ĐÔNG DƯƠNG ĐI, 2007
SAPA
Rời khách sạn trong khu phố cổ Hà Nội lúc 8 giờ 45 tối. Xe công ty du lịch đậu ngoài Bờ Hồ, tay hướng dẫn trẻ tuổi đi bộ vào dẫn ra. Trên xe đầy khách Tây, tất cả đều đi thành cặp.
Cabin đã đóng cửa, máy lạnh dần đủ mát, nhưng không ngủ được. Áp mình xuống tấm nệm mỏng, có thể cảm nhận được độ nghiêng của con tàu qua những khúc quanh. Nhân viên trên tàu đi lại ngoài hành lang nói chuyện văng vẳng, cũng hay nói đéo, có thể vì đa phần khách trong toa là dân ngoại quốc. Gần một giờ sáng, ra khỏi phòng, đi dọc hành lang hẹp từ đầu đến cuối tàu. Tàu gồm mười toa khách, tất cả đều giường nằm, không có toa nhà ăn, thay vào đó một nhân viên đẩy chiếc xe nhỏ đi dọc tàu bán nước suối, thuốc lá, bánh kẹo. Những toa đầu ốp gỗ, mỗi toa gồm bảy cabin máy lạnh, mỗi cabin bốn giường nệm hai tầng. Những toa cuối tường nhựa xanh, mỗi cabin gồm sáu giường trải chiếu xếp thành ba tầng, và thay cho máy lạnh là hai cửa sổ song sắt mở ra hành lang. Vài cabin còn sáng đèn, đàn ông cởi trần ngồi uống trà hút thuốc, đàn bà nằm tay vắt trán co chân cố giữ chút riêng tư. Cầu tiêu trên tàu gồm ba loại. Loại thứ nhất bồn nhựa trắng, có nước bên dưới, như trong khách sạn. Loại thứ hai bằng kim loại, không có nước bên dưới, kiểu bồn cầu trên máy bay. Loại thứ ba cũng kim loại, nhưng ngồi chồm hổm, và không có nước bên dưới, đi xong dận lên bàn đạp gần chỗ để chân, nước xòe ra khá mạnh. So với những phòng vệ sinh phân lan ra tận cửa trên những chuyến tàu cách đây mười mấy năm, tàu này quá sạch.
Bên ngoài trời tối đen, tàu chạy tốc độ vừa phải, thỉnh thoảng dừng năm mười phút ở những ga hiu hắt. Ở một ga, tàu dừng khá lâu, ra cửa toa hỏi người nhân viên đang đứng dưới đất, anh ta nói đây là ga Yên Bái. A, Yên Bái, nơi Nguyễn Thái Học khởi nghĩa, những đoàn tàu chở tù chính trị thời Pháp thuộc, những đoàn tàu chở sĩ quan miền Nam cải tạo năm 1975, đã dừng lại hoặc ngang qua đây. Lịch sử và xương máu. Nhà ga cũ kỹ, tường thấm nước mưa đen xỉn, hai cửa sổ không song sắt toang hoác trong ánh điện vàng ệch, bên trong chỏng trơ chiếc bàn gỗ lớn. Trên nền xi măng giữa hai tuyến đường ray, vài người đàn ông đàn bà ngồi chồm hổm trong bóng tối lờ nhờ, không hiểu buôn bán gì vào giờ hôm khuya khoắt. Tiếng loa phóng thanh văng vẳng thông báo một đoàn tàu đang tiến vào ga. Tàu xuôi xuống từ Lào Cai, lướt qua với đầu máy nặng nề, hai toa nằm mang bảng hiệu Victoria Resort, vài toa giường chiếu, rồi những toa ngồi. Hai toa của Victoria Resort cabin ốp gỗ, rèm nhung đỏ sậm, đèn vàng dịu sang trọng. Những toa nghế ngồi thắp đèn trắng, cửa sổ không rèm, khách ngoẹo đầu ngủ, vài người ở trần, nhiều người đứng dậy chuẩn bị xuống ga. Tàu dừng lại, nhìn sang toa đối diện thấy một cô khoảng ba mươi dáng cao mặt đẹp đang đứng loay hoay trong phòng nhỏ sáng điện. Cửa sổ kính rộng nên thấy cô đến quá nửa người. Bỗng cô ta mở dây kéo quần ngồi thụp xuống chỉ còn nhô phần đầu. Thì ra cô đang trong phòng vệ sinh. Sau một lúc cô đứng lên kéo dây quần rồi bước ra khỏi phòng, dập cửa sau lưng. Từ đầu đến cuối cô không một lần hướng mặt ra ngoài, nơi những nhân viên hỏa xa đang đứng ngồi lố nhố dưới đất. Đứng ở cửa toa tàu bên này, tôi vô tình nhìn thấy khoảng khắc riêng tư của người đàn bà hiện ra như trên màn ảnh trong một rạp chiếu phim, đèn tắt và người ta mơ mộng trong bóng tối. Tôi hỏi người nhân viên đang ngồi chồm hổm hút thuốc tốc độ tàu bao nhiêu. Anh ta nói khoảng năm sáu mươi cây số giờ. Rồi như để biện hộ, anh nói thêm: “tốc độ thế là chậm so với tàu ‘các nước tiên tiến’, nhưng thế giới họ xây tường hai bên đường ray, còn ở ta trâu bò cứ thả rong trước mũi tàu”.
Tàu chuyển bánh chạy qua rìa thị xã, thoáng thấy con đường không bóng người trong sương loãng đùng đục, vườn hoa nhỏ với tượng đài công nông binh lôi thôi kiểu thường thấy trên khắp nước Việt
Năm giờ, trời dần sáng. Tàu lên cao, chậm lại nhưng vững chãi. Rừng xanh mướt, thưa thớt vài thửa ruộng bậc thang. Suốt đêm tôi lang thang ngoài hành lang, cổ họng hơi đau, bỏ thuốc lá đã năm năm nhưng mỗi lần đi xa lại hút chút đỉnh. Tôi bước vào khoảng nối giữa hai toa. Trong đó, đang đứng một người đàn ông độ năm mươi tay cầm ống thuốc lào dài cả thước, ống thuốc lào vĩ đại nhất tôi từng thấy trong đời. Nhưng thay vì thuốc lào, ông ta dựng vào lỗ nõ điếu thuốc lá đã ngắt bỏ đầu lọc, châm lửa hít những hơi dài, má hóp lại, mắt nhắm nghiền. Đầu điếu thuốc nhọn đỏ nhanh chóng lụi tàn. Nhận ra tôi đang quan sát, ông mỉm cười đưa bao thuốc màu đỏ mời tôi. Thuốc lá Trung Quốc hiệu Yun Yao, nặng cỡ thuốc Camel. Thêm một người đàn ông mặt ngái ngủ tóc tai bù xù bước vào chỗ chúng tôi im lặng cầm lấy điếu cày từ tay ông thứ nhất. Ông này cao thủ hơn, rít liên tục hai điếu chỉ trong khoảng một phút. Hai người đàn ông nói tiếng Hoa, tôi đoán họ đang trên đường về lại Trung Quốc qua cửa khẩu Lào Cai. Họ có vẻ nông dân hay người tỉnh nhỏ, nhìn họ liên tưởng ngay đến màu đỏ chói của người Tàu, đến đám đông năng động và không ngừng sinh sản. Khoảng không hẹp lập tức đặc khói thuốc, tôi quay vào toa.
Loa thông báo sắp đến ga Lào Cai. Ba hành khách cùng cabin với tôi đã thức dậy, thu xếp đồ đạc, mang giầy.
Ngoài cửa ga Lào Cai, người của các công ty du lịch cầm bảng đứng đón khách. Mới năm giờ rưỡi sáng Lào Cai đã nóng bức, nóng hơn Hà Nội. Chiếc xe hai mươi chỗ ngồi mới nhưng ngột ngạt hơi người. Đường từ Lào Cai lên Sapa tráng nhựa tốt, hẹp và ngoằn ngoèo. Núi chập chùng, ruộng bậc thang vạc vào đỉnh đồi tròn như những nếp nhăn trên trán hói khổng lồ. Phụ nữ Dao áo quần đen khăn quấn đầu đỏ rực đi từng nhóm thong thả, trâu bò nép vào vệ đường, trẻ con lem luốc ngồi trước hiên nhà, những con chó lim dim trong nắng sớm, chiếc xe gắn máy Liên Xô lấm bùn dựng trên chân chống cao, hàng quán bày những chai nước giải khát nhiều màu. Khung cảnh xanh tươi và trầm tĩnh. Mất gần một tiếng mới đi hết đoạn đường chỉ ba mươi tám cây số.
Sapa không có vẻ thơ mộng của Đà Lạt. Rất ít thông trong trung tâm thành phố, hoàn toàn vắng bóng những kiến trúc thuộc địa, ngoại trừ ngôi nhà thờ bé tí đang trùm bạt sửa chữa. Nhà Sapa phần lớn mới xây, kiến trúc lộn xộn như nhà dưới xuôi. Nhưng thiên nhiên Sapa tuyệt đẹp, hùng vĩ hơn Đà Lạt nhiều. Dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phanxipan phủ mây nằm ngay trong tầm nhìn thị xã, gần đến độ tưởng có thể đi bộ đến. Sapa đặc biệt vì những bộ quần áo nhiều màu sắc của người dân tộc. Họ lang thang suốt ngày bán hàng thổ cẩm đến khách du lịch, khác với Đà Lạt, nơi người dân tộc chỉ xuống chợ mua bán rồi về bản làng ngay.
Hai tay tiếp tân khách sạn rất trẻ, như sinh viên mới ra trường, bộ điệu quan trọng. Khi tôi đưa visa để lấy phòng, họ không chịu, đòi phải có hộ chiếu. Tôi nói đi lại trong nước tôi không mang hộ chiếu vì sợ mất, hơn nữa visa nhập cảnh do Bộ Ngoại giao Việt
Sau có dịp ngồi ở tiền sảnh, tôi kín đáo quan sát tay tiếp tân. Hắn không thể là công an, tôi nghĩ. Hắn còn quá nhiều vẻ trong sáng của một thanh niên mới lớn. Hắn có vẻ chỉ là một hỗn hợp của những giáo điều ba xu và thói hãnh tiến tỉnh lẻ. Hắn cũng như Sapa, một thị trấn heo hút bỗng tràn ngập du khách nước ngoài khiến người ta ảo tưởng đã nhìn thấy thế giới nhưng cùng lúc nhận ra mình không thể đi ra khỏi sự bủa vây của núi non trùng điệp. Người ta cảm thấy quan trọng trong tư thế chủ nhà nhưng cùng lúc khó chịu nhận ra mình đang phải phục dịch những kẻ lạ rủng rỉnh.
Phòng khách sạn không máy lạnh, có vẻ người ta quá tự tin vào thời tiết của Sapa. Nhưng bây giờ tháng Sáu, nóng bứt rứt. Đồ đạc trong khách sạn toàn hàng Trung Quốc, loại hàng nội địa in chữ Tàu đỏ choét. Ở đây gần Trung Quốc, ảnh hưởng của Tàu dĩ nhiên đậm. Ở Hà Nội, ảnh hưởng của Tàu cũng rõ rệt hơn trong
Sau khi nhận phòng, khách chia thành từng nhóm nhỏ, bắt đầu đi xem cảnh. Cô hướng dẫn viên người Dao mặc áo dài đen sợi thô dệt hoa văn dài đến gối, ống chân quấn xà cạp, mang giầy vải Trung Quốc, nhưng đội nón vải kiểu đi rừng lính Mỹ. Cô tên M., hai mươi tuổi, người nhỏ nhắn, mắt xếch, khuôn mặt xinh xắn, thân thiện. Cô cho biết chỉ học đến lớp chín, trước đây cũng bám chân khách du lịch bán hàng thổ cẩm như mấy đứa trẻ trước khách sạn, nhưng nhờ vậy tự học được tiếng Anh đủ làm hướng dẫn viên du lịch. Ngày hôm sau tôi đi thăm Hàm Rồng với một hướng dẫn viên nam người H’mong hai mươi lăm tuổi. Anh này cho biết đã từng đi bộ đội, về học trung cấp sửa máy nhưng không sống được, bỏ đi làm phụ bếp trong một khách sạn, gặp cô quản lý người Úc tốt bụng dậy cho tiếng Anh, nên giờ làm được hướng dẫn viễn du lịch. Anh cho biết thỉnh thoảng cô người Úc, bây giờ đã về Sài Gòn dạy học, vẫn lên thăm và cho sách vở. Trong một thời gian ngắn có vẻ khách du lịch nước ngoài đã tác động lên đời sống của người dân tộc ở Sapa nhiều hơn mấy chục năm "tận tình chăm lo" của nhà nước. Những hướng dẫn viễn du lịch người dân tộc tôi gặp ở Sapa đều có vẻ nhanh nhẹn và cư xử rất tự trọng.
Đoàn gồm một cặp người Anh, một cặp Tây Ban Nha, hai chị em người Đức, và tôi. Chúng tôi vào bản người H’mong gần thị xã. Nói gần nhưng cũng phải đi bộ mấy cây số đường đồi dốc dưới cái nắng nung người, mặt và cổ tôi bị lột da cả tuần sau chưa khỏi. Trước lúc đi, người ở Hà Nội nói với tôi về Sapa như một chỗ trốn nắng, tôi cũng tưởng vậy. Thật ra mùa hè ở Sapa còn nóng hơn dưới đồng bằng, không dịu như mùa hè Đà Lạt.
Chúng tôi đi xuyên qua ngôi làng của người H’mong bằng con đường bậc thang xi măng dẫn thẳng xuống thung lũng, bên cạnh con mương nhỏ chảy thứ nước xanh lè nồng nặc mùi phân súc vật. Vào thăm một ngôi nhà ẩm thấp, chật chội, trên bàn ăn bừa bộn chén đũa, nồi cơm không đậy nắp trơ vài hạt khô dưới đáy, chảo cám heo ám khói, chỗ nấu ăn lầy lội, quần áo cũ treo đầy góc nhà. M. cho biết nhà này gồm mười lăm người, ban đêm chỉ đủ chỗ cho vài người ngủ trên gác lửng, cũng là nơi chứa lương thực, còn lại trải chiếu nằm dưới đất. Một bé gái khoảng sáu tuổi ôm đứa em ngồi bán những tấm vải thổ cẩm trước hiên nhà. Cạnh đó, đứa em trai khác nằm ngủ ngon lành trên hai chiếc ghế nhựa nhỏ đâu lại, chỉ cần trở mình là cả người và ghế sẽ đổ kềnh.
Ngày xưa đọc những truyện vùng núi tôi cứ hình dung đời sống người H’mong khá thơ mộng: ở trên núi cao mát mẻ, ăn xôi, thịt rừng nướng, hút thuốc phiện, uống rượu, thổi khèn, ngày chợ phiên trai gái múa xòe. Bây giờ đầu thể kỷ hai mươi mốt mà một bản du lịch người H’mong vẫn rách nát thế này, không biết ở những chỗ xa xôi đời sống của họ ra sao. Điều lạ là đi suốt bản không gặp người đàn ông nào, chỉ vài phụ nữ và rất nhiều trẻ con. Tất cả những đứa trẻ đều trần truồng hoặc khoác manh áo ngắn cũn cỡn. Những đứa trẻ không cần đến nhà cầu, khi bài tiết chỉ đứng dạng chân ra rồi tiếp tục chạy chơi như gà lợn thả rông.
Chúng tôi dừng chân ở thác Cát Cát. Nắng quá, tôi vào ngồi trong quán nhỏ bán nước giải khát. Đầu băng ghế gỗ dài, một thanh niên địa phương chụp hình dạo mặc quần tây, sơ mi dài tay, giầy da đen, ngồi rất nghiêm và hơi e thẹn. Tất cả du khách đều có máy ảnh. Nghề chụp hình ngày càng khó sống ở Việt
Từ bản người H’mong trở về thị xã, chúng tôi đi đường khác, nhưng cũng nhiều đồi dốc. Cạnh một trạm gác đường, toán xe ôm đang đứng đợi để chở những người không đủ sức tiếp tục cuốc bộ. Nhưng đám du khách vẫn bước đi không tỏ chút mệt nhọc. Những người chạy xe ôm rà rà theo nài nỉ bằng vài từ tiếng Anh cụt lủn. Một người lái xe ôm chỉ tôi: "Hỏi thằng Nhật này xem nào”, “Hello, motobike, motobike?" Một người khác nói: “Nhật gì, Việt
Về lại khách sạn, cơm trưa xong, kêu xe ôm xuống khu Cầu Mây cách trung tâm thị xã mười hai cây số. Tay lái xe khoảng ba mươi, người xương xương, nói chuyện hay dùng cụm từ "mất quan điểm": "Bọn nó ra giá với anh thế thì mất quan điểm thật”, “Bọn xe du lịch là cứ phóng mất quan điểm như thế". Ở chợ Sapa, tôi mua một quần soọc, tay bán hàng trẻ tuổi luôn miệng dùng từ "chất": "Vải này chất xịn anh ạ”, “Hàng này chất mát”, “Anh em mình chất thanh niên với nhau, em không nói thách". Tôi khoái nhất câu tâng bốc này của hắn: "Chất bác mặc quần này vào câu đít lên rất đẹp". Ở Việt
Từ mặt đường, thung lũng Cầu Mây hiện ra tuyệt đẹp với trùng trùng ruộng bậc thang và những ngôi nhà nhỏ nằm rải rác giữa màu xanh ngô lúa. Khung cảnh hoàn hảo như một tấm bưu thiếp. Và tuyệt đối yên tĩnh. Đây là nơi để ngủ một giấc dài, thức dậy nhìn nắng chiều loãng ra trên núi đồi.
Từ Cầu Mây đi thêm vài cây số nữa đến Bãi Đá cổ, nơi có các khối đá khắc hình vẽ của người xưa. Có thể nhận ra những vạch ngang mô tả ruộng bậc thang, những mô típ hình tròn, và dường như một loại ký tự. Năm 1925 người ta đếm được khoảng hai trăm tảng đá cổ ở khu vực này, nay phần lớn đã bị di dời, vùi lấp. Ba bốn tảng đá lớn còn lại nằm giữa ruộng lúa xanh, xung quanh có hàng rào, cách nhau vài trăm mét. Năm đứa bé người dân tộc khoảng năm đến tám tuổi cầm những chiếc vòng đeo tay dệt bằng chỉ màu lẽo đẽo chạy theo, đều đều lặp đi lặp lại một câu duy nhất, giọng lơ lớ như đọc kinh: "Mua cái này cho cháu, không mua thì cho tiền, một đứa hai nghìn đồng". Đứa trai bé nhất không mở miệng nhưng bám tôi rất sát. Nó chạy cật lực, mỗi lần vấp ngã trên đường ruộng mấp mô lại lập tức đứng dậy nhìn tôi bằng đôi mắt mở to, mũi dãi thò lò. Có ít tiền lẻ, tôi định đưa mỗi đứa vài ngàn. Nhưng tôi nghĩ ra cách hay hơn. Tôi đưa tờ năm mươi ngàn cho đứa lớn nhất, bảo chia ra. Lập tức cả bọn dừng lại chí chóe cãi nhau, rồi áp tải đứa cầm tiền đi ngược lên quán nước trên mặt đường đổi tiền. Tôi hoàn toàn thoát nạn. Đây là một áp dụng của phương pháp chia để trị rất “đỉnh cao trí tuệ”.
Quay lại thị xã, tay xe ôm gạ tôi đi ngược tiếp lên Thác Bạc. Mười mấy cây số đến thác như cực hình. Con đường liên tỉnh đi Lai Châu nát bấy, bụi đỏ mù trời, vài đoạn đang được lề mề sửa chữa.
Từ thác Bạc đi thêm vài cây số đến Cổng Trời. Đoạn đường này vắng và tương đối còn tốt, rừng xanh tươi, không khí lên cao mát lạnh. Tôi hơi thất vọng vì Cổng Trời không phải cổng gì cả, đơn giản chỉ là điểm cao nhất trên đoạn đường đèo đi Lai Châu. Hy vọng tay lái xe nói thật. Chúng tôi tấp xe vào vệ đường cạnh một quán lợp tôn sơ sài, nơi mấy người đàn ông đội nón cối đang ngồi tán chuyện với bà chủ quán. Xung quanh hoàn toàn không nhà cửa. Con đường đèo liên tỉnh uốn lượn phía dưới với chiếc xe khách nhìn từ trên cao như món đồ chơi đang bò chậm chạp quanh sườn núi trong ánh nắng vàng thẫm của ngày sắp tàn.
Buổi tối đi bộ ra phố. Quảng trường thị xã hình lòng chảo đào sâu khoảng một thước, tù mù. Quanh miệng lòng chảo, đầy những người bán bắp nướng, xe ôm, những người đàn bà dân tộc bày hàng thổ cẩm trên tấm khăn nhỏ trải trên đất. Con phố chính gồm nhiều tiệm bán đồ lưu niệm khá sáng sủa, trưng bày những mặt hàng na ná nhau. Một người đàn ông H’mong ngồi thổi khèn bên đường, không thấy ai dừng lại. Đi lên đi xuống vài vòng, tôi ghé vào một bar rượu có cái tên ngồ ngộ: "Tàu Bar". Viết theo kiểu Việt
Quán vắng. Một nhóm vài đứa Mỹ khoảng mười chín hai mươi đang ồn ào chơi bi-da. Tôi là người duy nhất ngồi ở quày. Một đứa con gái trong bọn bước đến chỉ vào bao Marlboro của tôi hỏi mua lại một điếu thuốc. Tôi đưa nó hai điếu. Tường quán rượu trang trí những hình sơn xịt graffiti và dán những tờ giấy bạc nước ngoài. Đồ đạc duy nhất đẹp trong bar là súc gỗ lim mỗi cạnh ba tấc, dài hơn chục thước dùng làm quày rượu. Khúc gỗ đồ sộ, đen bóng, rắn như thép, gõ vào cảm thấy rất bất lực, chỉ muốn cúi xuống cắn cho ê ẩm răng. Nhạc chơi từ một computer để gần quày, khách có thể sử dụng con chuột hàng Trung Quốc chớp nháy lòe loẹt tự chọn bài. Hai anh em tay chủ quán rất trẻ, đầu đinh, ít nói, thay nhau đi lòng vòng bắt muỗi bằng chiếc vợt điện. Mỗi lần quơ vợt, những tia lửa xanh lè bắn ra kêu lách tách. Một phát minh tân kỳ của Trung Hoa vĩ đại.
Ngồi một lúc, thêm hai khách nước ngoài bước vào. Một tên thấp đậm mặc quần soọc, áo thun ba lỗ, đầu đội chiếc mũ công an mới toanh gắn ngôi sao đỏ chóe. Hắn ngồi xuống cạnh tôi, đặt bàn tay to bè đầy những sợi lông bạc lên mũ, quát bằng giọng Ái Nhĩ Lan nặng chịch, ra lệnh chủ quán đóng cửa tiệm. Chủ và khách phá lên cười khoái trá. Hắn rút từ túi quần một tờ giấy bạc nước ngoài tặng chủ quán. Chủ quán dán ngay lên tường. Tôi hỏi tiền gì vậy, hắn nói tiền riyal của Ả Rập Saudi.
Kệ rượu trước mặt quá thưa chỉ với ba mươi tám chai. Đúng ba mươi tám chai. Tôi đếm từ trái qua phải, rồi từ phải qua trái. Một con thằn lằn xuất hiện trên tường, nó sẽ bắt muỗi hiệu quả và đỡ thô tục hơn chiếc vợt điện Trung Quốc, tôi nghĩ.
LÀO
Rời Hà Nội 6 giờ sáng đi Vientiane. Máy bay mở cửa đúng giờ nhưng cất cánh trễ hơn hai mươi phút vì đợi mấy ông khách quan trọng. Mấy ông mặc đồ vét, xách cặp da, thong thả bước xuống xe chạy đến tận thang máy bay. Đến
9 giờ 30, sân bay Wattay mưa lớn, nhân viên hàng không ôm bó dù ra chân thang phát cho khách. Khách đi bộ vào nhà ga cách đó khoảng năm mươi thước. Wattay có lẽ là “sân bay quốc tế” nhỏ và vắng nhất thế giới. Trong căn phòng với dăm hàng ghế nhựa và chiếc tivi mười lăm inch treo trên góc, chỉ vài người nước ngoài xếp hàng làm visa nhập cảnh. Visa mất 34 đô la. Mươi nhân viên hải quan và công an ngồi thành hàng sau quầy chuyền tay nhau giấy tờ của khách, trông họ không đến nỗi hống hách nhưng cũng không niềm nở. Sân bay sơ sài, sạch sẽ, có không khí của một cửa hàng ăn uống quốc doanh ế ẩm ở Việt
Khách sạn kiểu “boutique” có ban công nhìn ra sông
Bên kia bờ
Vật giá
Buổi tối tay lái xe tuk tuk trước khách sạn chở đến một tiệm disco lớn. Bên trong nam thanh niên ăn mặc chải chuốt nhưng ngồi im, các cô gái trẻ đứng thành vòng quanh những chiếc bàn không ghế uống beer Lào, nhún nhảy vụng về và cười lớn với nhau như để che giấu vẻ thiếu tự nhiên. Khung cảnh như vào đầu một đêm hội lớn ở quê: rượu, nhạc, và đống lửa ở giữa, nhưng mọi người chỉ đứng quanh đùn đẩy nhau e ngại. Đó cũng là cảm giác của tôi về Vientiane, nơi những tòa nhà cao tầng đang xây, thẻ tín dụng bắt đầu được dùng, xe hơi nhiều trên đường phố, nhưng mọi sự vẫn chậm rãi, rời rạc.
Vào một bar khác, nhưng mới ngồi mười phút đã đến giờ đóng cửa, đèn bật sáng, từ những bàn salon đứng lên vài người khách Đại Hàn với những cô gái Lào đánh quá nhiều phấn hồng. Nhân viên bar chỉ lên lầu hay vào trong gì đó nói có chỗ uống tiếp. Nhưng tôi chán, ra kêu tay tuk tuk nãy giờ vẫn đợi bên ngoài chở đi lòng vòng.
Sáng dậy trời mưa lớn, sông
Chùa ở
Cổng Chiến thắng của
Luang Phrabang cách
Khu sân bay nội địa
Trong phòng đợi gắn máy lạnh, một ông Việt
Nằm giữa hai con sông
Thuyền chạy giữa dòng, xuôi hướng
Từ Luang Prabang đi ngược dòng
Hang Pak Ou nằm bên kia bờ
Trên đường về lại Luang Prabang, ghé vào khu cỡi voi. Lần đầu tiên cỡi voi, rất thất vọng. Voi to lớn nên mỗi bước đi thân hình dao động mạnh, ngồi bên trên chẳng êm ái chút nào. Đường rừng hẹp, lầy lội, nhiều muỗi và ruồi vàng. Những con voi bướng bỉnh đi mươi bước lại dừng chân gặm phá bất chấp tiếng quát tháo của người nài. Chúng liên tục đánh rắm và thải lộp bộp những bãi phân khổng lồ, dương vật trắng bợt điểm chấm đen dài cả thước đong đưa, tồ tồ xả nước. Đám du khách nhe răng cười. Tôi ngồi chung bành với một cô Tây Ban Nha làm việc ở Hà Nội, hơi ngạc nhiên khi biết một quốc gia không lấy gì làm giàu có như Tây Ban Nha cũng viện trợ cho Việt Nam. Câu chuyện về Việt
Con phố chính của Luang Phrabang hẹp, nhiều tiệm ăn nhỏ, tiệm bán đồ lưu niệm, văn phòng du lịch. Tất cả các bảng hiệu đều bằng gỗ và không sơn, theo quy định chung nhằm giữ vẻ cổ kính cho thành phố. Trời mưa lớn, tôi ngồi ăn bữa trưa trước khi về lại
Trong quán, bàn trước mặt tôi, hai cô gái người Âu ngồi tránh mưa không gọi thức ăn chỉ uống nước. Một cô mở ba lô lấy máy ảnh liên tục chụp đám cưới. Con phố hẹp bề ngang chỉ vài thước nên những người đàn ông trong bàn tiệc nhanh chóng nhận ra mình đang bị chụp hình, bắt đầu mất tự nhiên thấy rõ. Họ ngọ nguậy sửa dáng ngồi, nói cười ngượng nghịu, cử động dè xẻn, dù làm ra vẻ không để ý người chụp hình. Cô Tây vẫn tiếp tục bấm máy, xong mỗi bức lại dấm dúi khoe màn hình với bạn, thậm thụt cười nói, thái độ như người xẻ thịt chuột, vừa sợ đứt tay, vừa trắng trợn làm tới.
Tôi tự hỏi một người Lào du lịch sang châu Âu liệu có dám chĩa máy vào mặt những người đang ăn uống chụp hết tấm này sang tấm khác mà không cần xin phép như vậy không. Sau hàng thế kỷ bị cô lập, phải chăng sau cùng những dân tộc nghèo như người Lào đang được phép “hội nhập” với thế giới bằng cách làm người mẫu không công cho những bức hình du lịch của kẻ khác. Hình ảnh của họ sẽ được mang đi khắp bốn phương, trưng ra trước những con mắt xa lạ, như bầy chim sẻ trên dây điện, không tên tuổi căn cước cá nhân. Và như vậy họ cũng đã “ra biển lớn” rồi, theo cái cách của những món hàng lưu niệm.
Trời vẫn mưa lớn, nhưng tôi đứng dậy rời quán.
NHẬT KÝ PHNOM PENH
Rời
Đến
Tôi ra khỏi phi trường lòng vô cùng ngao ngán. Thêm một bài học du lịch: ở những phi trường có khả năng bị làm tiền, đừng bao giờ đi rớt lại một mình. Tuy vậy, có thể tôi bị làm tiền vì là người Việt
Từ Vientiane sang
Ngày…
Hôm nay đi công việc, mướn nguyên chiếc xe có máy lạnh cả ngày chỉ tốn ba mươi đô, do một người quen địa phương giới thiệu. Người tài xế trẻ, nhã nhặn. Ăn trưa với anh ta trong một quán bán thức ăn địa phương nằm trong con hẻm lớn, khách phần lớn là dân ngoại quốc làm việc hoặc ở đây lâu. Chiều ra bưu điện gởi sách. Bưu điện không bán thùng, nhân viên nhặt hai thùng mì cũ bỏ sách vào. Sáu người đàn bà loay hoay bàn tán, vịn đỡ mãi mới xong việc. Bưu điện của Lào cũng tương tự, nhưng hiền hơn, nói ít tiếng Anh hơn.
Tám giờ tối, không biết lễ gì mà bắn pháo bông, có lẽ từ phía chợ trung tâm, chỉ cách khách sạn một khoảng ngắn nên tiếng pháo nghe như tiếng lựu đạn. Trên đường phố, thỉnh thoảng thấy những băng rôn căng dòng chữ "Say no to weapons" (Nói không với vũ khí). Súng đạn vẫn còn nhiều ở Campuchia, những nhân vật tai to mặt lớn và đại gia đều có cận vệ mang vũ khí.
Ngày…
Buổi sáng đi xe ôm đến Wat Botum. Wat được xây lần đầu năm 1422 nhưng đã trải qua nhiều lần dựng lại, lần cuối vào năm 1937. Wat vắng tanh, bao quanh bởi hàng rào song sắt cao, cổng khóa, như cố chống lại sự xâm lấn của những nhà dân sống sát bên. Ngôi đền quét vôi mới màu hồng, cơm nguội và quần áo phơi trong sân. Đối diện với đền là một công viên lớn cây cối xơ xác, bên trong đổ những đống rác lớn, mấy đứa trẻ cởi trần gầy còm đang loi nhoi bươi móc. Cạnh đó, người lớn nằm ngồi và nấu nướng trong những căn lều xiêu vẹo. Tôi đoán ông xe ôm đã đi nhầm chỗ. Đây là ông lù khù nói ở trên. Ông không biết chút tiếng Anh nào, chỉ OK, OK và đoán mò, nên thường bị đám thanh niên đồng nghiệp chế giễu mỗi khi cố chào mời tôi đi xe. Nhưng chính vì vậy, thỉnh thoảng tôi thấy có bổn phận phải đi với ông. Tôi đi chơi, có lạc cũng là dịp để thấy thêm thành phố, chỉ cần ông lái xe biết đường chở tôi về lại khách sạn là được.
Đi thêm hai cây số về phía Bắc đến Wat Phnom, ngồi đền quan trọng nhất thành phố. Đền đông khách địa phương và tràn ngập người bán hàng rong, bán từ bưu ảnh đến nhang đèn, chim phóng sinh đến hột vịn lộn, bông vạn thọ đến cóc ổi ngâm chua. Người lớn ngồi bán hàng dưới đất, trẻ con nài nỉ bám theo. Một con voi cho du khách trả tiền leo lên chụp hình mang trên lưng chiếc ghế ngồi đỏ chói, chân xiềng vào gốc cây. Bốn chân voi mang "giày" cắt ra từ lốp xe, có lẽ để khỏi giẫm lầy lội khuôn viên và đi trên đường nhựa cho được êm. Nhìn "giầy" của voi không khỏi liên tưởng đến những đôi dép lốp các anh "giải phóng quân" mang vào miền
Rời đền ra khu bờ sông ngay trung tâm thành phố chụp vài tấm hình. Đoạn sông rất rộng, là nơi giao nhau của ba con sông Tonle Sap,
Dọc bờ sông là khu du lịch với nhiều hàng quán và khách sạn trung bình, đi thêm một đoạn sẽ thấy những khách sạn sang trọng nằm sâu trong khuôn viên rộng rãi, xe cộ choáng lộn đậu phía trước. Tòa nhà Bộ Ngoại giao đồ sộ mái cao vút kiểu kiến trúc Khmer truyền thống và Văn phòng Quốc hội mới xây cũng cạnh đó. Sau lưng khu dinh thự chính phủ là một chung cư bốn tầng cũ với những căn hộ vỡ toác trồi ra thụt vào, cốt thép lòi tua tủa, tường đen xỉn. Toà nhà như mụn nhọt lở loét trên lưng một cô gái mặt đẹp. Dân chúng họp chợ buôn bán ngay trên mảnh đất lầy lội ngập rác trước chung cư.
Chiều đến Bảo tàng Diệt chủng Tuol Sleng. Từ 1975 đến 1978, chế độ Khmer Đỏ đã giam khoảng mười ngàn năm trăm người trong nhà tù này, tất cả sau đó đều bị giết. Tuol Sleng trước 1975 là một trường trung học ba tầng lầu được Khmer Đỏ biến thành trại giam với bí danh S21. Những phòng học trên tầng ba được chia thành xà lim cá nhân bằng gỗ hoặc gạch ống. Những xà lim bằng gạch trông rất tởm: xi-măng trộn quá nhiều cát, vôi vữa trét lem nhem phòi ra ngoài mép gạch, khung cửa hẹp méo mó chỉ vừa người lách qua, chiếc cùm sắt rỉ sét trên nền nhà lạnh lẽo. Sự cẩu thả và xấu xí tột độ khiến nơi đây lập tức gợi ấn tượng về một thứ chuồng trại súc vật. Các phòng học thông nhau bằng những lỗ đục lởm chởm qua tường. Hành lang bên ngoài có rào kẽm gai nhằm ngăn tù nhân nhảy lầu tự tử trên đường áp giải lên xuống phòng hỏi cung. Những phòng học tầng hai và tầng một dùng làm phòng giam tập thể, tù nhân nằm xếp lớp trên sàn, chân cùm chung vào thanh sắt dài, mỗi phòng có một thùng sắt đạn đại liên dùng tiêu tiểu. Tù nhân khi vào S21 đều được chụp ảnh làm lý lịch, những tấm ảnh còn nguyên trong tủ đựng hồ sơ khi Khmer Đỏ tháo chạy. Nhiều ảnh phụ nữ bồng con nhỏ, những đứa bé không biết chúng đang sống trong địa ngục, rất nhiều nạn nhân thiếu niên. Đội quân cai ngục phần lớn cũng là những thiếu niên được nhồi sọ và huấn luyện thành những tiểu quỷ có khả năng tra tấn tù nhân bằng đủ ngón tàn bạo chỉ với vài dụng cụ thô sơ như gậy gộc, lu nước, kềm búa, đinh, bình điện. Để hành hạ con người, không cần nhiều phát minh. Nhà tù này thực sự là một lò mổ, tệ hơn lò mổ ở chỗ nạn nhân không được yên thân chờ đến ngày bị hóa kiếp, cách giết cũng không được gọn gàng như thọc huyết lợn.
Triển lãm cũng gồm một số ảnh cai ngục S21 chụp sau này, thấy họ chỉ như những nông dân lam lũ. Điều đáng nói là trong số cai ngục chịu cho chụp hình và phỏng vấn, không mấy người tỏ ra hối hận về các tội ác của họ. Tất cả đều biện hộ chỉ làm theo lệnh cấp trên. Dưới thời Pol Pot, trường học hoàn toàn bị phá hủy, Khmer Đỏ chỉ dạy chữ cho một số thiếu niên thuộc thành phần tin cậy đủ để chúng đọc được các chỉ thị. Phần lớn lính Khmer Đỏ là nông dân mù chữ, cầm giấy tờ lộn ngược nhưng mặt mày nghiêm trọng. Khmer Đỏ không chỉ là một thể chế tàn bạo, nó còn hết sức kỳ quặc. Mà hình như thể chế độc tài nào cùng kỳ quặc. Nó thích làm bác chú cha anh thiên hạ, thích bí số K, Z, A, B, giờ G, tọa độ X, thích bí mật, âm mưu. Sự bí mật cho phép thể chế độc tài giấu mặt trong bóng tối để làm điều ác, đồng thời tạo nên một thứ uy quyền âm u ám ảnh dân chúng. Những kẻ độc tài nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, ngay trong hàng ngũ chính họ. Trong bốn năm cầm quyền, Khmer Đỏ đã thực hiện nhiều vụ giết chóc nội bộ đẫm máu, như vụ thanh trừng quân khu miền Đông năm 1978, quân khu miền Bắc năm 1977. Đại đa số tù nhân ở Tuol Sleng là cán bộ Khmer Đỏ bị nghi ngờ phản bội và thân nhân của họ. Một số người Việt cũng bị giam ở Tuol Sleng. Phần lớn người Việt ở Campuchia đã chạy về Việt
Tội ác diệt chủng của Khmer Đỏ tuy bị cả thế giới lên án, hiện vẫn chỉ được đề cập một cách ỡm ờ bởi giới cầm quyền Campuchia. Hun Sen, Thủ tướng ngồi lì của Campuchia vốn xuất thân từ Khmer Đỏ. Bản thân vua Norodom Sihanouk từng ủng hộ Khmer Đỏ trong chiến tranh, có lúc đã vào rừng ở với Khmer Đỏ một thời gian ngắn, giúp nhóm này thu phục sự ủng hộ của dân chúng, tuyển mộ được thêm hàng chục ngàn binh sĩ. Sau 1975, Sihanouk được Khmer Đỏ cho giữ chức cố vẫn bù nhìn hơn một năm, rồi bị hất ra, theo đúng bài bản của các chế độ cộng sản chiến thắng trong cách đối xứ với những thành phần cộng tác không hoàn toàn là người của họ. Sihanouk phải sang sống lưu vong ở Trung Quốc. Vì những dính líu lịch sử của cả Hun Sen lẫn Sihanouk - hai phe đang nắm quyền ở Campuchia - với Khmer Đỏ như vậy, lịch sử tội ác của chế độ này đến nay vẫn chưa được chính thức giảng dạy trong trường học Campuchia. Bên ngoài các trường phổ thông, tuy vậy, không hề có sự cấm đoán nào đối với việc nghiên cứu hay in ấn sách vở liên quan đến đề tài này.
Ngày…
Đứng ở ban công khách sạn tầng năm nhìn xuống đại lộ Monivong lúc một giờ đêm, con đường vốn đông đảo ban ngày vắng lặng hẳn. Mấy chiếc xe ôm chở gái chạy ngang qua, có chiếc đèo hai cô chân buông thõng, có lúc ba bốn chiếc kè theo hai bên hông một xe hơi “chào hàng”, mới nhìn qua tưởng các nữ cận vệ hộ tống yếu nhân, có điều áo quần hở hang quá, không biết giấu súng ở đâu. Đèn giao thông ở ngã tư vẫn đều đặn đổi màu nhưng hoàn toàn không còn hiệu lực đối với người đi đường. Quang cảnh như một đường phố Sài Gòn về khuya.
Một chiếc xe hơi loại mười hai chỗ ngồi, ở Việt
Năm 2000 lần đầu tiên tôi về Việt
Lúc đó khoảng chín giờ tối, đường phố sáng đèn và khá đông người qua lại. Những nhân viên nhà hàng hải sản cũng bước ra quan sát nhưng không ai dám can thiệp. Ba tên trấn lột nói năng càng lúc càng dữ dằn, bộ điệu loi choi như gà sắp chọi. Tôi chỉ lúng túng, thật sự không nghĩ ra phải làm gì. Đi thì không được, xô xát chắc chắn sẽ bầm dập với bốn thằng, la hét cho người đi đường bu lại có thể là cách thoát nhưng kỳ cục quá. Một thằng nói nếu tôi không đem đủ tiền, phải để nó lục túi. Cũng may, buổi tối ra khỏi khách sạn tôi chỉ mang theo đúng sáu trăm ngàn đồng, nên nghĩ, đã đến nước này thôi đành chịu mất tiền, coi như một bài học du lịch. Tôi lộn túi đưa năm trăm ngàn còn lại cho bọn nó, không ngờ thằng chủ quán nói số tiền này con thiếu, tụi nó phải theo tôi về khách sạn lấy cho đủ. Thật quái đản, tôi nghĩ, trấn lột mà dám đến tận khách sạn, có khác gì tự nộp mình cho công ăn. Tôi gật đầu, nhanh chóng leo lên xích lô. Thằng xích lô vừa đạp xe vừa vờ vĩnh phân bua như thể nó cũng là nạn nhân. Ba thằng kia chở nhau trên một xe gắn máy chạy rề rề phía sau.
Từ quán café về khách sạn tôi ở trên đường Trần Phú chỉ khoảng mười lăm phút, một khách sạn lớn nhất nhì Nha Trang thờì điểm đó, có đông nhân viên bảo vệ, đèn đuốc sáng choang. Bình thường đi một mình tôi không ở loại khách sạn như vậy, nhưng chỗ này do bạn tôi chọn. Đến trước khách sạn, bọn trấn lột dừng xe đợi bên kia đường, tôi đi nhanh vào quày tiếp tân, nói gọi cho tôi trưởng bảo vệ. Trưởng bảo vệ đến ngay, hỏi có việc gì. Tôi kể vắn tắt sự việc rồi bảo anh ta ra ngoài gặp tụi trấn lột với tôi, nhưng anh ta từ chối. Tôi nói vậy anh gọi công an cho tôi.
Ngày…
Sáng đến thăm Trung tâm Tài liệu Cambodia (Documentation Center of Cambodia), là nơi thu thập các tài liệu liên quan đến tội ác của Khmer Đỏ. Được tài trợ dồi dào bởi các tổ chức phi chính phủ ngoại quốc, trung tâm chiếm một toà nhà khá lớn ngay trong khu đẹp nhất thành phố. Không hẹn trước nên ông giám đốc đi vắng, chỉ gặp vài nhân viên trẻ. Một thanh niên dong dỏng cao, mặt rất sáng, vui vẻ giới thiệu về trung tâm. Nói chuyện một lúc nhớ ra anh ta là Khambody Ly, tác giả cuốn sách về Khmer Đỏ bằng tiếng Anh, A History of Democratic Kampuchea. Tôi có nghe phỏng vấn Ly trên đài phát thanh quốc gia NPR ở Mỹ. Cuốn sách giúp Ly được biết đến trong giới nghiên cứu về Campuchia không phải vì những phát hiện học thuật của nó - thật ra cuốn sách được viết một cách rất tổng quát - mà vì Ly là người Campuchia đầu tiên viết sách về Khmer Đỏ bằng tiếng Anh. Ly nói đang cố gắng đưa cuốn sách, sau khi dịch lại ra tiếng Khmer, trở thành một phần của chương trình giáo khoa phổ thông. Rủ Ly ra ngoài uống café nhưng anh ta nói phải đi ngay xuống tỉnh với một nhóm sinh viên Mỹ. Ly rất trẻ, sinh năm 1981, không sống dưới thời Khmer Đỏ, và cũng không phải là người được đào tạo từ trường lớp phương Tây. Một thanh niên đáng nể.
Chia tay Ly, kêu ông xe ôm chở đến Đại học Nghệ thuật Hoàng gia. Trường này gần Trung tâm Tài liệu, nhưng hôm nay đi với ông xe ôm lù khù nên cẩn thận nhờ Ly ra ngoài nói với ông ta chỗ muốn đến. Ông nói OK, OK, vậy mà lại chở ra Đại học Hoàng gia
Tối đi ăn ở một tiệm ăn Ấn Độ ngay trung tâm thành phố, cạnh tượng đài Độc lập. Sách hướng dẫn du lịch rất khen tiệm này, nói thỉnh thoảng những người trong hoàng gia cũng ra ăn ở đây. Tiệm trang trí thanh lịch, ấm cúng, ngoài hiên rộng có để mấy bàn. Toàn bộ khách là người nước ngoài. Tay thanh niên trẻ tuổi chở tôi đến quán, nói sẽ đợi, mặc dù tôi không yêu cầu. Tay này làm nghề dọn phòng trong khách sạn tôi ở, sau giờ làm việc thỉnh thoảng kiêm luôn chạy xe ôm và hướng dẫn du lịch nghiệp dư cho khách. Hắn rất dễ thương, ăn mặc sạch sẽ, xe mới, đi ngoài đường nhìn như một sinh viên. Lúc đầu có chiếc xe hơi đậu trước quán nên tôi không thấy tay thanh niên đang đợi, sau khách trong quán ra lái xe đi khỏi, mới thấy hắn đang ngồi bên kia đường. Tôi thật sự không muốn hắn phải đợi trong khi tôi đang ăn như vậy. Nhưng hắn muốn chở tôi đi vòng vòng kiếm thêm chút tiền. Những người bồi quá chậm, mất khoảng bốn mươi lăm phút để kêu đồ ăn và thêm hai mươi phút chỉ để tính tiền. Nhưng hình như chẳng ai sốt ruột, đây là một chổ ngồi dễ chịu vào buổi tối, và ở xứ này người ta có nhiều thời gian.
Ăn xong nói tay thanh niên chở đến đường 104 nơi có nhiều quán bar. Vào một quán nhỏ, đa phần khách có vẻ là dân làm việc hoặc lui tới Campuchia nhiều lần: điềm đạm, biết điều. Đến một thành phố lạ, đôi khi phải mất vài ngày mới tìm ra những chỗ như vậy, những chỗ không chặt chém kiểu một lần rồi thôi và nhất là không quá nhiều khách du lịch ồn ào. Uống nhiều bia hơn thường lệ, về nhà lúc gần một giờ sáng, người nôn nao.
Ngày…
Sáng nay đi với tay thanh niên chạy tuk tuk trước khách sạn đến Cánh đồng Chết cách trung tâm thành phố khoảng mười lăm cây số. Nơi này trước kia là vườn nhãn, giờ còn sót lại vài cây. Dưới thời Khmer Đỏ, đây là khu vực hành quyết tù nhân rồi vùi xác tại chỗ. Những hố chôn tập thể san sát nhau được khai quật phủ cỏ và xâm xấp nước mưa. Có hố chôn hơn bốn trăm phụ nữ và trẻ em trần truồng. Có hố đào lên toàn người cụt đầu. Phần lớn mỗi hố chôn hơn trăm mạng. Tù nhân từ Tuong Sleng và các nơi khác được chở đến đây trong đêm tối, bịt mắt, dẫn ra miệng hố, đập đầu bằng cuốc xẻng, gậy gộc, thậm chí cứa cổ bằng xống lá dừa nước, có khi chôn sống, sau đó rắc bột DDT để khử mùi, tránh gây nghi ngờ trong dân chúng xung quanh. DDT cũng có tác dụng kết thúc những kẻ bị thương còn ngắc ngoải. Trong vườn có một cây lớn nơi lính Khmer Đỏ quật đầu trẻ con vào trước khi ném xuống hố. Khi hành quyết, bọn đao phủ mở to loa phóng thanh treo trên cây phát những bài hát ca ngợi lãnh tụ anh minh và cuộc đời tươi đẹp, mục đích át tiếng kêu la của nạn nhân. Ngay cổng vào Cánh đồng Chết người ta xây một ngôi tháp lớn, bên trong chất hàng ngàn đầu lâu của nạn nhân. Một số quần áo của người chết cũng để trong tủ kính, bèo nhèo, tả tơi, thuần màu đen mốc. Những cái chết không chỉ đau đớn mà còn bần cùng.
Đây chỉ là một trong nhiều cánh đồng chết ở Campuchia, một số nơi người ta thôi không quật mộ tập thể lên nữa, vì chẳng biết phải làm gì với hàng chục ngàn bộ xương vô thừa nhận. Phần lớn nạn nhân của Khmer Đỏ đều bị giết cả gia đình, từ già đến trẻ sơ sinh, nhằm tiêu trừ hậu họa.
Ra khỏi Cánh đồng Chết, tay chạy tuk tuk chở đi thêm năm cây số đường lộ, rẽ vào một đường làng ngoằn ngoèo hai bên dày những bụi tre. Chúng tôi đến chỗ bắn súng. Giữa khu vườn rộng là ngôi nhà gạch đỏ, mái tôn, dưới chái hiên đặt những chiếc nghế nhựa quanh hai chiếc bàn thấp, trên tường treo năm bảy khẩu súng ngắn và tiểu liên. Vừa ngồi xuống bàn, chủ tiệm đem ngay ra "thực đơn" bọc nhựa ghi rõ giá biểu từng “món”:
· AK47 Trung Cộng: 25 viên 30 USD
· M16 Mỹ: 25 viên 30 USD
· K54 Trung Cộng: 8 viên 15 USD
· Lưu đạn: một quả 30 USD
Món đặc sản cao cấp là B40, một phát 200 USD, muốn bắn sẽ được chủ quán chở bằng xe gắn máy ra quả đồi gần đó. Phòng bắn hẹp xây bằng gạch ống, trần nhà thấp treo chỉ một bóng điện tù mù, sàn đất nện vung vãi đầy vỏ đạn, cuối phòng chất đống vỏ xe hơi cũ dùng chắn đạn.
Ở đây mọi chuyện đều vui vẻ, không gặp rắc rối như hồi vào tiệm bắn súng ở
Tiệm bắn súng là một ngôi nhà tường sơn xanh nhìn bên ngoài không có gì đặc biệt so với những ngôi nhà trong hẻm. Vào trong, thấy một tủ kính bày rất nhiều súng ngắn, tiểu liên cả chục khẩu treo trên tường. Phòng bắn ngay cạnh phòng tiếp khách, ngang bốn thước, dài chỉ khoảng hai mươi thước. Chưa kịp yêu cầu, hai thanh niên phục vụ đã đặt xuống trước mặt tôi khẩu Uzi và ba băng đạn. Loại tiểu liên Do Thái này nổi tiếng bắn nhanh, trừ phi muốn đốt tiền tôi mới đụng đến nó. Cách phục vụ có vẻ ép khách này khiến tôi hơi mất hứng. Tôi nói tôi chỉ muốn thử súng ngắn. Cái nhìn của hai thanh niên lộ ác cảm ngay, nhưng rồi họ miễn cưỡng đem khẩu Uzi đi cất, đem vào một khẩu 22 ly nhỏ xíu. Tôi chỉ bắn khoảng mươi viên, đưa súng cho anh bạn người Phi, anh ta có vẻ không thích thú lắm nhưng cũng bắn hai phát, rồi nói thôi mình về. Ra quày tính tiền, tay chủ tiệm bảo tất cả tốn gần một trăm đô la. Anh bạn Phi nói lúc mới vào đã hỏi giá, sao bây giờ khác.
Ngày…
Chiều nay đi thăm Cung điện Hoàng gia Campuchia, vé vào cửa sáu đô la. Khuôn viên cung điện chiều ngang tám trăm mét, chiều sâu năm trăm, gồm nhiều tòa nhà rất đẹp. Chính điện bắt đầu được xây năm 1866 với sự hỗ trợ của người Pháp, sau xây thêm nhiều tòa nhà phụ, gồm nơi trình diễn múa, nhà khách, văn phòng, nhà chứa nhạc cụ và cũng là nơi để vua lên xuống voi. Những tòa nhà đồ sộ nhưng thanh nhã, mái ngói vàng gối lên nhau, đầu hồi gắn tượng rắn thần Naga mềm mại, tường và các cánh cửa chạm khắc hết sức chi tiết, sống động. Về kiến trúc và điêu khắc thì người Khmer là bậc thầy, có ảnh hưởng sâu rộng lên nghệ thuật của người Thái, Lào, và Chăm. Những công trình xây dựng của người Khmer nhìn vào nhận ra ngay nét đặc thù, không như của người Việt, khó phân biệt với đồ của Tàu, ngoại trừ đặc điểm nhỏ bé và sơ sài hơn.
Làm vua, dù ở một nước lạc hậu như Campuchia vẫn sướng, thậm chí sướng hơn ở những nước phát triển, vì tuy không có tài sản nhiều, vua ở những nước lạc hậu được dân chúng rất sùng mộ, tự do hưởng thụ theo ý thích. Vua Sihanouk chẳng hạn, là người thích làm phim, mấy chục năm qua ông làm vô số phim. Khoảng hai năm gần đây, cứ vài tháng ông lại gởi tặng thư viện trường tôi qua trung gian một giáo sư chuyên về Campuchia một tác phẩm điện ảnh mới của ông. Phim của Sihanouk, thành thật mà nói, là đỉnh cao của tính cải lương và vụng về. Trước 1975 ông làm một số phim dài, quay ngoại cảnh, tận dụng phương tiện thoải mái của một ông vua đương quyền, nhưng phim cũng rất tệ. Sau sống lưu vong, phim của ông chỉ còn là những câu chuyện dài mười lăm hai mươi phút, mở đầu và chấm dứt đột ngột, quay trong những căn phòng khách sạn với vài đồ đạc đơn điệu. Những diễn viên trong phim của Sihanouk ăn mặc cực kỳ trịnh trọng, comlê cà-vạt, đầm dài đầm ngắn, đi đứng e lệ, chớp mắt cung tay, nói năng uốn éo. Có vẻ họ là những người hầu của ông hơn là những diễn viên độc lập. Phim của Sihanouk màu mè đến nỗi đôi khi tôi tự hỏi phải chăng ông đang chơi trò anti-cinema nào đó, kiểu các thi sĩ “sành điệu” chơi trò anti-poetry. Nhưng nếu vậy, ông là người đã chơi quá liều, đến nỗi sẽ không bao giờ còn tỉnh dậy nổi để đi ra khỏi trò nghệ thuật đái dầm này.
Tất cả những phim gần đây của Sihanouk đều làm ở Bắc Hàn, nơi ông được cấp một biệt thự và lui tới nghỉ ngơi nhiều năm nay. Kim Young II cũng là người mê làm phim. Các lãnh tụ dở hơi sở dĩ có ảo tưởng mình là nghệ sĩ lớn như vậy vì họ được bao quanh bởi quá nhiều kẻ nịnh bợ mang danh trí thức.
Sau khi thăm cung điện, tôi đi loanh quanh mấy con phố làm hàng mỹ nghệ bán cho khách du lịch, mọi thứ xấu xí quá mức. Có lẽ những nghệ nhân giỏi của Campuchia đã bị Khmer Đỏ giết hết rồi. Một đất nước từng xây
Mua được vài cuốn sách bằng tiếng Anh về nghệ thuật Campuchia do viện Nghệ thuật và Văn hóa Reyum in, có một cuốn nói về nghệ thuật Campuchia những năm năm mươi và sáu mươi, mà họ gọi là nghệ thuật thời kỳ độc lập. Đây là lúc đất nước thanh bình, ảnh phương Tây vào nhiều, trường mỹ thuật được mở, đô thị được quy hoạch lại, nghệ sĩ hào hứng dựng kịch, làm phim, chơi nhạc rock. Giới nghệ sĩ của Campuchia tuy không đông bằng Việt
Những kẻ phá hoại sẽ luôn kết thúc như những kẻ phá hoại, mặc dù khởi đầu, bao giờ họ cũng nhân danh dựng xây cái mới.
7.2007-3.2009
Nguồn: talachu.org
No comments:
Post a Comment