Bà thều thào: Hãy đi tìm con. Rồi ngất lịm.
Xoong hạ dây thừng thả bà xuống, tháo dây. Ông ôm vợ khóc và hôn lên hai ống chân rướm máu của bà.
Năm 1990. Những đứa con của Xoong lần lượt bỏ nhà đi sau nhiều lần bị đánh đập trên cây thập tự. Cô con gái tìm bác Tôn xin giúp đỡ. Bác Tôn gửi cho người bạn có một công ty lớn. Một đứa con trai ra Huế vào chùa để quên lãng. Một đứa con trai khác bụi đời với lời thề sẽ giết bố, nhưng chẳng bao giờ nó làm được điều ấy, chỉ đơn giản vì tình yêu với một cô gái đã làm cho nó trở nên mềm nhũn.
Hằng hỏi: Em không hiểu tại sao Xoong lại đánh đập vợ con theo kiểu La Mã như thế? Anh đoán chừng, Nguyễn Xoong coi vợ con như hình ảnh của quân trộm cướp, hoặc cũng có thể là hình ảnh của thượng đế. Ông ta ở trong tâm trạng tuyệt vọng về một đấng cứu thế không có thật. Tôi giải thích thế, nhưng Hằng bảo, ông ta vốn coi vạn pháp là không kia mà. Tôi cười, nói: Bọn bất lực khi không dí cặc vào lồn được thì dí cặc vào tất cả. Hằng kêu lên, anh bậy quá. Tôi nghiêm trang nói: Triết học tánh không đấy em ạ.
Năm 1998. Đêm đêm, vợ Nguyễn Xoong chờ chồng ngủ say, lén mở cửa ra ngoài. Bà đi lang thang qua những tảng đá, lần mò sờ vào từng gốc cây dò hỏi: Con tôi đâu? Mặc dù bị chồng đánh dã man, bà vẫn đi qua những ngọn gió tìm con cho đến ngày bà tắt thở dưới thung lũng.
Tiếng chuông chùa ở Huế buồn như tiếng than của sự phế vong. Người con trai lớn của Nguyễn Xoong bây giờ đã là một đại đức. Thày bảo tiếng chuông trầm trọng hơn tiếng con người, bởi thế thày rất ít nói. Nhưng khi những người quen với Nguyễn Xoong gặp thày hỏi thăm về gia đình, thày lại nói: Tiếng chuông hay tiếng con người thì cũng là tiếng của hư không.
Ông bố của Nguyễn Xoong đi kháng chiến chống Tây khi Xoong còn nhỏ. Năm 1954, ông cụ trở về nhưng không về với mẹ con Xoong, sau đó ông tập kết ra Bắc cùng một người đàn bà khác. Nguyễn Xoong bảo: “Tôi là nhà thơ từ trời xuống. Và thơ tôi là máu kinh của các nữ thánh rỉ rả ngày trăng non”. Không nhà phê bình văn học nào có ý kiến về chuyện này. Khi Nguyễn Xoong lấy vợ, ông khoe với thiên tài triết học tấm hình vợ khỏa thân: “Đây là thiên sứ trinh bạch”. Thiên tài triết học mặc áo nâu sồng nhìn chùm lông lấp lánh của thiên sứ, bảo: “Để cho thơ trở thành hơi thở của thi sĩ thì kinh kỳ thiên sứ chưa đủ cho niềm túy lụy, cần có mùi khai của nước đái cho thơ ngạt thở chiêm bao”. Từ đấy trong thơ của Nguyễn Xoong không chỉ có máu kinh mà còn có mùi khai.
Hằng hỏi tôi: Anh có gửi một tiếng chuông lên trời không? Không, anh chỉ có mỗi tiếng chuông trong đáy vực, tôi nói. Nhưng Hằng bảo: Anh lúc nào cũng ấm ớ.
Năm 2000. Tại sân vận động Hàng Đẫy, hơn hai mươi ngàn người đã chứng kiến rồng bay trên trời. Ma Xoong (chưa đến Hải Dương bao giờ) bảo giống con rồng vàng bánh đậu xanh. Ma Bùi Giáng bảo giống con giun ngọ nguậy. Ma Công Tôn lại nói đó là cái xác rồng hiển linh. Riêng Lý Công Uẩn ngồi trên khán đài A nhìn thấy rõ nhất, nói đấy là con rồng giả. Quẻ Bát thuần càn. Hào cửu ngũ: “Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân”.
Năm 1950. Bố Công Tôn bán vải ở Nam Vang, thường có dịp gặp gỡ các nhà sư. Điều ấy cũng không ảnh hưởng gì đến máu mê cờ bạc của ông cụ. Nhưng triết lý nhà Phật về sắc và không lại làm cho ông cụ trở thành một người bản lĩnh trong trò chơi được – mất này. Ông bảo cái chính là có cảm thấy vui hay không, chứ không phải cuộc đời này có ý nghĩa gì. Công Tôn được thụ hưởng di truyền từ bố máu con buôn và cả sự khoáng đạt tâm linh. Những người làm chính trị đều biết tính cách này của Tôn, họ cho Tôn lên con tàu ảo tưởng phóng vào vũ trụ. Bùi Giáng gặp Tôn bảo: Trên đỉnh Phù Vân có Trần Nhân Tôn, có Pháp Loa, có Huyền Quang, có Phó Đức Phương, có Mỹ Linh, toa chẳng nên vướng lụy.
Tôn nói: Không lên Phù Vân, sao thấy được vô thường?
Giáng bảo cứ Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi cũng đủ thấu suốt con đường nhà ma.
Tôi nói với Hằng, có một con đường còn kinh khủng hơn nhà ma hay nhà thổ, đấy là đường vào nhà xí.
Năm 1970. Chuyện của T. Mẹ tôi sinh đứa con thứ hai. Tôi không biết có ai lấy nhau của em tôi về cho lợn ăn hoặc ngâm rượu uống hay không. Xét cho cùng, nếu có việc như thế mà không xảy ra trước mắt mình thì cứ coi như không có. Nhưng tôi đã phải chứng kiến cảnh mẹ tôi trốn vào cầu tiêu nhà thương, một bãi lầy cứt và nước đái, cùng với những người đàn bà khác nặn sữa xuống sàn để chứng minh với nhân viên y tế rằng vú mình không có sữa, mong nhận được một cái tem phiếu mua hai hộp sữa bò. Mẹ tôi tiếc sữa mình, nặn vào bát đưa cho tôi, nói: Con uống đi cho bổ. Tôi biết là bổ, nhưng gớm quá, lắc đầu. Mẹ bảo: Không phải con đã từng bú sữa mẹ sao? Con gầy cũng được, nhưng con không uống nữa. Năm ấy tôi mười tuổi.
Năm 1979. Chuyện của K. Tôi ở trong trại cải tạo. Gần trưa có người bên ngoài nói to qua hàng rào: “Ông K có người nhà đến thăm lúc 2 giờ”. Trước đó năm phút, tôi ra cầu tiêu ngồi. Đó là một cái hố rộng nằm gần hàng rào kẽm gai, không che chắn, chỉ có hai cái cây bắc ngang. Mỗi lần ngồi xuống, ruồi ở dưới bay lên rào rào như một cơn lốc đen. Mẹ tôi giả làm nông dân cùng với đứa con tám tuổi vác cuốc đi qua, nói vọng vào: “Vợ mày nó đi theo thằng đại tá cách mạng rồi”. Không biết lặng đi bao lâu, tôi nói: “Không cần tiếp tế cho con nữa. Ráng cho thằng nhỏ đi học”. Trên hàng rào kẽm gai, ruồi bu kín làm mồi cho những con én về. Mẹ tôi và thằng nhỏ đã đi khuất, tôi đứng lên và nghĩ, mình không mặc quần cũng không có vấn đề gì.
Năm 1990. Khách sạn Bông Bụp có hai phòng không bao giờ cho thuê để dành cho nhạc sĩ Công Tôn và nhà văn Trần Trọng Đức lúc nào muốn dẫn gái đến cũng được. Giải thích về sự ưu đãi này, ông giám đốc khách sạn quốc doanh nói: Nhiệm vụ của chúng ta là không để các nhân tài bí giái. Bởi thế, nếu các nhân tài không tự kiếm gái được thì khách sạn cũng có bổn phận phải lo chu tất.
Có người nói truyện của tôi, giữa những dòng chữ là nỗi nghẹn ngào. Cũng có người nói, tôi tàn ác. Nhưng Hằng lại bảo: Em thích cái dâm đãng của anh.
Anh dâm cho em sướng, tôi nói.
Nếu Custer không lo cho anh đi Mỹ được thì em lo cho anh, anh đi không?
Ngày 16.3.2004. Hơn hai ngàn thuyền nhân Việt Nam bị quên lãng ở Philippines từ lúc cao ủy tị nạn liên hiệp quốc rút khỏi nước này năm 1989. Tổ quốc không còn họ. Thế giới không có họ. Bằng sự cầu nguyện và niềm hy vọng, họ chờ đợi ngày chúa lại đến.
Tôi bảo không có một người viết nào lại không hy vọng một điều gì đó. Chúa nói: Hãy tỉnh thức mà cầu nguyện. Nhưng dường như cả Lý Công Uẩn cũng đang ngủ gật.
Năm 1974. Dịch giả Phương Phương đến vườn Đá Tảng tìm Nguyễn Xoong. Lúc ấy vợ Xoong đang ở trong am tụng kinh. Phương Phương nói: Tôi vừa đọc xong tập thơ thứ ba của anh, và không thể không tìm anh.
Tôi xin thỉnh giáo. Xoong khoanh tay khiêm tốn.
Tôi biết là anh không có ý định nói thế.
Cô nghĩ là tôi có thể nói khác thật à?
Vâng.
Ví dụ?
Phương Phương quì xuống trước mặt Xoong. Cô lết tới và gục mặt vào háng Xoong hít cái mùi hôi nồng của ông.
Hãy nói điều anh muốn đi.
Xoong im lặng cởi cúc quần.
Năm 1975. Phương Phương vào chùa với một niềm bí ẩn mà chính Xoong cũng không hiểu được.
Năm 1998. Nhà văn Trần Trọng Đức dẫn vợ Hoàng Hôn vào khách sạn Bông Bụp. Người đàn bà nói: Em biết anh chơi thân với anh Tôn, cũng như anh Hoàng Hôn, điều ấy hoàn toàn không có gì quan trọng. Em muốn được làm tình với bất cứ ai em thích.
Trần Trọng Đức bảo: Anh lại chỉ muốn hiếp vợ thằng khác.
Năm 2001. Đồng chí giám đốc khách sạn Bông Bụp nói với Trần Trọng Đức: Tôi muốn vào hội nhà văn.
Không có gì khó. Chỉ cần có ít nhất một tác phẩm được xuất bản.
Ông xuất bản giùm tôi được không?
Được. Đưa tác phẩm đây.
Tôi chưa có. Ông viết giùm tôi được không?
Được. Thơ hay văn?
Cái nào sang trọng hơn?
Về hỏi vợ xem.
Vợ tôi thích văn. Nhưng bồ tôi thích thơ.
Vậy thì nên làm nhà thơ.
Nhất trí.
Chưa xong. Ông có bồ thì cũng nên chia sẻ với tôi chứ.
Lại nhất trí. Ông muốn bồ loại nào?
Tôi muốn bồ của ông.
Được.
Năm 1988. Một nhà thơ lão thành từ trung ương xuống gặp Nguyễn Xoong, nói: Nhận thấy chân tài của ông, chúng tôi đề nghị ông làm đơn xin gia nhập hội cho có chính nghĩa.
Xoong cười nhạt: Thơ cũng cần có chính nghĩa à?
Tất nhiên.
Nhưng tôi thì đếch cần.
Ngày 16.3.2004. Nhà thơ trẻ lên tiếng: Cháu làm thơ hay thế, tại sao không có ai khen? Các bác mù hết hay sao?
Ma Xoong hỏi: Thế mày có biết bú không?
Dạ, cháu chỉ biết bú sữa mẹ.
Thế thì về học bú thêm những thứ khác.
Ngày 10.3.2004. Ma Công Tôn nhớ những người con gái đẹp đã đi qua đời mình, ông mò vào quán Lan Thanh, vạch cu cho Hồng Phượng vọc. Sau khi xuất tinh, Tôn mới tỉnh táo hỏi chuyện Hồng Phượng. Cô gái bảo ngày xưa bố em là thiếu tá. Mẹ em thăm nuôi ông ngoại trong trại cải tạo, gặp bố em, lúc ấy đã bị vợ bỏ. Mẹ em tội nghiệp, mỗi lần tiếp tế cho ông ngoại bao giờ cũng đem thêm cho bố. Sau khi được thả, bố lấy mẹ, về quê sống.
Tôn hỏi: Bố em tên gì?
Anh hỏi làm chi?
Hỏi cho biết thôi.
Bố em tên K.
Nhìn mặt cô gái, Tôn nhận ra Hồng Phượng là con gái bạn mình. Ông ta vội biến vào những đám mây đang bay, để lại cho cô một chai rượu chát chưa tính tiền.
Những va đập làm em mất tự chủ. Hằng nói. Đêm qua em phải uống rượu mới ngủ được. Những khuôn mặt lạnh tanh lướt qua hành lang hẹp. Chúng gạt tàn thuốc xuống nền nhà và nói năng ồn ào. Dưới đường dây điện ngầm, những xác ve đang mục. Em thật sự thấy cô đơn và trên làn da màu vàng rỉ nước. Một điều gì đó trong em đang mất đi. Em nhớ những bắp ngô luộc của cô gái từ miền Bắc vào. Chiếc xe đạp cọt kẹt phố khuya. Những hột vịt lộn vỉa hè rau răm và mùi khai dưới gốc cây me. Trên chiếc bàn dơ bẩn, những quân bài số phận nằm ngửa. Bà thày bói già xin điếu thuốc. Em đá tung đôi giày lên trời và chạy.
Trong thư viện trường đại học Berkeley, em viết cho anh và cảm thấy vui. Không biết tại sao. Phải chi có một ly cà phê với anh giờ này, em sẽ hạnh phúc.
Năm 2000. Phương Phương nhặt những cánh hoa ngọc lan rụng trong sân chùa, gói vào vạt áo. Ma Giáng nhìn thấy động lòng, nói: Lẽ ra, qua không làm thơ lục bát nữa, nhưng nhìn em quần ống cao ống thấp so le hiện thực với huyền ảo, đành phải ngỏ vài câu thương cảm.
Phương Phương e lệ thưa: Thày nói chi lời tài tử. Hồng nhan em đã nhuốm màu tê tái hậu hiện đại.
Không, em đừng để phí thời gian với lão thợ đúc ngoài biên ải.
Đã muộn rồi, thưa công tử của Bạc Liêu huyễn hoặc.
Em đã biết mùi tanh tưởi của nguyên khí hào hoa?
Thưa, phận gái già nào dám mơ tinh huyết của thiên tài.
Ôi, ngọc lan ngọc nhũ ngọc mòng xứ lạ. Ngọc dương xanh ngọc cầm xanh thánh thót. Ngọc hoàn ngọc lệ qua về âm vực lối thu xưa.
Ngày 16.3.2004. Lý Công Uẩn bảo cần phải đóng cửa các quán karaoke. Chúng nó lợi dụng văn nghệ văn gừng để đồi trụy phản động.
Ly cà phê đã nguội, những cô gái gọi ưỡn ngực trên bàn uể oải, những người đàn ông đeo cravate sắp hàng trước cửa toilette. Trong nách tôi, những sợi lông ngọ nguậy, bốc mùi. Đám mây chuyển mưa kéo ngang bầu trời thành phố. Hằng nói: Những đám mây sẽ làm cho ma Tôn rớt xuống. Anh có định mời ông ấy uống cà phê không?
Không, chưa bao giờ anh có ý muốn sẽ ngồi với ông ta.
Anh vẫn ngồi với họa sĩ Trịnh Cung phải không?
Ông ấy đang đọc báo. Anh thích bức tranh bước vào sa mạc của ông ấy, nơi tất cả mọi tự sự đã bị từ bỏ.
Những sợi lông trong nách anh còn ngứa?
Dường như nó đang mọc dài ra để thở.
Hồng Phượng nói với Đại Quang: Mai mốt, quán karaoke đóng cửa, em sẽ ra đường, đứng dưới gốc me nhờ Huyền Trân Công Chúa phù hộ.
Huyền Trân Công Chúa giẫy nẩy lên: Bà không phải là bà tổ chúng mày. Đừng có vin vào bà mà nhố nhăng.
Đại Quang nói: Tổ tiên không lo được cho em, thì để anh lo. Anh sẽ xuất khẩu em sang châu Phi. Nếu em ngại châu Phi nghìn trùng kiểu cọ thì anh đưa em sang Campuchia, Đài Loan, hoặc Trung Quốc đại lục cho đồng văn, đồng khí.
Hằng nói: “Em muốn uống cho say đến bất tỉnh”. Chuyện gì đang xảy ra với Hằng, tôi không biết. Đường dây điện thoại bị cắt. Internet không kết nối. Thần giao bất cảm. Tôi không thể gào lên. Anh cũng muốn uống cho say đến điên khùng. Những gã thợ săn đã đeo súng lên vai, chúng đi vào thành phố. Chiến dịch “Tìm và diệt” đã khởi động bằng những con chim mồi. Trên những ngọn cây vô tội, chúng nhìn trời xanh và hót về sự bao la. Trong bao la có những cái bẫy nhỏ của tình yêu và bao cao su thủng. Trong bao cao su thủng có những giấc mơ vụn an ủi đứa con hoang. Những đứa con hoang nghi ngờ tố cáo lẫn nhau về tính trung thực của sự hiện hữu.
Năm 2001. Lý Công Uẩn tìm thấy xác tượng Nguyễn Trãi chìm trong đáy bùn một đìa tôm ở Khánh Hòa. Ông mang về đặt lại trên bệ tượng ở trung tâm huấn luyện hạ sĩ quan Đồng Đế cũ. Trãi buồn buồn nói với Lý Công Uẩn: Hạ thần tưởng mình vẫn còn bị tru di.
Không, Lê Thánh Tôn đã phục hồi danh dự cho khanh rồi. Nếu ở đây không còn ai hương khói, khanh có thể về vườn Đá Tảng ngắm trăng uống rượu với Nguyễn Xoong và những linh hồn oan khuất khác.
Hạ thần không giao du với bọn tục tĩu. Trãi thưa.
Đừng tưởng tục là tục. Ngươi ăn phải bả Khổng Tử.
Thưa hoàng thượng, đấy là lễ.
Nếu ngươi không trút bỏ được lễ thì ngươi sẽ phải chết vì lễ.
Em không cần bất cứ điều gì, nhưng rồi vẫn cứ phải sống. Hằng nói. Không biết em đã uống bao nhiêu rượu. Em cũng không nhớ là có Quân hay không. Khi tỉnh lại, em thấy mình nằm trên sàn nhà. Cảm giác về sự hoang vu làm em nghẹn thở. Em cố lết vào phòng tắm. Làm thế nào có thể tìm thấy danh dự trong một thế giới không danh dự. Người ta vẫn tự nhục mạ mình bằng ảo tưởng. Thân thể em băng giá.
Ngày 30.4.1975. Lúc 3 giờ sáng, trùm CIA ở Sài Gòn đánh bức điện cuối cùng gửi Washington với một nỗi cay đắng triết lý: “Ai không học gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải nhắc lại lịch sử”.
Quân báo tin cho tôi, Hằng đã chết vì rối loạn tim mạch sau một cơn say. Người ta nhìn thấy Hằng một mình nằm úp sấp trên sàn nhà.
Tôi nói với Quân: Hằng vẫn còn đang nói chuyện với anh.
Không, Hằng thật sự đã chết. Cô ấy hiện đã được đưa vào nhà xác.
Hằng có nhắn gửi gì không?
Cô ấy bảo anh đừng ảo tưởng.
Chỉ có thế?
Còn một chữ nữa.
“Em đây”.
Năm 1999. Nguyễn Xoong ngồi khắc thơ mình lên đá. Bùi Giáng lùa dê đi ngang nhắm mắt không dám nhìn. Nhưng những con dê thì tò mò tọc mạch, chúng đứng lại nhìn Xoong hì hục đục. Chúng hỏi nhau: Con người vất vả để làm gì? Một con ra bộ tinh khôn nói để sống cho sướng. Con khác cãi lại, đã vất vả thì không sướng. Một con đến gần ngửi vào chỗ Xoong đang đục, nó nói: Chẳng có mùi gì cả.
Bọn dê kéo nhau đi.
Tôi nói với Hằng: Dù em còn sống hay đã chết, anh vẫn mong em về với anh. Anh cần em.
Em biết thế và em đang ở bên anh.
Cho anh hôn em.
Em đây.
Năm 1968. Đồng chí Mao Trạch Đông nói với Lý Công Uẩn: Chiến tranh nhân dân là tập đại thành của tất cả các binh pháp cổ kim đông tây. Kẻ nào nắm được nhân dân kẻ ấy nắm chắc phần thắng. Lý Công Uẩn ban đêm nằm mộng, thấy: Các chị em tiểu thương, bà con nông dân xông lên phía trước đối diện với súng đạn quân thù. Từng lớp người gục xuống. Trước khi chết, họ còn tự hào hô vang: Chết cho vinh quang người (phía) sau.
Trong một đêm mộng khác, Lý Công Uẩn thấy: Hàng ngàn công nhân lao vào đám cháy cố cứu lấy bức ảnh chân dung chủ tịch muôn đời Kim Nhật Thành, không quan tâm đến những người bị thương trong đống lửa đang gào khóc.
Nghe Lý Công Uẩn kể về hai cơn mộng ấy, nhạc sĩ Công Tôn nói: Mỗi ngày tôi chọn một loại bia. Bia để uống cho say. Bia đặt trên mộ. Và bia đỡ đạn.
Anh vẫn sống với nỗi buồn và sự vô nghĩa. Tôi nói với Hằng.
Chẳng phải là anh vẫn nói với em phải chống lại sự vô nghĩa sao?
Chống lại sự vô nghĩa không có nghĩa là sẽ có nghĩa hơn.
Thế thì tại sao anh lại để cho em chết?
Anh muốn em thuộc về anh. Yêu anh. Ở trong anh. Nhưng xem ra thực tế, điều ấy đã trở nên bất khả.
Ngày 16.3.2004. Tôi nói với Lý Công Uẩn: Còn có một người cần phải nhặt xác về, thưa hoàng thượng.
Nó chết chưa?
Xem như đã chết.
Nó là ai?
Linh mục Giuse.
Nó là linh mục thì để Chúa của nó đón, bận gì đến ta.
Ông ấy đã bị Chúa khước từ, không thể lên thiên đàng nhưng cũng không thể xuống địa ngục. Cần phải có một chỗ cho ông ta.
Nó đã làm gì nên nỗi?
Thưa hoàng thượng, trước 1975, ông ấy chống Mỹ cứu nước. Sau 1975, ông ấy chống Cộng cứu dân. Nhưng không có dân nước nào cứu ông ấy.
Ngày 30.4.1975. Cơn mưa đầu mùa không lớn nhưng cũng đủ làm cho bầu trời vốn vàng bủng vữa ra những mảng xanh đỏ, xốp và có mùi khói súng. Cha Giuse ngửa mặt nhìn đám mây, thầm nghĩ: Thế là mọi sự đã hoàn tất. Ngài cởi áo linh mục đặt trên bàn thánh, nói: Lạy Chúa, con là kẻ có tội. Chúa đã chọn con, nhưng con lại chọn thế gian. Máu của con người không phải máu hằng sống nhưng con người vẫn tìm vinh quang bằng máu. Con đã đi hết con đường của mình, và ở cuối con đường ấy con lạc mất Chúa. Chúa có bỏ mặc đàn chiên giữa bầy sói để đi tìm một mình con không?

1.5.2004
 Tài liệu tham khảo:
Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược (NXB Văn Hóa Thông Tin, 1999).
Frank Snepp, Cuộc tháo chạy tán loạn (NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2000).
Bài nói chuyện của nhà văn Sơn Tùng tại Trường Cán bộ Quản lý Giáo dục Hà Nội, ngày 11-4-2001.


Nguồn: tienve.org

No comments:

Post a Comment