CHIẾC KHĂN VUÔNG LỤA
Chỉ mới đến trước cửa phi trường, tôi đã đánh mũi ngay cái mùi quen thuộc: mùi Pháp Quốc. Nó không phải cái mùi lò bánh mỳ Poitou, Le French Bakery, mùi Café Croissant Doré, La Pagode, cái mùi Tây của Phở 99 mà mãi một hôm cô bạn đầm từ Pháp sang nhắc nhở tôi mới biết. Ðang ngồi ăn bánh xèo trên lầu trong khi giọng hát Khánh Ly nheo nhẻo nheo nhẻo, ngay lúc nhắc nhở gì về
Ngày hôm đó làm tôi hơi quê với cô đầm cà chớn sang chơi
“Cổ chuỗi ngọc trai, vai khăn Hermès” là thành ngữ thông dụng chỉ một týp đàn bà đầm, thông dụng đến nỗi người ta viết tắt và nói tắt được, CPCH (Collier de perles, Carré Hermès) tương tự như là NATO, UNHCR và ICBM. Cái chuyện Carré Hermès thì rất là khúc mắc, tôi không rõ nó có tự bao giờ, chỉ biết là mươi mười lăm năm nay nó càng ngày càng thịnh hành ở những nơi gọi là lịch sự. Bao nhiêu tuổi đeo Carré Hermès cũng có thể được, nhưng thường thường là lứa hai mươi - bốn mươi. Nó biểu tượng cho sự chững chạc thì phải, tuy là trùm nó hẳn lên đầu chạy vội để tránh mưa ngoài bờ biển ở Deauville vào tháng tư khi trạm nghỉ mát này vừa hồi sinh, nhất là nếu để băng đoạn đường giữa viện thalassothérapie và khách sạn Normandie thì coi cũng dễ thương (nhớ đeo kính mát Miki xanh cây nhạt gọng cổ có chút strass và đi giày Carel đế thấp không mang vớ). Nói tóm lại, không có vật tùy thân nào tượng trưng cho cái tinh thần
Ở bên Mỹ, chẳng khi nào thấy đàn bà khoác khăn Hermès. Ở Bolsa, lại càng hiếm. Cái khăn Hermès rất dễ nhận, nó có đủ kiểu nhưng ưa viền ngoằn ngoèo linh tinh những hình cột đền Hy Lạp, lá nho. Có khăn vẽ cảnh du thuyền, cảnh đi săn bằng ngựa, cảnh chơi golf nhưng không có khăn nào tả cảnh đá banh cà na hay là trượt sóng. Màu thì nó cũng đủ cả, xanh, tím, đỏ, nhưng hơi chìm và nhã nhặn nên cũng khó nói. Chữ Hermès lại đề trên khăn rất kín đáo, trải ra mà tìm mới thấy nên nhận diện loại khăn này phải có kinh nghiệm. Dễ nhìn ra nhất là cái sắc nước của nó.
Khăn Hermès làm bằng lụa nhưng là một thứ lụa đặc biệt riêng của nhà Hermès. Có lụa Hà Ðông, có lụa Thái Lan, và có lụa Hermès. Nó hơi bóng, lại cứng hơn các loại lụa khác, thành ra khăn nào mà èo uột trên vai thì ắt không phải Hermès. Loại tơ này, hình như mỗi sáng ông Hermès, bà Hermès và các con, cô cậu Hermès phải dậy sớm ra vườn nhà cắt lá dâu cho tằm nó ăn hay sao thành ra chỉ có nhà Hermès có. Khăn vuông lụa thì thiếu gì nhãn; khăn Céline cũng là sang trọng vậy, khăn Dior tận Phi Châu người ta còn biết, cũng là lụa hết, nhưng không phải là lụa Hermès. (Ông Dior, bà Céline có thuộc loại ngủ trễ, tôi không rõ). Dậy sớm như vậy, cho nên nó đắt. Trong Duty Free Shop của phi trường LAX (phải nhá
Tôi có một bà bác, ở bên Pháp năm nay là mười năm. (Ðây là ký sự, nghĩa là toàn những chuyện có thật, có sao tôi nói vậy không phải là tiểu thuyết hư cấu từ đầu óc tôi lệch lạc và thừa phong phú). Bà cụ ưa tiết kiệm, hướng về quê hương, đi chợ được cái túi plastic hay giữ lại, vừa phủi nó cho phẳng phiu vừa than thở “Cái túi này, ở bên nhà bây giờ không có được”. Sống ở bên Tây, lại theo tiêu chuẩn ở bên nhà, thì tôi cũng lạ, (nhưng chắc không lạ được bằng sống ở bên nhà, lại theo tiêu chuẩn ở bên Tây). Cái gì recycle (tái dụng) được, bà bác tôi recycle hết; bao giấy, bao nylon, thùng carton, chỉ trừ có lon nhôm nước ngọt là cụ không có giữ, dùng để bày hoa trên bàn thờ cụ thấy thiếu thẩm mỹ. Áo len đan xong không vừa ý, cụ gỡ ra lấy len đan lại kiểu hợp thời trang hơn; vải vụn cụ cất một bên, nếu không đủ để may gối thì cụ làm giẻ nồi hay nhét vào dưới khe cửa mùa đông gọi là cho đỡ gió. Chuyện bà bác tôi ăn nhập gì đến đầm BCBG, rồi bạn sẽ thấy.
Nếu cụ ra chợ Tàu phố Mười Ba ở
Tôi không tin, nhìn kỹ lại. Làm sao có chuyện đó. Bà bác tôi, những ngày tế lễ, mặc đồ đẹp để chụp hình mới vào tủ gỡ cái khăn quấn đầu thứ năm, bảy đồng gì đó còn giữ nguyên trong giấy bóng kính, mang ra đội vài tiếng rồi lại xếp vào tủ trở lại trong bao origin của nó đợi dịp sau. Với polyester cụ còn kính trọng như vậy, có lẽ nào cụ lại đối xử tệ với hàng lụa thế kia. Tôi nhất định không tin, “no way”, chắc là khăn gì đó. “Khăn Hermès, cái sắc lụa Hermès, anh nhìn mà anh không biết”, vợ tôi quả quyết. Tôi lại gần, lộn cái bao ra, thì khăn Hermès. Bà bác tôi bị bắt quả tang, hơi xấu hổ, thấy cần phải phân bua: “Nó xấu xí nhưng còn lành lặn, cũng còn dùng được nên mới nhặt mang về làm vải lót ấy mà, bên trong mà sao cháu cũng thấy”. Tôi quan sát kỹ, cái khăn lành lặn thật, cũng chưa bị cụ cắt xén khúc nào “còn dùng được chứ, sao bác lại lót bao gối làm gì, tốt chán, bác cho cháu mang về, may quần xà lỏn” tôi năn nỉ cụ. Tôi gỡ chỉ ra, mang về may quần xà lỏn, cho đến nay vẫn chưa ai biết nhưng ở đời nhiều chuyện không ngờ tới được, lỡ hôm nào xui xẻo đụng xe, người ta chở vào nhà thương cũng còn mát mặt với mấy cô y tá. Như bên Pháp các bà mẹ vẫn ưa dặn con, ra đường nhớ thay đồ lót, đề phòng trường hợp bị tai nạn.
Tại vì, nhân tiện tôi nhắc đến, thời trang đồ lót đàn ông từ vài năm nay là đổi kiểu trở về quần xà lỏn nhưng lịch sự làm từ khăn vuông Hermès thì nhờ bà bác tị nạn bên Tây, chỉ mình tôi có.
Câu chuyện này Tây chứ, tuy có phải là “đi Tây” hay “về Tây” thì tôi không rõ. Tôi là người
Cái khoảng từ năm đến bảy giờ tối ở những quán café thuộc những nơi cư ngụ là cái khoảng dành cho diễn đàn thời luận. Quán café ở nơi cư ngụ khác quán café ở chốn ăn chơi ở chỗ ẩm khách đều là những người quen biết. Ðây là quán nước gần nhà mỗi chiều mỗi ghé trước khi ăn tối, trước giờ thông tin truyền hình thường nhật và hạnh phúc mái ấm gia đình. Café cư ngụ là nơi thứ Tư ghé ngang qua để đánh Loto, là nơi Chủ nhật đến để bàn cá ngựa, là nơi mua bao thuốc mỗi ngày. Nhưng không phải café nào cũng là Tabac bán thuốc, café nào cũng có PMU (Pari Mutel Urbain) cá ngựa cho nên nhiều người có khi phải ghé cả ba nơi trước khi về được đến nhà. Nơi đầu, uống ly bia, nơi thứ nhì uống ly pastis, nơi thứ ba uống ly rượu vang. Thường thì người ta uống đứng ở quày, nói dăm ba câu chuyện với anh hàng nước, bà chủ quán và người đứng cạnh. Uống đứng nó không có vẻ lê la, uống ngồi ở những nơi này dành cho tình nhân, (thay vì gọi điện thoại ba tiếng đồng hồ liền cho nhau như ở Mỹ, tình nhân ở bên Tây rủ rê nhau ra ngồi café mà tỉ tê). Ngoài ra uống đứng còn có cái lợi khác là giá được chính phủ ấn định, ở đâu cũng thế, ba quan rưỡi một tách expresso thí dụ, trong khi uống bàn, uống hàng hiên tùy nghi của quán, muốn tính thế nào cũng được, năm quan ở một nơi bình thường, có khi hai mươi quan ở chỗ người ta lượt là qua lại. Nhưng vấn đề chẳng phải là sự khác biệt mấy đồng, ở café chòm xóm, uống đứng là dân chủ, là phát biểu mạnh dạn trước cộng đồng, là lương thiện và dõng dạc, quày café như là forum nghị hội ngày nay của những công dân tự do của đô thành (cité). Dân lành chính thức, nghĩa là những người hiện diện đều đặn trong quán đã được một thời gian, từ vài ba năm nay hay là từ sáu bảy tháng, được đóng vai “sang tộc” (patricien) đường hoàng, còn khách đi ngang hay những người thập thò mặt còn mới lạ chỉ được làm “tiện dân” (plébéen) đứng nghe gật gù mà không có quyền phát biểu.
Kẻ tay không và người đeo kiếm, thật ra thì cái văn minh quày quán, nền dân chủ tựa “zinc” (nhôm lót mặt quày) ở Pháp không đến nỗi khắt khe. Khỏi cần thi quốc tịch, không cần thề thốt đá trăng với hiến chương Ðệ Ngũ Cộng hòa để mà hội nhập. Hiểu biết qua loa về khí tượng, trời nắng trời mưa thuộc tên vài con ngựa và tên vài tay nài là đủ để tham dự vào một cách tích cực. Ðứng tựa quày cầm ly blanc sec người Âu, người Phi, người Á, kẻ khề khà cái giọng ngoại ô Paris bình dân, người bập bẹ tiếng lai miền lục địa Ấn, trước kết quả xổ số loto mọi người đều bình đẳng. Có khi câu chuyện chính trị trở thành gay gắt nhưng consenscus ở ngoài bar bao giờ cũng là mọi người đều “con” hết, chính phủ đang cầm chính “con” nhất nhưng mà đối lập cũng “con” luôn (“con” là chữ thông dụng trong tiếng Pháp hàng ngày, nghĩa đen xuất phát từ chỗ kín của cơ thể phụ nữ và nghĩa thường có thể dùng để diễn tả mọi sự không được hoàn toàn. Triết lý café tựa chung ở một câu buông thõng trống không như “Ben, c’est con” để không nói về gì hết và nói về tất cả, tóm tắt tuyệt vời cái tương quan nhân sinh và vũ trụ - weltanschauung - giữa trầm luân và chaos không ngừng nghỉ mệt).
Câu chuyện ở quày quán không phải lúc nào cũng là chuyện tầm phào như thế.
“Andy Warhol
À la Coupole
Peint les Gambettes
De Mistinguett...”
(Andy Warhol
Ở hàng Coupole
Ngồi vẽ cặp chân
Nàng Mistinguett...)
À la Coupole
Peint les Gambettes
De Mistinguett...”
(Andy Warhol
Ở hàng Coupole
Ngồi vẽ cặp chân
Nàng Mistinguett...)
La Coupole, Le Dôme, Lipp, Les Deux Magots, Le Select, Le Café de La Paix v.v.... và những quán Café “généric” không tên tuổi, Café du Départ, de I’Arrivée, ở mỗi tỉnh trước mặt nhà ga (Café de La Gare) hay trước trạm métro. Bỏ đồng cắc vào juke box bây giờ có bài hát của Souchon:
“Le soir dans les bars le cafard se flingue au pastis
On rêve mal de choses infernales
Les cheveux plastifiés deVictoria principal...”
(Tối trong tiệm rượu diệt cái buồn bằng ly pastis
Mê tưởng chán chường những chuyện tà gian
Mái tóc bọc nhựa của Victoria Principal...)
On rêve mal de choses infernales
Les cheveux plastifiés de
(Tối trong tiệm rượu diệt cái buồn bằng ly pastis
Mê tưởng chán chường những chuyện tà gian
Mái tóc bọc nhựa của Victoria Principal...)
Victoria Principal (đào thương trong phim bộ Dallas) ngày nay nổi tiếng hơn là Mistinguett tuy là café La Coupole bao giờ cũng nổi tiếng hơn café “généric” ở ngoại ô. Nhưng chẳng biết được ngay cái quán gần nhà tôi ở miệt Ðông Nam chẳng hạn, cũng có thể tìm ra dấu vết của đảng cướp vô chính phủ tung hoành vào thời Bell Epoque, nửa thảo khấu nửa hào kiệt, La Bande à Bonnot. Trong cái băng được dân gian huyền thoại hóa ngày ấy, nhà thơ Octave Garnier chưa thành danh về thi ca thì đã bị cảnh sát bắn chết, một người khác vào tù, sau khi được thả hoạt động cách mạng và viết lách, về già ai cũng biết, là Victor Serge. Ðó là tôi nói về Nogent sur
Ngày nào đó, có lẽ cái văn minh hàng quán sẽ suy đồi như đế quốc La Mã, người ta sẽ thôi ra café mà đóng cửa nằm nhà mê mẩn đài này đài kia (Ðêm trầm nhạc dế đêm mông lung/.../Thơm nồng mùi tóc Connie Chung... như bài thơ tôi đọc được ở Mỹ đã bắt đầu cho thấy). Nhưng hiện giờ, cám ơn mọi người, nó vẫn sung sức mặc cho các tài tử hay anchorwoman xịt thuốc khử trùng lên tóc. Người ta vẫn đứng quày café rất đông tuy là nhân vật đứng quày café điển hình đã được hiện đại hóa. Người Pháp ngoài quán ra không còn là cựu chiến binh 14 - 18 đầu đội béret nữa (giống như trong quảng cáo nước suối Perrier ở Hoa Kỳ) mà được thay thế bằng nhân vật “Beauf” của họa sĩ Cabu. Beauf, từ chữ “Beau Frère” (anh, em rể) trong thập niên này tượng trưng cho người Pháp trung bình, cựu chiến binh Algérie mắt lồi, có râu và có bụng, vững niềm tin tuyệt đối vào những giá trị chân truyền như rượu nho và hội túc cầu Olympique de Marseille, bà nhà tôi và xe hơi hiệu Peugeot. Thật ra thì người “Beauf” ở đâu cũng có, không cần phải sang Pháp ra café đầu hẻm mới được chiêm ngưỡng dung nhan. Ra café Bolsa ta cũng thấy được tuy là hình thái có hơi đổi khác và Beauf tị nạn có khi còn biết cả làm thơ như đã dẫn (Dân tộc Việt
Câu chuyện giữa các Beauf ở quày quán vào cái màu sương mù nhưng ấm hơn thường lệ năm nay đang sôi nổi về vấn đề nhà ngục. Mỗi tối thời sự truyền hình cứ cho coi cảnh cai tù đánh nhau với cảnh sát, hiến binh lưu động ai mà chẳng thích. Cai tù thì cũng là người, có vợ có con, có tiền nhà trả góp nên họ đang làm reo vì nghề nghiệp đang bị đe dọa. Ở Pháp, hiện chỉ có 32000 chỗ cho người nằm ấp mà dân số bóc lịch lên đến 45000. Thay vì xây thêm tù để cho người gác còn có việc thì bản phúc trình của dân biểu (thân chính) Bonnemaison lại đề nghị giảm bớt số phạm nhân bằng đủ cách. Thí dụ bắt những người tội nhẹ tham gia vào những việc lợi ích chung, quản thúc tại gia những người mang án ngắn hạn, tăng việc giảm án cho những thành phần hạnh kiểm tốt. Những vấn đề này nếu đem ra áp dụng, về lâu dài nước Pháp có trở thành thái bình thịnh trị như đời Nghiêu Thuấn hay không thì chưa ai biết được. Người vào tù trước giờ chẳng mấy ai chừa được tật cũ, thường ở tù ra thì lại ưa tái phạm nặng hơn nên không phải là cái ông Bonnemaison này không có lý. Phương pháp “nhẹ” này có làm tăng số người hoàn lương lên tôi không muốn cãi, chỉ biết nó trước tiên giải quyết được một phần vấn đề chật chội ở trong các đề lao (Ðể so sánh, tiểu bang Cali hiện cũng đang có vào khoảng ấy tù nhân với một dân số chỉ 35% dân số Pháp. Nhưng ở Mỹ, cái gì cũng lớn hơn ở Âu Châu nên chẳng thể nào so sánh được). Ðằng nào thì không phải trẻ em nào cũng trở thành thần đồng điện toán được, không phải thanh niên nào cũng thành thiên tài thị trường chướng khoán một cách dễ dàng (nhất là sau cái Krach quốc tế cách đây hai năm). Có đứa thiếu tưởng tượng không ngồi nhà viết program cho vidéo game mà lại ra đường hút xì ke với bạn, có người không raid được corporation (1) phải cầm nhầm BMW bỏ túi để giật le với đào. Những kẻ này, nhà đã không dậy được thì bản phúc trình Bonnemaison bảo đừng nên để cho bọn cướp của, giết người trong đề lao nó dậy, giam chung vào với những tay anh chị họ chẳng tử tế được hơn, lại còn tốn tiền nhà nước... trả cai ngục. Và dĩ nhiên là giới cai ngục không đồng ý, quyền lợi họ bỏ đâu, họ dọa đình công ngay, tụ họp trước các cửa nhà lao hò hét đòi làm loạn. Cai tù làm loạn, âu cũng là cảnh hiếm có nên mọi người đều bàn tán. Nhưng bản đề nghị Bonnemaison còn có một điểm tuy phụ trội thôi cũng đủ làm quần chúng xôn xao.
Một trong những thành kiến được Beauf ưa chuộng nhất vào giờ apéro là nhà tù ở bên Tây sướng quá. (Ừ, nếu không sướng sao tỉ số tái phạm lại cao đến thế, rời ấp ra người nào cũng muốn vội trở lại). Huyền thoại kể rằng nhà tù ở Pháp thuộc hàng ba sao, nghĩa là tương đương với khách sạn loại trung lưu. Tôi nghe nói thế, tuy tôi mới chỉ ở được khách sạn hai sao thôi ở ngoài đời, tôi cũng không vội gì vào Khám Trung ương Melun hay Fleury-Mérogis để mà kiểm chứng. Nhưng ở quày café, cụng ly rượu đỏ, cụng ly rượu trắng, các vị công dân gương mẫu đang đợi vợ làm xong cơm chiều thường ưa quả quyết với nhau như vậy. Nhà tù ở bên này hàng ba sao, còn có cả truyền hình cho chúng nó xem
Cái chuyện ái tình ở ngoài đời đã là hấp dẫn, dĩ nhiên ở tù nó lại càng nồng nhiệt. Ðã khách sạn ba sao thì chớ, lại còn cho cả phép dẫn đĩ vào. Ðây chẳng thiệt thòi gì cho tương lai người làm nghề gác ngục nhưng quần chúng quày bar lại lấy cái điểm này làm đề tài chính để mà sôi sục. Người lương thiện đã phải chia sẻ Victoria Principal với bọn đầu trộm đuôi cướp, giờ nếu mà cho phép đĩ vào thăm chúng nó trong tận ấp nữa thì thật là quá quắt.
MINITEL HỒNG
Năm nay, cả nước Pháp quay về quá khứ, ngoài đường bày bán đủ thứ đồ kỷ niệm Cách mạng, T-Shirt, gạt tàn cho đến
Sao lại có thể có chuyện đó được,
Cái ông này ở Bolsa cũng là chỗ quen biết. Bạn có để ý cái trạm xe buýt che mưa gió mới đặt dạo này ở Nam Cali? Hai mặt kính, một cái mái và quan trọng nhất, một phía hông dành riêng cho quảng cáo (có hình ca sĩ Ngọc Lan đang mơ màng). Nó là cái Abribus Decaux giống hệt những cái Abribus Decaux ở Pháp, ở Bỉ, ở Thụy Sĩ, ở Ðại Hàn gì đó. Ông này xách cặp đến một thành phố, hỏi hội đồng thị xã có muốn chỗ trú ẩn cho người đợi xe buýt hay không, ông đặt cho free. Ông chỉ cần lấy tiền quảng cáo, nếu khó khăn chưa chịu thì ông đặt thêm cái bảng hiệu chỉ đường, cả bản đồ thành phố nữa, bản đồ thành phố ông đặt một mặt, mặt kia ông quảng cáo. Muốn dân chúng khỏi vất rác ra đường, ông cho không thùng rác, thùng rác của ông cũng có quảng cáo ở trên. Gì ông cũng tặng hết, ông chỉ tính thân chủ của ông tiền quảng cáo, thành phố nào chẳng chịu, thế là ông giàu. Ghế đá công viên, bản đồ chỉ đường ông làm xong, giờ ông quay sang cầu tiêu. Cái cầu Decaux dĩ nhiên cũng có quảng cáo. Ði ở đường bạn có thấy nó bằng xi măng trang nhã, loại đúc sẵn, màu vàng nhạt, to hơn cái tủ đựng quần áo một tí. Nó một chỗ ngồi (tôi muốn nói, nó đặt riêng ra từng đơn vị một), cửa ra vào bóng loáng như sắt máy bay. Quảng cáo có lẽ không đủ lời, bạn phải bỏ vào một quan vào cạnh cửa nhưng một quan này đáng đồng tiền bát gạo. Cửa sắt tự động thụt vào, đèn ở trong bật sáng, nhạc êm dịu nổi lên, bạn bước vào, cửa tự động đóng lại. Bên trong ấm cúng, quạt thì hút hơi thoáng khí, quạt lại phà hơi nóng điều hòa. Mà sạch thì không thể nào chê được tại vì cả cái sàn bạn đang đứng, cả cái bồn, cả cái phòng đến ngang người, một khi bạn đi ra sẽ tự động quay ngược xuống để mà tẩy uế hoàn toàn bằng máy với thuốc sát trùng như trong car-wash. Vệ sinh như thế còn hơn nhà thương nhưng chỉ phiền một cái, lỡ máy mát lên cơn điên lúc mình đang ở trong sập cả nửa phòng xuống xịt nước kỳ cọ thì mình làm sao? Thì mình chết, vậy thôi. Có một người mất mạng rồi, một em bé gái vì cân không đủ nặng, cầu tưởng là không có người. Ở ngoài có đề cẩn thận, đừng bao giờ để con nít vào một mình cả, biết đọc cũng có lợi. Còn máy điên lên thì tôi chưa nghe nói, chẳng qua chuyện này cũng như đang đi xe hơi tự nhiên chân ga rú lên vậy như nhãn Audi người ta đồn một dạo, xe nó điên thì cũng... chết chứ biết sao. Không phải vì thế mà không ai đi cầu máy Decaux nếu bạn là con người cầu tiến. Chẳng ai ngăn được sự phát triển, dù muốn dù không.
Thế thì đã có gì tân tiến, lợi ích thế nào tôi không biết nhưng vào nhà ai tôi cũng thấy có một cái điện thoại có màn hình và bàn phím như là một cái máy vi tính bé. Ðường dây điện thoại bên Pháp thuộc độc quyền chính phủ (Bưu điện) nên việc nối điện thoại vào với điện toán áp dụng rất dễ. Cái máy, nhà Bưu điện cho không, nếu muốn có máy in thì phải bỏ tiền thêm. Áp dụng của nó y như là áp dụng vi tính vậy, chỉ khác chỗ là nó tập trung hóa được. Bạn có thể “gọi” giữ chỗ xem xiếc, tìm địa chỉ nhân tình cũ (đánh tên lên màn ảnh, nó tìm hộ như mình xem niêm giám, ôi, những tên nhân tình cũ xanh xanh trên màn ảnh...), coi giờ máy bay vớ vẩn. Nhưng nó lan rộng ra trăm ngàn dịch vụ, thí dụ bạn làm business nó giữ sổ kế toán cho bạn được, nó khai thuế hộ, bạn gửi thư sang Bồ Ðào Nha, đánh vào bằng tiếng Pháp nó dịch ra ngay bằng tiếng Bồ, tiếng Ðức, tiếng quái quỷ gì khác, dịch qua dịch lại chớp mắt tuy là dịch dở. Và cái mà người ta ưa dùng nhất, là nó... kiếm bồ cho mình. Kiếm bồ cho mình thì nó chưa tự động được (nghĩa là kiếm nhân tình cũ không ra, máy chưa tự động hỏi bạn bè, thế nào, muốn kiếm nhân tình mới không?) Kiếm nhân tình, cho đến giờ này, con người còn phải chủ động, dù là bồ cũ hay bồ mới (bồ cũ nhiều khi cần chủ động nhiều hơn nữa). Bạn có quyền lựa các tiết mục, có những số tìm bạn mặc đồ da, tay cầm roi, có những số để tìm bạn mặc đồ trắng, tay cầm hoa, tùy sở thích. Bạn có thể đăng rao vặt và mở “hộp thư” trên máy bằng bí số (Z 28 chẳng hạn), ngày hôm sau mở máy check “hộp thư” coi có ai trả lời không. Bạn có thể đối thoại thẳng với người lạ (Z 28 gọi Mèo Xiêm), bạn có thể ỡm ờ tay cầm lá cây mà ngắt ngắt hay bạn bạo dạn hơn mà phơi bày những ý đồ rực rỡ (tôi không thích chữ đen tối vì tôi thấy những chuyện này tôi sáng mắt ra chứ ít khi nào nhắm mắt lại) trong đầu. Thích lắm, muốn nói thêm gì thì nói, cũng như phone hồng nghe thẳng tiếng nhau ở bên Pháp này không đắt khách, chỉ có Minitel Hồng phải viết ra lên màn hình lại chạy. Z 28 gọi Cọp Thái, nếu tâm đầu ý hợp mình hẹn nhau đi chơi cuối tuần. “Tôi với nàng quen nhau qua Minitel” mươi năm nữa có lẽ trở thành một trường hợp thông dụng. Như ngày hôm nay học cùng trường, làm cùng sở, gặp ở nhà người quen, đám cưới, party. Minitel có thể áp dụng vào nhiều việc đúng đắn, chắc chắn rồi, vô số kể. Nhưng ngoài đường tôi ít thấy quảng cáo những dịch vụ này. Năm nay đã bớt, phong trào Minitel Hồng dường như mệt mỏi, phải lấy lại hơi nhưng vẫn còn những tấm biển có cô ngực trần tóc vàng 3615 ULLA (3615 là mã số đầu tương đương như 976 ở Cali), có cô đít nhỏng tóc đen 3615 BRIGITTE. Phong trào này cách đây hai ba năm làm nhiều người Mỹ sang đây phát sợ, chẳng hiểu chuyện gì sao đàn bà nhồng nhộng đầy bích chương đường phố. Không bán sú-cheng, không bán sì-líp, không bán nghỉ mát mà cứ vẫn phơi bày. Người Mỹ đâu có Minitel.
Cái màn ảnh nhỏ hấp dẫn như vậy, ở Pháp đi đâu tôi cũng thấy màn ảnh. Màn ảnh computer, màn ảnh vidéo. Hệ thống métro cũng có cáp TV riêng bày khắp nơi để đợi tàu đỡ buồn, coi nhảy hát, coi khí tượng, coi tin ngắn. Tiệm sách, tiệm nhạc, tiệm café, cá ngựa gì cũng vậy, màn ảnh bày la liệt, dĩ nhiên mỗi nơi một chủ đề, tiệm nhạc thì để vidéo clip, bấm nút mà lựa chọn được, tiệm cá ngựa thì để kết quả cuộc đua trực tiếp truyền hình. Cớ gì người ta cũng mang TV ra chắn lối được, cái đề chữ, cái để hình làm như không có nó thì không sống nổi. Chả vậy mà chữ “câblé” (bắt giây) dạo này đồng nghĩa với “thời trang”. Ngay cả cái việc chỉ đường bạn cũng không cần nhờ anh cảnh sát hay cô đầm tốt bụng nữa. Ở các lối ra vào nơi phương tiện chuyên chở công cộng người ta để một thằng Situ là xong. Anh này màu xám xịt, cũng có màn hình (bằng LCD), cũng có keyboard. Bạn đánh vào cái địa điểm mà bạn muốn đến, số bao nhiêu, đường gì. Chàng sẽ hỏi bạn muốn dùng tàu điện, xe buýt, cả hai, cách nào nhanh nhất hay cách nào ít phải đi bộ nhất, tùy ý bạn chọn lựa. Bấm nút lựa xong, Situ vừa rè rè làm việc vừa tử tế “Xin lỗi, làm ơn đợi chút”. Ðộ ba mươi giây sau, chàng nhả ra một tờ giấy in mực hai màu đen đỏ cẩn thận, cặn kẽ từng chỉ dẫn. Lấy hướng A, xuống trạm B ra lối C, quẹo tay phải độ bao nhiêu thước thì đến, tất cả mất chừng X phút. Tôi tò mò hỏi thử, nhà địa chỉ người yêu dạo trước ra mà tra hỏi. Bằng đủ cách, cách nhanh nhất, cách ít phải đi bộ nhất, bằng tàu điện, bằng xe buýt, bằng cả hai cộng lại. Năm phút sau tôi lần mần cầm cả năm tờ giấy chỉ đường ở trên tay do anh Situ trao tặng. Tôi xin lỗi lại là đã làm phiền máy. Tại hỏi chơi cho biết chứ người yêu cũ, có cách nào mà đến được và hiện đại thì hiện đại, Situ không tài nào chỉ nổi. Tình nhân mới, may ra còn nhờ máy Minitel được chứ tình nhân đã cũ rồi thì máy nào cũng phải chịu thua.
TỜ GIẤY MỰC ĐEN
Về truyền hình thì chuyện đã đành. Nhưng còn có những dấu hiệu khác làm tôi ngại hơn tí xíu. Người Mỹ sáng chế ra cái hình trong hộp, hộp 27 inch để trong phòng khách, hộp 21 inch để trong phòng sinh hoạt gia đình, hộp 19 inch để phòng sinh hoạt vợ chồng, hộp 13 inch để trong bếp, hộp 7 inch để ngoài hồ bơi, còn có cả hộp 3 inch để mà bỏ túi, chạy bằng pin, đi đâu mang theo cũng được, thì họ nhất về truyền hình là phải, còn ghen tức cái nỗi gì. Nhưng Hoa Kỳ nhất định không phải là nước phát minh ra mẫu tự và cũng chẳng phải là nơi sáng chế ra giấy, mực, nhà in. Vậy mà, sau khi đến Centre Commercial Rosny 2 đi một vòng thương xá vào buổi tối, lót bụng bằng Hamburger rồi vào tiệm sách báo xem chơi, tôi giật mình. Trong tiệm sách, có những chỗ để bày sách bán chạy, sách best-seller, nghĩa là bước vào thì thấy ngay, như là quân cảnh xét giấy ở Việt
Nếu sách ở bên Tây có vẻ đang lâm vào tình trạng bi kịch truyền hình với loại hồi ký Joan Collins và tập thể dục Raquel Welch thì phía bên sạp báo tôi thấy sáng sủa hơn. Le Point, L’Express tôi không biết giờ có còn ai đọc, tờ Nouvel Obs một thời vang bóng này độ nhật (độ tuần) bằng trang quảng cáo tìm bạn kiểu “Prof. Lib. (Hành nghề tự do) 50 tuổi, chưa hói, tìm phụ nữ 35 trở xuống, biết bơi, để Phục Sinh này đi thuyền quanh Ile de Man”. Ngược lại, tạp chí mới ra nhiều đếm không xuể, thế hệ 68 ngày trước bịt mặt cầm gậy sắt lò cò trên đường đánh cảnh sát giờ vô khối làm chủ báo. Serge July vững chắc tờ Libération hàng ngày, Bizet lập thành lũy với tờ Actuel hàng tháng. Thơm phức mùi nước hoa tư tưởng là tờ Globe điểm trang thêm cho cựu tân triết gia làm dáng Bernard Henry Lévy, rồi nào Passsages, nào City, tạp chí ra ào ạt. Nhóm Le Monde củng cố rồi bành trướng vẫn với cái dáng đạo mạo Ðệ Tứ Cộng hòa từ ngày khai sinh đến giờ, lấn qua những chủ đề chuyên môn, hết Le Monde Diplomatique, Le Monde de I’Education, I’Etudiant, de La Philatélie năm nay còn có Le Monde de La Révolution để kỷ niệm 1789. Báo Phụ Nữ có chiều Âu Hóa, Anh và Ðức đua nhau ra các ấn bản tiếng Tây (và ngược lại), báo Nam Nhi cũng vậy. Dĩ nhiên Play boy, Penthouse vẫn có ấn bản bằng tiếng Pháp từ lâu nhưng Club của Anh giờ cũng xen vào và tờ Lui của Pháp tự nhiên phát minh ra lối mới. Mỗi tờ in làm hai tập nói chung, một tập đứng đắn (như mới đây có phỏng vấn Ðức Giám Mục Gaillot) và tập kia hình ảnh nõn nà. Có lẽ là để cho các nha sĩ mua báo dài hạn tiện việc khấu trừ vào thuế, tập đứng đắn để ngoài phòng đợi cho thân chủ đọc đỡ đau răng, tập hình ảnh để ở phòng ngồi lật lật những khi vắng khách. Tôi thấy phát minh một tờ mà hai tập này cũng lạ, không hiểu từ đâu ra. Chắc đầu óc người Pháp bây giờ rộng lượng, cái gì ra cái đó chính xác, khỏi cần lập lờ, ờ, tôi đang coi bài nói chuyện với Daniel Ortega, Chủ tịch nhà nước Nicaragua, ở trong Lui. Không, Alain (Finkielkraut) một bên, Sylvaine (các cô người mẫu này thường thì không có họ) một bên. Chẳng hiểu từ đâu ra, cầm tờ báo L’Express lên rơi vài ba tập lỉnh kỉnh L’Express-Paris gì đó, phải nhặt lên xếp lại, đến lúc cầm tờ Figaro cuối tuần tôi mới vỡ lẽ. Figaro cuối tuần một xấp, bên ngoài là báo, bên trong nào Figaro-Magazine giấy láng, nào Figaro-Madame, nào Figaro-Télé. Kiểu này tôi đã có thấy ở đâu, loáng thoáng trở về trong ký ức. Báo nào bên trong vừa có Tạp chí, vừa có tập riêng cho chương trình TV, vào ngày Chủ nhật, ra trước nhà mà xem thằng bé đi xe đạp đeo hai cái túi liệng vào sân bạn đánh bốp, lằng nhằng cột lại bằng sợi dây thun và nặng chừng hai ký - báo Mỹ.
Trong hai ký đó, tờ do Mỹ ngày Chủ nhật để dành một ký rưỡi riêng cho quảng cáo khiến nhiều người sáng Chủ nhật dậy sớm đi tìm tờ báo chỉ để xem quảng cáo, rao vặt mà thôi. Mua xe, bán nhà, cửa hàng nào đại hạ giá, Special, Clearance để kỷ niệm khai trương hay bất cứ ngày lễ nào làm cớ. Về mặt này, báo Pháp còn hơi kém, phần quảng cáo chưa được phồn thịnh bằng ở Hoa Kỳ, mở tờ báo ngày cuối tuần chưa thấy rơi ra lủng củng mười lăm mười bảy tờ fliers vớ vẩn, nào drugstore, department store, nào coupon trừ tiền trên café thuốc lá và kem dưỡng da, thuốc nhức đầu. Và kém nhất trong các tờ báo Pháp về mặt này là một cơ quan ngôn luận hàng tuần phát hành trong ngày thứ tư. Nếu bảo tại nó mới ra nên chẳng ai buồn quảng cáo cũng không phải. Tờ này có từ 1917. Nếu bảo nó bán ít nên không có thân chủ thì cũng không đúng. Hiện nay tờ này phát hành 600.000 số. Lý do đúng nhất là vì nó ít chỗ, vỏn vẹn có tám trang khổ nhật báo mà ban biên tập lại siêng năng thành ra không còn một mẩu nào trống để chừa cho quảng cáo. Từ bảy mươi hai năm nay, tờ Canard Enchainé đại để về hình thức trình bày vẫn thế và chưa bao giờ nhận quảng cáo cả. Ðây hẳn là một biệt lệ trong làng báo ở các nước mở mang kỹ nghệ. “Con Vịt Mắc Xiềng” do vợ chồng Maurice và Jeanne Maréchal thành lập trong thời Ðệ Nhất Thế chiến là một huyền thoại sống mạnh được nhiều nơi bắt chước, từ Moscow, Nga, Dakar, Sénégal, đến ngay cả Sài Gòn, Việt Nam.
Tôi quen với tờ báo này nhờ một người Nam Tư lớn tuổi giới thiệu. Vào dạo giao thiệp nhiều với nhạc sĩ này, ông ta đoan chắc với tôi là ở đời không cần học hỏi gì ở đâu cả, mỗi tuần chỉ cần đọc “Con Vịt Mắc Xiềng” là đầy đủ. Dạo đó tôi còn trẻ, cũng gắng nghe lời ông ta làm thử, chẳng thấy thú vị gì, lại đâm ra nghi ngờ cái bọn làm nhạc, không tin được. Phải đợi đến có cả thập niên sau, gặp lúc cùng cực thờ ơ với cuộc sống, không buồn đi ra đến cả ngoài đường, tôi mới thấy lời nói của vị tiền bối này đúng đắn. Khi chán đời, chẳng còn thiết đọc gì nữa, mỗi tuần tôi vẫn còn đọc được “Con Vịt Mắc Xiềng”. Những lúc nào phải bôn ba ly tổ, tha phương mãi những nơi ngoài đường sạp báo kiếm không ra tờ này, tôi rất nhớ tuy là đặt mua dài hạn bằng máy bay là chuyện có thể làm. Nhưng “Con Vịt Mắc Xiềng” cũng như bánh mỳ Tây, gửi đi xa ăn không còn ngon nữa, nó thú vị ở những mốc bám vào đời sống tại chỗ hàng ngày, độc giả ở xa dù có quen thuộc mấy cũng chỉ mù mờ được nửa hay ba phần tư, không cách nào mà nắm hết. Ðọc “Con Vịt Mắc Xiềng” phải ở ngay tại chỗ, phải liên tục sống và liên tục đọc, không được bỏ số nào, không được nhịn thở một phút như lúc tắm nằm “lặn” trong bồn. Tôi về đến Pháp, qua khỏi thông hành, quan thuế là vơ ngay tờ báo, ngay tối ấy về nhà đọc trước khi ngủ, chỉ thấy như là người tình cũ đã quen, mừng ở những cái nhận ra ngay được nhưng buồn ở những cái không có đó mà chia sẻ. Nhiều chuyện lạ trong khi tôi vắng mặt, nước Pháp được “Con Vịt” phản ánh chẳng phải là nước Pháp của một năm về trước, như một kiểu tóc mới, một màu móng tay vừa đổi, hình như là năm ngoái, lần chót gặp, nàng chưa có kiểu gót giày này. Tôi hơi bỡ ngỡ, tờ “Con Vịt” tôi không hiểu hết, một năm mà, những xa lạ cũng bình thường thôi.
Thời sự của tháng Hai này vòng vo chung quanh cặp vợ chồng Tổng trưởng Tài chánh Pierre Bérégovoy mà điển tích bắt đầu ra sao tôi không được biết. Chính quyền và đối lập hết khoe vớ của mình lại đòi xem vớ nhau, tôi là người đến vào lúc câu chuyện đã sắp tàn, chẳng rõ họ muốn ám chỉ gì hay ai nói xấu nói đẹp gì ai. Ngoài cái ví von ở trường chính trị này, được bàn ra tán vào trên mặt báo và quầy bar là bài phỏng vấn Ðức Giám Mục Gaillot trên tờ Lui. Tôi không được xem tận mắt, thứ nhất báo Lui đã được phân rõ rệt, phần đứng đắn và phần phụ nữ hở hang. Thứ nhì, ngay cả phần hở hang của báo Lui cũng không hợp nhãn tôi thì phải, chẳng tại tôi đạo đức nhưng không cứ loại đàn bà nào chụp hình cởi truồng tôi cũng thích cả và đàn bà báo Lui tôi không ưa nổi. Tôi bị cái tội tủi thân, những cô vạch áo choàng lông nằm trên thảm da beo chỉ làm tôi sầu khổ thêm về cái tội nghèo và không biết ăn chơi nên tôi coi làm gì những loại Centerfolf này nếu không phải là để than thân trách phận những lúc buồn. Cho nên, phụ nữ trên hình, tôi chỉ chịu đựng được những týp bình dân hơn. Kỹ nghệ làm báo đàn ông ở Tây Phương nói chung bây giờ chuyên nghiệp hóa, chẳng khác gì báo dành cho đàn bà, có tờ coi được, có tờ coi thích, có tờ coi bực mình vô ích và tờ Lui đối với tôi thuộc vào loại thứ ba. Cho nên chuyện Giám Mục Gaillot hấp dẫn thế mà tôi cũng không tìm đọc tận mắt, chỉ nghe qua dư luận bình phẩm ở những báo bên ngoài.
Việc giám mục hạt
Nếu mà mang ví với
Có lẽ tại con đường Monsieur le Prince là con đường đầu tiên ở Paris tôi biết đến và đến giờ vẫn là con đường tôi rõ nhất ở trong thành phố, thuộc từng căn. Ðúng hai mươi năm trước, cũng vào tháng này, lần thứ nhất trong đời tôi thấy tuyết, thứ tuyết mỏng bất thường, chưa kịp xuống đến mặt đường đã chực trở thành mưa. Tôi ngồi nhìn sau cửa kính xe, đầu tự bảo đây là kinh thành ánh sáng về đêm dưới tuyết không ra tuyết, mưa chẳng ra mưa và con đường đầu tiên tôi đặt chân xuống là đường Monsieur le Prince.
Bây giờ hai mươi năm sau, cũng vào cùng dạo trong năm đó, tôi đi Tây lần nữa. Tôi đến
Lúc bắt đầu qua nhánh A86 để về nhà, thằng em lộn exit, rời xa lộ để vào thành phố. Tự nhiên hiện ra trước mặt tôi cái gì như một di tích cổ. Sương mù ở đây không phải như trong phim kinh dị, bạn đừng tưởng tượng lâu đài Dracula vàng vọt như trong những chương trình truyền hình vào lúc hai giờ sáng với Mistress Elvira. Cái bùng binh ở lối ra xa lộ này hiền hòa hơn. Ở ngoại ô đìu hiu này người ta dựng lên ngay giữa bãi đất trống những cái cổng chằng chịt như một hí viện La Mã còn sót lại sau cơn địa chấn.
Căn nhà tôi đến ở phía Ðông thành phố.
Căn nhà tôi đến ở cái ngoại ô nhì nhằng miệt Ðông này nhưng lên được một nấc vì không xa rừng mấy, lại lên thêm nấc nữa nhờ ở sát cạnh bờ sông. Những năm nước đột ngột lên cao thì hơi phiền một tí, ngồi hàng hiên có thể câu cá được mà xuống hầm đựng rượu thì rất tiện giặt giũ đồ, khỏi cần ra cầu ao. Việc sưởi là vấn đề vì ẩm ướt hơn bình thường nhưng lại được cái nhìn ra ngay bến du thuyền thì cũng đỡ, ấm lòng ngay kẻ tị nạn thuyền nhân. Thật tình mà nói, ở ngoại ô tôi không thích mấy, hàng quán quá xa xăm mà tôi không thuộc loại người thể thao để chiều về thay đồ jogging chạy bộ ra dọc bờ sông hay lấy thuyền ra bơi sải một hai một hai. Lý tưởng theo tôi thì phải ở Paris Intra - Muros, Nội vi quận tư hay quận sáu, ở từng năm nhìn ra vườn Lục Xâm hay khu Marais nhưng mà ở đời phải thực tế. Nhà ở
Tôi vào đến nhà, thượt người ra. Bận đi Tây này, hay là bận trở về, tôi không thấy gì làm hứng thú tuy cảm tưởng đầu tiên của tôi cũng không có gì là xấu. Trừ người nhà ra, dân Tây từ lúc ở phi trường đến giờ tôi chưa thấy được ai, chỉ trừ cái cô đứng đợi xe buýt và những cái xe nhà băng qua băng lại xuôi ngược trong sương mù. Tôi bước ra cái hàng hiên lồng kính ở tầng ba nhìn xuống bờ sông đen ngòm không một mống. Ðang ở cái Hạt
Ðến giữa đêm, chưa quen giờ giấc, tôi tỉnh dậy và đói bụng. Ðã sang ngày mồng một Tết. Căn nhà này là loại nhà biệt lập, ba tầng và bao quanh bởi vườn riêng. Gia đình tôi có máu xây cất, ưa cải biến, mỗi tầng đều có phòng ngủ, phòng tắm, phòng khách, cái đó thì chẳng có gì là lạ. Nhưng mỗi tầng đều có cả bếp riêng thành ra theo đúng lệ thì phải thờ đến ba Táo. Ðêm rạng mùng một tết, tôi lò mò ra cái bếp ở từng một, tủ lạnh trống trơn, nồi niêu xếp ở trong tủ ngăn nắp. Tôi lò dò lên từng nhì, thấy có bề bộn hơn, đâm ra hy vọng. Mở tủ lạnh ra, linh tinh đủ loại nước ngọt, có cả vài chai Champagne để sẵn nữa nhưng mà uống Champagne, dù là thứ thật, và vào ngày mùng một Tết, tuy là hợp lý nhưng cũng không no được. Tôi tìm ra một mớ trái cây tươi, măng cụt, chôm chôm, vải. Những thứ này tươi ở bên Mỹ không có, kể thì cũng lạ miệng, lâu rồi chưa ăn, mỗi thứ tôi làm vài trái. Bụng tôi không đồng ý, vẫn còn ấm ức, tôi mở tủ lôi ra được một hộp cua Nga. Nga nhất định không còn là thiên đường xã hội chủ nghĩa nhưng cua hộp Nga hiệu Chatka tức là snow crab Tây Bá Lợi Á thì ăn đứt cá các loại cua hộp khác. Tôi khui ra ăn một phần tư hộp, chẳng hiểu có phải tại tôi chán đời hay không nhưng cua hộp ăn với trái vải tươi nó cũng chẳng nhịp nhàng. Tôi leo lên tận từng thứ ba.
Bàn thờ để đâu thì tôi không biết nhưng trong căn bếp chót, tôi tìm ra được một cái bánh chưng. Ôi, ý nghĩa của ngày Tết. Có thế chứ, văn hóa dân tộc vẫn còn được duy trì. Tôi vừa bóc lá chuối vừa chùi tay, cái bánh chưa kịp nguội, còn nhơm nhớp gạo nếp. Cắn một miếng, bánh chưng ngọt, nhân đậu rơi vãi ra khắp nơi. Lúc bé, tôi vẫn thích bánh chưng ngọt hơn là bánh chưng mặn, có lẽ tại nhân nó người ta nhuộm đỏ, lại không có mấy cục mỡ lều phều. Ðằng này, sang đến Pháp không ai buồn nhuộm ruột bánh chưng ngọt nữa, phải nếm mới biết, tại nhìn thì nó cũng chỉ vàng vàng màu đậu như là bánh chưng mặn. Tôi không chờ đợi đến, đâm ra bất bình. Ðang đói đêm rạng mùng một Tết, lục những ba căn bếp mà còn bị miếng bánh chưng lừa mặn ngọt. Ngày đầu tiên của năm vào ba mươi lăm tuổi, chẳng cần thầy, chẳng cần xăm, chẳng cần chim bói, tôi biết thế nào cũng xui.
CÔ PAPAE FIU
Phi trường Charles De Gaulle đóng cửa hai ngày vì sương mù, chuyến bay này trễ bốn tiếng, tôi biết. Anh chàng người miệt Bretagne này nói tiếng Pháp điềm nhiên tuy ở đây cách vùng bán đảo quê anh có mười ngàn cây hơn. Quày Air France như là một thứ sứ quán, bầu không khí đã bắt đầu rất Pháp. Tôi trao anh bịch hành lý đựng các thùng sách mới (cuốn tập truyện đầu tay của tôi vừa in xong, tựa tên “CÂY GẬY LÀM MƯA”, Tân Thư xuất bản, gồm mười một truyện, giá mười hai đồng, nghĩa là một truyện hơn được một đồng chút xíu), anh trao tôi một cái phiếu ăn miễn phí mười lăm đồng để giết thời gian trong khi đợi máy bay. Cuộc trao đổi văn hóa này, tôi leo lên lầu tính toán, đủ để qua bên phía bar ăn sò sống uống Long Island Tea khỏi cần ngồi bên quày tự phục vụ lấy ăn mỳ Nhật Bản Udon và uống Diet Pepsi. Ừ, lịch sự.
Cái bảng “Departures” nhấp nháy, tôi nhìn những chuyến bay vào buổi tối. Ngoài AF006, SFO-CDG (San Francisco - Charles De Gaulle) 9:45 Cổng 105 còn có vài ba chuyến Trung Mỹ, Manila, Tokyo, London, Úc Ðại Lợi, Tân Tây Lan. Trước lối vào phía tay phải, ở đây mỹ miều gọi là South Concourse, bộ lạc Philippines tụ tập vài năm người ồn ào nam phụ lão ấu chờ đợi, hình kỷ niệm chụp trước restrooms (nhà vệ sinh) đàn ông đàn bà, chốc chốc lóe lên tia flash trắng xanh. Xích lại gần thêm, lui ra, ôm vai nhau, đổi chỗ, ngắm máy ngang, ngắm máy dọc. Con nít lăng xăng đuổi bắt cười nói, vài người lớn cũng chơi trò ú tim nấp sau mấy hàng ghế. Trước lối vào tay trái, North Concourse, vắng vẻ hơn, vài người Nhật thẫn thờ qua lại. Ở giữa là cầu thang máy dẫn lên lầu ăn uống, phía dưới là tiệm Duty Free vắng vẻ. Ngay lối lên xuống, một ông đen lực lưỡng ngồi trên một cái xe đẩy hành lý quay ngược lại, quần áo chỉnh tề bất động cầm giỏ xin tiền cho một họ đạo Ki-tô. Thỉnh thoảng, như để duỗi người, ông ta lại dang hai tay ra thật rộng, lẩm nhẩm mấy câu Kinh thánh. Vài đứa trẻ cầm tiền cha mẹ đưa cho đến bỏ vào giỏ, tò mò nấn ná lại một vài giây. Cách đây vài năm, để ngăn các vị quảng bá tôn giáo này làm phiền người qua lại, tôi nhớ lại ngay phi trường LAX, dưới chân, trên đầu các thang máy lên xuống có kẻ một vùng an toàn bằng gạch đỏ với bảng giải thích bằng hai thứ tiếng “Ban quản trị phi trường không có quyền cấm những người quảng đạo thi hành Ðiều Một Tu Bổ của Hiến Pháp nhưng họ không được phép quấy rầy hành khách ở bên trong vạch đỏ vì lý do an ninh”. Tấm bảng này dạo đó cũng có hiệu lực trấn an được những người yếu bóng vía như tôi, phải chờ đợi ở phi trường tôi không bao giờ đứng xa đầu cầu thang máy, lỡ có gặp nhà truyền giáo nào nài nỉ chỉ việc bước qua vạch đỏ là an toàn tức khắc (dù cho sau khi chết có phải xuống địa ngục, cái đó thì hậu tính). Dạo này không thấy những tấm bảng kiểu đó được yết thị nữa, chẳng hiểu vì tệ nạn (?) này đã giảm hay là Ðiều Một Tu Bổ của Hiến Pháp (trong đó có tự do truyền bá) đã lớn mạnh với thời gian hơn cả những lý do nhỏ nhặt về an ninh như là ngã cầu thang?
Ðến lúc qua khỏi cổng kiểm soát vũ khí, vào đến phòng đợi của cổng 105 bốn mươi lăm phút trước giờ dự định thì nước Pháp lại gần thêm một bước. Mấy chục người ngồi rải rác chẳng có ai mang vẻ gì là Mỹ. Bây giờ vào tháng hai, ngoài dịp nghỉ, người Mỹ chắc ít ai sang Âu Châu chơi vào giữa mùa đông. Tiếng Pháp rì rào các góc, từng đám chào hỏi nhau, mấy anh tây chị đầm hôn má phải trái xã giao, vài người điềm nhiên ngồi hút thuốc dưới bảng cấm. Ngay cả với người nặng hai tai hay là điếc (nghĩa là không nghe được họ nói tiếng gì), quang cảnh trên cũng rất là “Pháp” ở hai điều vừa kể. Người Mỹ chỉ hôn nhau vào dịp gì đặc biệt, người Pháp thì thân sơ gì, mới gặp lần đầu giới thiệu cũng phải túi bụi “bise” nhau. Tôi nói thí dụ, học trung học, đến trường trước khi vào lớp, con trai con gái mươi, hai mươi người phải hôn đủ cả mười hay hai mươi. Có người hai cái, một bên trái, một bên phải, có người đến bốn, trở đi, trở lại. Nó là lễ phép khi đến, khi đi, làm tôi nhớ thằng bạn ViệtNam lúc cùng ở bên Thái. Mỗi lần sắp giao thiệp với người bản xứ, nó lại nháy mắt bảo tôi “Mày coi nè, nó sắp lạy tao, đó, thấy chưa”. Người Thái gặp ai cũng vái, chẳng cần là ông bà ông vải thì người Pháp gặp ai cũng hôn má, chẳng cần là tình nhân. Hơi phiền một tí, thì đã sao. Ðiều thứ hai là dân Tây hình như vô kỷ luật hơn ở bên này, những chữ kẻ “No Smoking” ngông nghênh chẳng coi ra gì cả, tuy là gần đây, dĩ nhiên phong trào chống hun khói người khác cũng đã lan sang tận đó.
Chuyến bay chỉ có mình tôi là người Việt, có lẽ đồng bào ta mải lo ăn Tết, ai ở đâu ăn ở đó, ai lấy máy bay đi đâu làm gì vào trước đêm trừ tịch. Tôi lắng tai nghe loáng thoáng, mấy người ở sau lưng làm nghề tiệm cơm ởL.A. biết mặt nhau bàn những chuyện lặt vặt về business “... Mickey Rourke, diễn viên điện ảnh, mới mua lại cái bar bên cạnh quán của tôi...” Tôi lên tàu, bụng mừng thầm vì tưởng chuyến bay xuất phát ở Los, có bấy nhiêu mạng thôi, thế nào chả kiếm ra được ba bốn ghế trống để mà nằm ngủ. Nào ngờ, tàu đã đầy sẵn quá nửa. Chuyến bay này khởi hành từ Papetee, Tahiti , ở Thái Bình Dương thuộc Pháp. Tahiti thuộc về Nam Bán Cầu, ở phía dưới Hawai cách Cali tám giờ máy bay và hiện nay đang vào hè. Câu chuyện trên tàu xôn xao thời tiết (xấu) ở Paris , sương mù được dân quần đảo nhiệt đới nhắc đến như là một tai họa kinh hoàng. Trên máy bay đại đa số là người Pháp, ngay cả người chủng tộc khác coi cũng rất là “Tây”. Cô chiêu đãi Tàu nói tiếng Pháp không mang giọng ngoại quốc, anh hành khách ngăm ngăm đen chắc người Phi Châu Djibouti , Afars và Issas. Co ro trên một ghế, cổ quấn kỹ khăn choàng len, ông Trung Phi hói đầu cũng chẳng có gì đen “Mỹ”. Týp đen này cũng không thể lộn với Giáo sư phụ giảng của Howard University ở D.C. Áo blazer xanh, kiếng đồi mồi gọng lớn, người trí thức Châu Phi văn hóa Tây điển hình. Tôi tìm ra hàng ghế 40 A, B, C window; 40D, aisle. Ðầu bên kia aisle, một cô tóc vàng nhuộm lăn tăn, còn trẻ, pull lót đen ngực không đeo nịt vú, quần jean trắng háng rộng đang ôm một cuốn sách bỏ túi của tủ sách “J’ai lu”. Bốn ghế tôi và cô mỗi người hai ghế. Mấy tờ Libé, Le Monde thiên hạ đã vơ hết, tôi lục giá đựng báo phía sau lưng tìm ra USA Today và Newsweek. Lật ra nhìn, cả hai đều ấn bản phát hành ở Âu Châu. Trang chót của Section I tờ USA Today, cái bản đồ khí tượng Âu Châu bốn màu lòe loẹt. Tôi nhìn Paris , 5 độ C (tối đa), hơn cả London .
Cho mãi đến mấy tiếng sau, vật lộn với hai chỗ ngồi để tìm ra một vị thế co giò cho êm ấm mà không được, tôi lịch sự nhường cả ba cho người con gái cùng hàng ghế. Nàng lăn ra yên ả còn tôi tự an ủi, hai chỗ hay một chỗ gì cũng khó chịu, thà để cho có người còn lợi dụng được để duỗi chân. Ðàn bà Pháp bình đẳng, cô ta đề nghị sòng phẳng tao một giấc, hết lượt lại đến mày, tôi lên cơn tử tế, chả sao, chả sao, rồi cũng thiếp được ngay sau khi cuốn phim bắt đầu được chiếu sau bữa ăn. Ðến lúc sáng, cô ta choàng dậy rất tự nhiên: “Họ có báo là máy bay đang bắt đầu xuống hay là tôi nằm mơ?” Cô ta nằm mơ, còn những hai ba giờ nữa gì đó mới đến, có lẽ tại mùi café sữa. Trong tàu chưa bật đèn nhưng vài người không ngủ được kéo màn cửa sổ nhìn ra ngoài làm ánh sáng hắt chéo vào bên trong. Tôi nhìn cô bạn đồng hành dưới cái ánh sáng phảng phất này rọi vào trong khi phần lớn thân tàu còn tối. Qua một đêm chung, cô thân mật dùng “tutoiement” với tôi mày tao.
Corinne ở Papetee được hai năm hơn, giờ đang hè như đã nói, về Pháp lục địa chơi với gia đình một tháng.Tahiti hiện ban ngày hơn 40 độ C nhưng vào mùa mưa rất ẩm. Tôi chưa bao giờ đặt chân đến Thái Bình Dương, dĩ nhiên là trong đầu đầy dừa xanh, cát trắng, tiếng hò thôn nữ hở ngực váy rơm và Gauguin. Ở Tahiti có ba chủng tộc - Corinne giải thích, người bản xứ, người Tàu (điều này giải thích cô chiêu đãi viên hồi nãy trước khi đổi phi hành đoàn ở San Francisco) và người da trắng, dân từ Pháp lục địa “métro”. Người Tàu đến đây di dân mấy đời để buôn bán, dân lục địa trắng làm công sở hải quân, Trung tâm Nguyên tử Thái Bình Dương để thử bom. Ðời sống cái gì cũng đắt đỏ hơn đất liền “Mày có tiền nghỉ hè hãy đến”. Cách đây mười lăm năm, người bản xứ còn hiền lành, chưa có trộm cắp, hiếp dâm như gần đây. Corinne lúc bé đã từng ở với bố mẹ nhà binh đồn trú ở Tahiti nên còn nhớ. Có lẽ cô này vì con cái dân võ bị nhà nghề nên đầu óc hơi hẹp, tôi tự nghĩ. Nàng than phiền gần đây có biến động chính trị, biểu tình, đình công ở địa phương. Vào năm ngoái, tôi nhớ lại, phải rồi, cũng nhờ câu chơi chữ tìm thấy được làm tôi thích thú mãi. Năm 1968, sinh viên ở Paris chiếm đường phố, cậy đá lót đường lên làm vũ khí với khẩu hiệu vô cùng lãng mạn “Dưới gạch lót đường là bãi biển”. Năm 1988, công nhân bến tàu Papetee đánh nhau với nhân viên công lực, tôi hồi tưởng, lại bật cười “Dưới bãi biển là gạch lót đường”. Hai mươi năm, nửa vòng trái đất, thiên đàng hạ giới theo Corinne đã bắt đầu ung thối. “Dân Tahiti rất hiền và dễ thương, nàng nói, chỉ trừ khi nào họ say rượu, nghĩa là suốt cả ngày”. Nhưng mà nói đi nói lại, vẫn lý tưởng chán, Tahiti núi lửa, bãi cát đen từ thạch nham, Bora Bora atoll, bãi cát trắng từ san hô, suốt ngày bơi lội. Việc dễ kiếm, lương làm không cao tuy là có đắt. Corinne ở căn nhà một phòng ngủ có hồ tắm và tí vườn mỗi tháng trả 4000 quan ($630 US). Lương chuyên viên điện toán cho ngân hàng Indosuez $25000, một năm cũng năm tuần được nghỉ, pas de (no) problème. Nàng có cái cũng nhớ nhà “Tao mong ở bên Tây có tuyết, về nhà tắm nước nóng nằm ngâm người trong bồn và ngủ trên giường với chăn đệm bằng lông ngỗng”. Ðó, đi đây thì lại nhớ kia là như thế. Hai mươi tiếng máy bay, bố mẹ từ Bordeaux (cách Paris 700 km về phía Tây Nam ở phía bờ biển Ðại Tây Dương) lên đón bằng xe, lại còn phải sáu bảy tiếng để lái về “Qua đêm ở Paris cũng được nhưng tao muốn về nhà sớm, ngủ trong phòng tao”. Ðược một lúc Corinne lại sợ. Sợ dân Paris mặt mày khó chịu đăm chiêu khó chịu, gắt gỏng và vội vã. Nàng tạm quên đi chuyện thiếu niên bản xứ vào nhà nàng mở tủ lạnh lấy bia ra uống và ngồi sa-lông coi vidéo thản nhiên. “Năm sáu đứa mười mấy tuổi, tao hỏi ‘tụi bay làm gì đó vậy?’ chúng trả lời ngon ơ ‘Thì mày không thấy sao, coi T.V.’ tao muốn đuổi nhẹ ‘Ê, OK, giờ tao về rồi tụi bây đi chỗ khác đi’, hên mà không đứa nào làm gì tao”. Cũng câu chuyện đó, giờ càng đến gần phi trường Roissy nàng lại thấy có cái hay. “Ở Pháp, tụi nó vào nhà mày là khiêng hết đi, cái gì không mang được nhiều khi còn phá nữa, ít ra ở Tahiti không có vậy”. Tôi nhún vai làm phép, phải nói cô này coi cũng được, cao lớn, xương vuông vắn, hai bàn tay đẹp. Con người phải mâu thuẫn chứ, mâu thuẫn là nhân tính. Ở xa thì nhớ, về gần lại sợ, con người thôi. Paris , Bordeaux có hay hơn Papetee, Bora Bora ? Cũng đều là nước Pháp. Tạm thời, có lẽ được thêm vài năm nữa. Tình hình ở Tân Ðảo (Nouvelle Calédonie) dạo này sôi sục đòi độc lập. “Dân Canak có vẻ dữ dằn hơn phong trào đấu tranh ở Tahiti ” Corinne nhận xét. Tôi hỏi “Ngoài ra, người da trắng ở Tahiti có kỳ thị lẫn nhau người mới người cũ như ở Tân Ðảo không?” Ở Tân Ðảo, dân da trắng lập nghiệp lâu đời “Caldoche” không ưa người da trắng “Zoreille” mới đến vài mươi năm sinh sống. Không, Corinne cho biết, ở Tahiti da trắng là da trắng, không phân biệt cũ mới, “papae” là “papae” thôi, người da trắng nào cũng vậy. Corinne cười. Và tất cả mọi người, bản xứ Tahiti , Tàu di dân, Tây trắng papae ai nấy đều “fiu”. Chữ “fiu” nàng giải thích đại để là trạng thái thông cảm và dễ dãi cóc cần. Fiu là phè phè, là tà tà. Fiu là “cool” như ông Phật (“O Phật, you’re so cool”, chữ của Hoàng Mai Ðạt). Ở Tahiti thường thì ai cũng phải fiu thôi.
Nhưng ởParis , hẳn là không vậy. “Tao chỉ sợ mới xuống máy bay đã gặp người giành giật ba cái xe đẩy hành lý. Ra ngoài đường, dẫm lên chân nhau mà chẳng thèm ngó lại”. Corinne nói, “Paris khó mà fiu”. Tàu đến nơi, Paris ở bên ngoài, tôi nhìn ra thấy đã tối om. Sáu giờ chiều, chúng tôi mới vừa ăn sáng xong, người còn uể oải. Tôi hơi tội nghiệp cho cô này, tuy là cô ta hơi có cái tinh thần thuộc địa trong khi nói chuyện. Phần đông ai cũng thấy, ở đâu thì cũng kiếm ra những thứ đáng chê, đến lúc gần trở về lại đâm ra tiếc. Corinne giờ này nôn nao với cái lạnh thèm muốn hay là đã bắt đầu hối tiếc cái nóng bỏ lại đằng sau cách đây hai mươi giờ máy bay? Tôi nhìn nàng trùm vào người hai lượt áo len cũng lục túi lấy khăn cổ ra choàng vào mấy vòng cẩn thận. Khăn cổ tôi không phải bằng Cashmere mà bằng Cashmore nhãn hiệu cầu chứng 100% acrylic made in Korea, mùa rồi tôi bị lạnh phải mua ở New York. Cũng ở khu Upper East Side nhưng không phải ở trong Bloomingdale’s, ở trong đường tàu điện ngầm, anh da đen bán năm đồng một cái. Tôi nhìn Corinne ái ngại, an ủi nàng một câu “Paris không fiu đâu nhưng còn đỡ hơn là New York ”. Nàng lên tinh thần hẳn, gật đầu.
Cái bảng “Departures” nhấp nháy, tôi nhìn những chuyến bay vào buổi tối. Ngoài AF006, SFO-CDG (San Francisco - Charles De Gaulle) 9:45 Cổng 105 còn có vài ba chuyến Trung Mỹ, Manila, Tokyo, London, Úc Ðại Lợi, Tân Tây Lan. Trước lối vào phía tay phải, ở đây mỹ miều gọi là South Concourse, bộ lạc Philippines tụ tập vài năm người ồn ào nam phụ lão ấu chờ đợi, hình kỷ niệm chụp trước restrooms (nhà vệ sinh) đàn ông đàn bà, chốc chốc lóe lên tia flash trắng xanh. Xích lại gần thêm, lui ra, ôm vai nhau, đổi chỗ, ngắm máy ngang, ngắm máy dọc. Con nít lăng xăng đuổi bắt cười nói, vài người lớn cũng chơi trò ú tim nấp sau mấy hàng ghế. Trước lối vào tay trái, North Concourse, vắng vẻ hơn, vài người Nhật thẫn thờ qua lại. Ở giữa là cầu thang máy dẫn lên lầu ăn uống, phía dưới là tiệm Duty Free vắng vẻ. Ngay lối lên xuống, một ông đen lực lưỡng ngồi trên một cái xe đẩy hành lý quay ngược lại, quần áo chỉnh tề bất động cầm giỏ xin tiền cho một họ đạo Ki-tô. Thỉnh thoảng, như để duỗi người, ông ta lại dang hai tay ra thật rộng, lẩm nhẩm mấy câu Kinh thánh. Vài đứa trẻ cầm tiền cha mẹ đưa cho đến bỏ vào giỏ, tò mò nấn ná lại một vài giây. Cách đây vài năm, để ngăn các vị quảng bá tôn giáo này làm phiền người qua lại, tôi nhớ lại ngay phi trường LAX, dưới chân, trên đầu các thang máy lên xuống có kẻ một vùng an toàn bằng gạch đỏ với bảng giải thích bằng hai thứ tiếng “Ban quản trị phi trường không có quyền cấm những người quảng đạo thi hành Ðiều Một Tu Bổ của Hiến Pháp nhưng họ không được phép quấy rầy hành khách ở bên trong vạch đỏ vì lý do an ninh”. Tấm bảng này dạo đó cũng có hiệu lực trấn an được những người yếu bóng vía như tôi, phải chờ đợi ở phi trường tôi không bao giờ đứng xa đầu cầu thang máy, lỡ có gặp nhà truyền giáo nào nài nỉ chỉ việc bước qua vạch đỏ là an toàn tức khắc (dù cho sau khi chết có phải xuống địa ngục, cái đó thì hậu tính). Dạo này không thấy những tấm bảng kiểu đó được yết thị nữa, chẳng hiểu vì tệ nạn (?) này đã giảm hay là Ðiều Một Tu Bổ của Hiến Pháp (trong đó có tự do truyền bá) đã lớn mạnh với thời gian hơn cả những lý do nhỏ nhặt về an ninh như là ngã cầu thang?
Ðến lúc qua khỏi cổng kiểm soát vũ khí, vào đến phòng đợi của cổng 105 bốn mươi lăm phút trước giờ dự định thì nước Pháp lại gần thêm một bước. Mấy chục người ngồi rải rác chẳng có ai mang vẻ gì là Mỹ. Bây giờ vào tháng hai, ngoài dịp nghỉ, người Mỹ chắc ít ai sang Âu Châu chơi vào giữa mùa đông. Tiếng Pháp rì rào các góc, từng đám chào hỏi nhau, mấy anh tây chị đầm hôn má phải trái xã giao, vài người điềm nhiên ngồi hút thuốc dưới bảng cấm. Ngay cả với người nặng hai tai hay là điếc (nghĩa là không nghe được họ nói tiếng gì), quang cảnh trên cũng rất là “Pháp” ở hai điều vừa kể. Người Mỹ chỉ hôn nhau vào dịp gì đặc biệt, người Pháp thì thân sơ gì, mới gặp lần đầu giới thiệu cũng phải túi bụi “bise” nhau. Tôi nói thí dụ, học trung học, đến trường trước khi vào lớp, con trai con gái mươi, hai mươi người phải hôn đủ cả mười hay hai mươi. Có người hai cái, một bên trái, một bên phải, có người đến bốn, trở đi, trở lại. Nó là lễ phép khi đến, khi đi, làm tôi nhớ thằng bạn Việt
Chuyến bay chỉ có mình tôi là người Việt, có lẽ đồng bào ta mải lo ăn Tết, ai ở đâu ăn ở đó, ai lấy máy bay đi đâu làm gì vào trước đêm trừ tịch. Tôi lắng tai nghe loáng thoáng, mấy người ở sau lưng làm nghề tiệm cơm ở
Cho mãi đến mấy tiếng sau, vật lộn với hai chỗ ngồi để tìm ra một vị thế co giò cho êm ấm mà không được, tôi lịch sự nhường cả ba cho người con gái cùng hàng ghế. Nàng lăn ra yên ả còn tôi tự an ủi, hai chỗ hay một chỗ gì cũng khó chịu, thà để cho có người còn lợi dụng được để duỗi chân. Ðàn bà Pháp bình đẳng, cô ta đề nghị sòng phẳng tao một giấc, hết lượt lại đến mày, tôi lên cơn tử tế, chả sao, chả sao, rồi cũng thiếp được ngay sau khi cuốn phim bắt đầu được chiếu sau bữa ăn. Ðến lúc sáng, cô ta choàng dậy rất tự nhiên: “Họ có báo là máy bay đang bắt đầu xuống hay là tôi nằm mơ?” Cô ta nằm mơ, còn những hai ba giờ nữa gì đó mới đến, có lẽ tại mùi café sữa. Trong tàu chưa bật đèn nhưng vài người không ngủ được kéo màn cửa sổ nhìn ra ngoài làm ánh sáng hắt chéo vào bên trong. Tôi nhìn cô bạn đồng hành dưới cái ánh sáng phảng phất này rọi vào trong khi phần lớn thân tàu còn tối. Qua một đêm chung, cô thân mật dùng “tutoiement” với tôi mày tao.
Corinne ở Papetee được hai năm hơn, giờ đang hè như đã nói, về Pháp lục địa chơi với gia đình một tháng.
Nhưng ở
Nguồn: talawas.org
No comments:
Post a Comment