ĐỖ KH. - KÝ SỰ ĐI TÂY: CHIẾC KHĂN VUÔNG LỤA / VĂN MINH QUẦY QUÁN / MINITEL HỒNG / TỜ GIẤY MỰC ĐEN / CĂN NHÀ BA BẾP / CÔ PAPAE FIU - phiếm


CHIẾC KHĂN VUÔNG LỤA

Chỉ mới đến trước cửa phi trường, tôi đã đánh mũi ngay cái mùi quen thuộc: mùi Pháp Quốc. Nó không phải cái mùi lò bánh mỳ Poitou, Le French Bakery, mùi Café Croissant Doré, La Pagode, cái mùi Tây của Phở 99 mà mãi một hôm cô bạn đầm từ Pháp sang nhắc nhở tôi mới biết. Ðang ngồi ăn bánh xèo trên lầu trong khi giọng hát Khánh Ly nheo nhẻo nheo nhẻo, ngay lúc nhắc nhở gì về Paris, cô ta chợt bảo “Thì Paris đây này” làm tôi giật mình. Ngước đầu lên khỏi đĩa bánh xèo tôi nhìn lên tường treo mới thấy. Có hình Tour Eiffel đóng khung, có hình Arc de Triomphe, có hình Ðiện Invalides thì phải. Phố xá vắng tanh như vào dịp nghỉ hè tháng tám hay tháng bảy, loe hoe ở trong góc hình một vài mạng du khách ngớ ngẩn. Thì ra “Phở 99” cũng mang một cái tên Tây, là gì thì tôi quên mất, một cái tên Tây đi kèm với tên Việt, như là Cathy-Huệ, như là Carol-Kim, như là Elvis. 

Ngày hôm đó làm tôi hơi quê với cô đầm cà chớn sang chơi Cali này. “Ờ, thì Paris”, tôi chỉ trả lời được bấy nhiêu. Nhưng lần này thì tôi nhận ra cái mùi Pháp Quốc thật (tuy là ở Paris, ngoài điện Invalides, Arc de Triomphe và Tour Eiffel, các bạn đừng lo, cũng có bánh xèo). Xe vừa đậu ngoài International Departures của LAX, ngay lằn trắng dưới bảng Air France (“The white zone is for loading and unloading only...” - khu vực trắng chỉ dành cho bỏ hành lý xuống, chất hành lý lên và cấm đậu...), tôi vừa lễ mễ khiêng mấy cái vali xuống vỉa hè đã bắt ngay được cái dáng của Kinh Ðô Ánh Sáng lập lòe. Ba ông tây ăn mặc business đứng ngoài nấn ná cái chút gió Santa Ana còn lại trước khi về nước, nhưng tại họ đàn ông nên tôi không buồn tả kỹ làm gì, và một cô loáng thoáng đi vào phía trong building. Áo blazer xanh chéo strict, váy plissé xanh, giày vernis, tóc vuông cắt ngang vai và không thể lầm lẫn, không thể nào lầm lẫn được, khoác Carré Hermès. 

“Cổ chuỗi ngọc trai, vai khăn Hermès” là thành ngữ thông dụng chỉ một týp đàn bà đầm, thông dụng đến nỗi người ta viết tắt và nói tắt được, CPCH (Collier de perles, Carré Hermès) tương tự như là NATO, UNHCR và ICBM. Cái chuyện Carré Hermès thì rất là khúc mắc, tôi không rõ nó có tự bao giờ, chỉ biết là mươi mười lăm năm nay nó càng ngày càng thịnh hành ở những nơi gọi là lịch sự. Bao nhiêu tuổi đeo Carré Hermès cũng có thể được, nhưng thường thường là lứa hai mươi - bốn mươi. Nó biểu tượng cho sự chững chạc thì phải, tuy là trùm nó hẳn lên đầu chạy vội để tránh mưa ngoài bờ biển ở Deauville vào tháng tư khi trạm nghỉ mát này vừa hồi sinh, nhất là nếu để băng đoạn đường giữa viện thalassothérapie và khách sạn Normandie thì coi cũng dễ thương (nhớ đeo kính mát Miki xanh cây nhạt gọng cổ có chút strass và đi giày Carel đế thấp không mang vớ). Nói tóm lại, không có vật tùy thân nào tượng trưng cho cái tinh thần Paris miệt Tây hơn là khăn vuông Hermès nếu bạn là phụ nữ, kể cả túi Vuitton (túi Vuitton bị lạm phát Nhật Bản và nhất là hơi nhiều Made in Taiwan). Thành thử ra, mới thoáng bóng kiều nữ này, tôi bắt ngay cái mùi đầm trở lại. BCBG (Bon Chic, Bon Genre), xin tạm dịch là đàn bà Pháp CNL - SNC (Con Nhà Lành, Sạch Nước Cản), tắm kỳ cọ kỹ và không bôi mùi nước hoa nặng. 

Ở bên Mỹ, chẳng khi nào thấy đàn bà khoác khăn Hermès. Ở Bolsa, lại càng hiếm. Cái khăn Hermès rất dễ nhận, nó có đủ kiểu nhưng ưa viền ngoằn ngoèo linh tinh những hình cột đền Hy Lạp, lá nho. Có khăn vẽ cảnh du thuyền, cảnh đi săn bằng ngựa, cảnh chơi golf nhưng không có khăn nào tả cảnh đá banh cà na hay là trượt sóng. Màu thì nó cũng đủ cả, xanh, tím, đỏ, nhưng hơi chìm và nhã nhặn nên cũng khó nói. Chữ Hermès lại đề trên khăn rất kín đáo, trải ra mà tìm mới thấy nên nhận diện loại khăn này phải có kinh nghiệm. Dễ nhìn ra nhất là cái sắc nước của nó. 

Khăn Hermès làm bằng lụa nhưng là một thứ lụa đặc biệt riêng của nhà Hermès. Có lụa Hà Ðông, có lụa Thái Lan, và có lụa Hermès. Nó hơi bóng, lại cứng hơn các loại lụa khác, thành ra khăn nào mà èo uột trên vai thì ắt không phải Hermès. Loại tơ này, hình như mỗi sáng ông Hermès, bà Hermès và các con, cô cậu Hermès phải dậy sớm ra vườn nhà cắt lá dâu cho tằm nó ăn hay sao thành ra chỉ có nhà Hermès có. Khăn vuông lụa thì thiếu gì nhãn; khăn Céline cũng là sang trọng vậy, khăn Dior tận Phi Châu người ta còn biết, cũng là lụa hết, nhưng không phải là lụa Hermès. (Ông Dior, bà Céline có thuộc loại ngủ trễ, tôi không rõ). Dậy sớm như vậy, cho nên nó đắt. Trong Duty Free Shop của phi trường LAX (phải nhá Boarding Pass mới vào được một vòng xem xét) thì một cái khăn Hermès $160, những 90 cm x 90 cm, như thế một phân vuông twill de soie vẫn còn rẻ chán, chỉ có hai cents. Nhưng mà vẫn đắt hơn những khăn hiệu khác, $100, $135. Người ta siêng năng, làm giàu là thế (early to rise...) 

Tôi có một bà bác, ở bên Pháp năm nay là mười năm. (Ðây là ký sự, nghĩa là toàn những chuyện có thật, có sao tôi nói vậy không phải là tiểu thuyết hư cấu từ đầu óc tôi lệch lạc và thừa phong phú). Bà cụ ưa tiết kiệm, hướng về quê hương, đi chợ được cái túi plastic hay giữ lại, vừa phủi nó cho phẳng phiu vừa than thở “Cái túi này, ở bên nhà bây giờ không có được”. Sống ở bên Tây, lại theo tiêu chuẩn ở bên nhà, thì tôi cũng lạ, (nhưng chắc không lạ được bằng sống ở bên nhà, lại theo tiêu chuẩn ở bên Tây). Cái gì recycle (tái dụng) được, bà bác tôi recycle hết; bao giấy, bao nylon, thùng carton, chỉ trừ có lon nhôm nước ngọt là cụ không có giữ, dùng để bày hoa trên bàn thờ cụ thấy thiếu thẩm mỹ. Áo len đan xong không vừa ý, cụ gỡ ra lấy len đan lại kiểu hợp thời trang hơn; vải vụn cụ cất một bên, nếu không đủ để may gối thì cụ làm giẻ nồi hay nhét vào dưới khe cửa mùa đông gọi là cho đỡ gió. Chuyện bà bác tôi ăn nhập gì đến đầm BCBG, rồi bạn sẽ thấy. 

Nếu cụ ra chợ Tàu phố Mười Ba ở Paris nhân ngày cửa hàng Tang Frères hạ giá mấy thùng mỳ gói mà đầu lại quấn khăn Hermès thì cũng chẳng có gì để nói. Ðằng này, một hôm sang nhà cụ, vào trong phòng ngủ, tôi thấy một cái bao giống như là bao gối đầu. Nói thế thì phạm thượng, thật ra nó là một cái bao cụ may lấy, dùng để đêm đút hai chân vào cho khỏi lạnh. Ý kiến phát minh rất dân tộc này từ đâu ra tôi không rõ, có lẽ tại cụ không quen mang vớ, nhưng tôi thấy rất là ngộ nghĩnh, đại để như những chuyện hỏa tiễn Sam 2 bắn không đến máy bay B52, ta gỡ bộ phận bằng sắt ra thế vào bộ phận bằng tre cho nó nhẹ, nó bay cao hơn chẳng hạn. Phía ngoài của cái bao làm bằng vải nhung màn cửa, tuy có tróc nhưng chưa bạc lắm, vẫn giữ được màu xanh cây trang nhã. Tôi xin nói rõ là phía ngoài, vì người ta ai cũng thế, bao giờ cũng ráng giữ bên ngoài cho trang trọng và đẹp đẽ, đó là căn bản về thể diện. Bên trong thì khác, vớ được miếng vải xấu xí nào lót nó mà chẳng được, có ai để ý. Tôi cũng chẳng để ý và chắc cũng chẳng ai để ý đến miếng vải hoa hoét vàng bà bác dùng lót ở bên trong cái bao tối ngủ để thọc chân. Vất ở trên giường, nó cũng chỉ thập thò được một tí. Nhưng vợ tôi là người tinh mắt (nếu không tinh thì đã chẳng chịu lấy tôi, dĩ nhiên rồi) khều tôi nói khẽ: “Ê, khăn vuông Hermès”. 

Tôi không tin, nhìn kỹ lại. Làm sao có chuyện đó. Bà bác tôi, những ngày tế lễ, mặc đồ đẹp để chụp hình mới vào tủ gỡ cái khăn quấn đầu thứ năm, bảy đồng gì đó còn giữ nguyên trong giấy bóng kính, mang ra đội vài tiếng rồi lại xếp vào tủ trở lại trong bao origin của nó đợi dịp sau. Với polyester cụ còn kính trọng như vậy, có lẽ nào cụ lại đối xử tệ với hàng lụa thế kia. Tôi nhất định không tin, “no way”, chắc là khăn gì đó. “Khăn Hermès, cái sắc lụa Hermès, anh nhìn mà anh không biết”, vợ tôi quả quyết. Tôi lại gần, lộn cái bao ra, thì khăn Hermès. Bà bác tôi bị bắt quả tang, hơi xấu hổ, thấy cần phải phân bua: “Nó xấu xí nhưng còn lành lặn, cũng còn dùng được nên mới nhặt mang về làm vải lót ấy mà, bên trong mà sao cháu cũng thấy”. Tôi quan sát kỹ, cái khăn lành lặn thật, cũng chưa bị cụ cắt xén khúc nào “còn dùng được chứ, sao bác lại lót bao gối làm gì, tốt chán, bác cho cháu mang về, may quần xà lỏn” tôi năn nỉ cụ. Tôi gỡ chỉ ra, mang về may quần xà lỏn, cho đến nay vẫn chưa ai biết nhưng ở đời nhiều chuyện không ngờ tới được, lỡ hôm nào xui xẻo đụng xe, người ta chở vào nhà thương cũng còn mát mặt với mấy cô y tá. Như bên Pháp các bà mẹ vẫn ưa dặn con, ra đường nhớ thay đồ lót, đề phòng trường hợp bị tai nạn. 

Tại vì, nhân tiện tôi nhắc đến, thời trang đồ lót đàn ông từ vài năm nay là đổi kiểu trở về quần xà lỏn nhưng lịch sự làm từ khăn vuông Hermès thì nhờ bà bác tị nạn bên Tây, chỉ mình tôi có. 

Câu chuyện này Tây chứ, tuy có phải là “đi Tây” hay “về Tây” thì tôi không rõ. Tôi là người Cali hay người Paris, người Bolsa hay người Porte d’lvry tôi chẳng biết. Ðiều này cần suy nghĩ kỹ, có lẽ đến cuối loạt bài này tôi mới có thể tự trả lời. Tôi là người ở Mỹ từ một năm nay hay là tôi là người về Pháp sau 12 tháng? Lúc đi, lúc về, thật ra ở đâu cũng thế. Thôi thì để phù hợp với đề tài, cho là tôi đi Tây đi. Nhưng chuyện đi Tây đến đây chỉ mới lẩn quẩn ở phi trường LAX và chung quanh cái khăn vuông Hermès thì cũng chán. Khăn vuông năm nay, mẫu được thời trang ưa chuộng nhất là “Pierres d’Orient et d’Occident”. Muốn sành điệu cho trót xin đừng dùng những mẫu đã cũ, trừ trường hợp để may thành quần lót. Nhưng một cái khăn vuông có đủ để làm cả một thành phố hay không? Ngày trước, Nguyễn Tuân chỉ có mỗi một cái vali đã làm mê mẩn, phải ra nhà ga thổn thức những chuyến tàu xuôi Nam. Tôi ra đến phi trường, bắt gặp một cái Carré Hermès gần quày Air France, cũng nôn nao như là đã đến được Tây. 






VĂN MINH QUẦY QUÁN

Cái khoảng từ năm đến bảy giờ tối ở những quán café thuộc những nơi cư ngụ là cái khoảng dành cho diễn đàn thời luận. Quán café ở nơi cư ngụ khác quán café ở chốn ăn chơi ở chỗ ẩm khách đều là những người quen biết. Ðây là quán nước gần nhà mỗi chiều mỗi ghé trước khi ăn tối, trước giờ thông tin truyền hình thường nhật và hạnh phúc mái ấm gia đình. Café cư ngụ là nơi thứ Tư ghé ngang qua để đánh Loto, là nơi Chủ nhật đến để bàn cá ngựa, là nơi mua bao thuốc mỗi ngày. Nhưng không phải café nào cũng là Tabac bán thuốc, café nào cũng có PMU (Pari Mutel Urbain) cá ngựa cho nên nhiều người có khi phải ghé cả ba nơi trước khi về được đến nhà. Nơi đầu, uống ly bia, nơi thứ nhì uống ly pastis, nơi thứ ba uống ly rượu vang. Thường thì người ta uống đứng ở quày, nói dăm ba câu chuyện với anh hàng nước, bà chủ quán và người đứng cạnh. Uống đứng nó không có vẻ lê la, uống ngồi ở những nơi này dành cho tình nhân, (thay vì gọi điện thoại ba tiếng đồng hồ liền cho nhau như ở Mỹ, tình nhân ở bên Tây rủ rê nhau ra ngồi café mà tỉ tê). Ngoài ra uống đứng còn có cái lợi khác là giá được chính phủ ấn định, ở đâu cũng thế, ba quan rưỡi một tách expresso thí dụ, trong khi uống bàn, uống hàng hiên tùy nghi của quán, muốn tính thế nào cũng được, năm quan ở một nơi bình thường, có khi hai mươi quan ở chỗ người ta lượt là qua lại. Nhưng vấn đề chẳng phải là sự khác biệt mấy đồng, ở café chòm xóm, uống đứng là dân chủ, là phát biểu mạnh dạn trước cộng đồng, là lương thiện và dõng dạc, quày café như là forum nghị hội ngày nay của những công dân tự do của đô thành (cité). Dân lành chính thức, nghĩa là những người hiện diện đều đặn trong quán đã được một thời gian, từ vài ba năm nay hay là từ sáu bảy tháng, được đóng vai “sang tộc” (patricien) đường hoàng, còn khách đi ngang hay những người thập thò mặt còn mới lạ chỉ được làm “tiện dân” (plébéen) đứng nghe gật gù mà không có quyền phát biểu. 

Kẻ tay không và người đeo kiếm, thật ra thì cái văn minh quày quán, nền dân chủ tựa “zinc” (nhôm lót mặt quày) ở Pháp không đến nỗi khắt khe. Khỏi cần thi quốc tịch, không cần thề thốt đá trăng với hiến chương Ðệ Ngũ Cộng hòa để mà hội nhập. Hiểu biết qua loa về khí tượng, trời nắng trời mưa thuộc tên vài con ngựa và tên vài tay nài là đủ để tham dự vào một cách tích cực. Ðứng tựa quày cầm ly blanc sec người Âu, người Phi, người Á, kẻ khề khà cái giọng ngoại ô Paris bình dân, người bập bẹ tiếng lai miền lục địa Ấn, trước kết quả xổ số loto mọi người đều bình đẳng. Có khi câu chuyện chính trị trở thành gay gắt nhưng consenscus ở ngoài bar bao giờ cũng là mọi người đều “con” hết, chính phủ đang cầm chính “con” nhất nhưng mà đối lập cũng “con” luôn (“con” là chữ thông dụng trong tiếng Pháp hàng ngày, nghĩa đen xuất phát từ chỗ kín của cơ thể phụ nữ và nghĩa thường có thể dùng để diễn tả mọi sự không được hoàn toàn. Triết lý café tựa chung ở một câu buông thõng trống không như “Ben, c’est con” để không nói về gì hết và nói về tất cả, tóm tắt tuyệt vời cái tương quan nhân sinh và vũ trụ - weltanschauung - giữa trầm luân và chaos không ngừng nghỉ mệt).

Câu chuyện ở quày quán không phải lúc nào cũng là chuyện tầm phào như thế. Paris nhiều café, nếu mang điển tích ra mà kể thì làm sao xiết. Ở đây, đường Delambre vào thập niên hai mươi anh Hai Ernest (Hemingway) làm quen với Gatsby Ðại huynh, bên kia Montparnasse, trước Đệ nhất Thế chiến, Léger và Soutine từng ngồi đợi Modigliani “Sao Chagall bữa nay không đến?”. Có quán ở gần Grands Boulevards bày viên đạn bắn vào lãnh tụ Jean Jaurès, có quán ngay Petit Clamart còn di tích của đạn bắn hụt lãnh tụ Charles De Gaulle. Bàn đá hoa thế kỷ mười chín hay bàn formica của thập niên sáu mươi, trang trí nouveau classique hay post-moderne, lừng danh thế giới hay tối tăm ngõ hẻm thì cũng thế, café ở Paris là nơi gặp gỡ và trao đổi. Có nơi thanh lịch nhà triết gia nhanh trí này uống xong cốc nước đã đánh cắp được cả quyển sách sắp ra của nhà triết gia thời trang kia như chuyện mới xảy ra gần đây, có nơi lụp xụp tôi và anh lương thiện bàn luận về chương trình truyền hình tối nay. Dĩ nhiên, nếu bạn muốn uống Rum St James ở quán gần nhà Gertrude Stein cũ cũng được (cạnh vườn Lục Xâm), hay ra Deux Magots kề cận với du khách Nhật để hồi tưởng Balzac mặc dù ngày nay không còn bán rượu absinthe. Tôi dạo trước, lúc còn chưa chịu được rượu, đã có lần ngồi Dôme gọi Gin tonic, đợi người bồi quay lưng đi đổ hết Gin vào lon đá để uống tonic xuông cho người dễ chịu. Dần dà hơi men rồi tôi cũng dạn, giờ tôi ra quán gần nhà nhất để uống Panaché bien blanc (ít bia và nhiều limonade) nghe dăm ba câu chuyện chẳng có gì là văn học nghệ thuật và lắc vài bàn tin. Bỏ đồng cắc vào juke-box (1), mươi năm trước có bài hát của Renaud: 

“Andy Warhol 
À la Coupole 
Peint les Gambettes 
De Mistinguett...” 
(Andy Warhol 
Ở hàng Coupole 
Ngồi vẽ cặp chân 
Nàng Mistinguett...)

La Coupole, Le Dôme, Lipp, Les Deux Magots, Le Select, Le Café de La Paix v.v.... và những quán Café “généric” không tên tuổi, Café du Départ, de I’Arrivée, ở mỗi tỉnh trước mặt nhà ga (Café de La Gare) hay trước trạm métro. Bỏ đồng cắc vào juke box bây giờ có bài hát của Souchon: 

“Le soir dans les bars le cafard se flingue au pastis 
On rêve mal de choses infernales 
Les cheveux plastifiés de Victoria principal...” 
(Tối trong tiệm rượu diệt cái buồn bằng ly pastis 
Mê tưởng chán chường những chuyện tà gian 
Mái tóc bọc nhựa của Victoria Principal...)


Victoria Principal (đào thương trong phim bộ Dallas) ngày nay nổi tiếng hơn là Mistinguett tuy là café La Coupole bao giờ cũng nổi tiếng hơn café “généric” ở ngoại ô. Nhưng chẳng biết được ngay cái quán gần nhà tôi ở miệt Ðông Nam chẳng hạn, cũng có thể tìm ra dấu vết của đảng cướp vô chính phủ tung hoành vào thời Bell Epoque, nửa thảo khấu nửa hào kiệt, La Bande à Bonnot. Trong cái băng được dân gian huyền thoại hóa ngày ấy, nhà thơ Octave Garnier chưa thành danh về thi ca thì đã bị cảnh sát bắn chết, một người khác vào tù, sau khi được thả hoạt động cách mạng và viết lách, về già ai cũng biết, là Victor Serge. Ðó là tôi nói về Nogent sur Marne. Ði qua bên kia bờ sông (Marne) đến Champigny (sur Marne), vào quán khác, có người bảo “Mày biết không, trước Ðệ nhị Thế chiến, Pierrot le Fou thường đến đây”. Pierre le Fou cũng là một thứ cướp ngang tàng, lái xe traction tay cầm tiểu liên, lưu danh hậu thế ở những ngoại ô đìu hiu. Thì ra dân gian cũng có những anh hùng của họ, những tay anh chị tài hoa vào cái dạo trước khi truyền hình cả ngày lẫn đêm trong từng nhà chớp nháy. 

Ngày nào đó, có lẽ cái văn minh hàng quán sẽ suy đồi như đế quốc La Mã, người ta sẽ thôi ra café mà đóng cửa nằm nhà mê mẩn đài này đài kia (Ðêm trầm nhạc dế đêm mông lung/.../Thơm nồng mùi tóc Connie Chung... như bài thơ tôi đọc được ở Mỹ đã bắt đầu cho thấy). Nhưng hiện giờ, cám ơn mọi người, nó vẫn sung sức mặc cho các tài tử hay anchorwoman xịt thuốc khử trùng lên tóc. Người ta vẫn đứng quày café rất đông tuy là nhân vật đứng quày café điển hình đã được hiện đại hóa. Người Pháp ngoài quán ra không còn là cựu chiến binh 14 - 18 đầu đội béret nữa (giống như trong quảng cáo nước suối Perrier ở Hoa Kỳ) mà được thay thế bằng nhân vật “Beauf” của họa sĩ Cabu. Beauf, từ chữ “Beau Frère” (anh, em rể) trong thập niên này tượng trưng cho người Pháp trung bình, cựu chiến binh Algérie mắt lồi, có râu và có bụng, vững niềm tin tuyệt đối vào những giá trị chân truyền như rượu nho và hội túc cầu Olympique de Marseille, bà nhà tôi và xe hơi hiệu Peugeot. Thật ra thì người “Beauf” ở đâu cũng có, không cần phải sang Pháp ra café đầu hẻm mới được chiêm ngưỡng dung nhan. Ra café Bolsa ta cũng thấy được tuy là hình thái có hơi đổi khác và Beauf tị nạn có khi còn biết cả làm thơ như đã dẫn (Dân tộc Việt Nam là dân tộc thi sĩ thì Beauf Việt Nam có làm thơ cũng chẳng gì lạ). 

Câu chuyện giữa các Beauf ở quày quán vào cái màu sương mù nhưng ấm hơn thường lệ năm nay đang sôi nổi về vấn đề nhà ngục. Mỗi tối thời sự truyền hình cứ cho coi cảnh cai tù đánh nhau với cảnh sát, hiến binh lưu động ai mà chẳng thích. Cai tù thì cũng là người, có vợ có con, có tiền nhà trả góp nên họ đang làm reo vì nghề nghiệp đang bị đe dọa. Ở Pháp, hiện chỉ có 32000 chỗ cho người nằm ấp mà dân số bóc lịch lên đến 45000. Thay vì xây thêm tù để cho người gác còn có việc thì bản phúc trình của dân biểu (thân chính) Bonnemaison lại đề nghị giảm bớt số phạm nhân bằng đủ cách. Thí dụ bắt những người tội nhẹ tham gia vào những việc lợi ích chung, quản thúc tại gia những người mang án ngắn hạn, tăng việc giảm án cho những thành phần hạnh kiểm tốt. Những vấn đề này nếu đem ra áp dụng, về lâu dài nước Pháp có trở thành thái bình thịnh trị như đời Nghiêu Thuấn hay không thì chưa ai biết được. Người vào tù trước giờ chẳng mấy ai chừa được tật cũ, thường ở tù ra thì lại ưa tái phạm nặng hơn nên không phải là cái ông Bonnemaison này không có lý. Phương pháp “nhẹ” này có làm tăng số người hoàn lương lên tôi không muốn cãi, chỉ biết nó trước tiên giải quyết được một phần vấn đề chật chội ở trong các đề lao (Ðể so sánh, tiểu bang Cali hiện cũng đang có vào khoảng ấy tù nhân với một dân số chỉ 35% dân số Pháp. Nhưng ở Mỹ, cái gì cũng lớn hơn ở Âu Châu nên chẳng thể nào so sánh được). Ðằng nào thì không phải trẻ em nào cũng trở thành thần đồng điện toán được, không phải thanh niên nào cũng thành thiên tài thị trường chướng khoán một cách dễ dàng (nhất là sau cái Krach quốc tế cách đây hai năm). Có đứa thiếu tưởng tượng không ngồi nhà viết program cho vidéo game mà lại ra đường hút xì ke với bạn, có người không raid được corporation (1) phải cầm nhầm BMW bỏ túi để giật le với đào. Những kẻ này, nhà đã không dậy được thì bản phúc trình Bonnemaison bảo đừng nên để cho bọn cướp của, giết người trong đề lao nó dậy, giam chung vào với những tay anh chị họ chẳng tử tế được hơn, lại còn tốn tiền nhà nước... trả cai ngục. Và dĩ nhiên là giới cai ngục không đồng ý, quyền lợi họ bỏ đâu, họ dọa đình công ngay, tụ họp trước các cửa nhà lao hò hét đòi làm loạn. Cai tù làm loạn, âu cũng là cảnh hiếm có nên mọi người đều bàn tán. Nhưng bản đề nghị Bonnemaison còn có một điểm tuy phụ trội thôi cũng đủ làm quần chúng xôn xao. 

Một trong những thành kiến được Beauf ưa chuộng nhất vào giờ apéro là nhà tù ở bên Tây sướng quá. (Ừ, nếu không sướng sao tỉ số tái phạm lại cao đến thế, rời ấp ra người nào cũng muốn vội trở lại). Huyền thoại kể rằng nhà tù ở Pháp thuộc hàng ba sao, nghĩa là tương đương với khách sạn loại trung lưu. Tôi nghe nói thế, tuy tôi mới chỉ ở được khách sạn hai sao thôi ở ngoài đời, tôi cũng không vội gì vào Khám Trung ương Melun hay Fleury-Mérogis để mà kiểm chứng. Nhưng ở quày café, cụng ly rượu đỏ, cụng ly rượu trắng, các vị công dân gương mẫu đang đợi vợ làm xong cơm chiều thường ưa quả quyết với nhau như vậy. Nhà tù ở bên này hàng ba sao, còn có cả truyền hình cho chúng nó xem Dallas, thảo nào xã hội không càng ngày càng tệ. Ấy, cứ như thời Hitler, đem bắn hết là xong, của rơi ngoài đường không ai nhặt. Tôi xin lỗi, cái luận điệu này tôi thấy hơi cực đoan, chẳng khác gì trẻ em đêm cứ khóc, cầm búa đập vào đầu nó mấy cái mạnh mạnh coi nó có nín ngay không. Vâng, đã sướng thế, có truyền hình cẩn thận để xem đá bóng, vậy mà bạn biết Bonnemaison còn đề nghị gì không? Thành lập trong các nhà tù những “căn phòng tình ái” để thỉnh thoảng tù nhân còn được chồng, vợ, bạn trai, bạn gái phía bên ngoài đến thăm qua đêm. 

Cái chuyện ái tình ở ngoài đời đã là hấp dẫn, dĩ nhiên ở tù nó lại càng nồng nhiệt. Ðã khách sạn ba sao thì chớ, lại còn cho cả phép dẫn đĩ vào. Ðây chẳng thiệt thòi gì cho tương lai người làm nghề gác ngục nhưng quần chúng quày bar lại lấy cái điểm này làm đề tài chính để mà sôi sục. Người lương thiện đã phải chia sẻ Victoria Principal với bọn đầu trộm đuôi cướp, giờ nếu mà cho phép đĩ vào thăm chúng nó trong tận ấp nữa thì thật là quá quắt.






MINITEL HỒNG

Năm nay, cả nước Pháp quay về quá khứ, ngoài đường bày bán đủ thứ đồ kỷ niệm Cách mạng, T-Shirt, gạt tàn cho đến Champagne. Logo chính thức của Ủy ban Kỷ niệm là ba con chim liền cánh xanh trắng đỏ, tôi không biết rõ do ai vẽ nhưng mà coi giống nét của Folon (Nếu tôi không lầm Folon người Bỉ, giải Goncourt 87 cũng người Bỉ, nước Pháp dạo này rộng lượng với họ hàng nghèo ở Wallonie). Nhìn về quá khứ, ai chẳng biết Paris lịch sử từng khúc đường nhưng từ Mỹ sang, lạ nhất là những cái tân tiến của Paris. 

Sao lại có thể có chuyện đó được, Paris cổ kính, Paris văn hóa này kia ai cũng nhận nhưng Paris làm sao tân tiến được. Tân tiến về thời trang, về thẩm mỹ, về lối sống tôi không nói. Tôi muốn nói Paris có nhiều cái tân tiến về kỹ thuật, về vật chất trong đời sống hàng ngày mà ở Mỹ sang phải lạ. Nó nhỏ nhặt thôi, nép mình trong cuộc sống, ở đây có lẽ chẳng ai để ý, có lẽ phải đi xa về mới nhận được ra. Không lẽ lại mở đầu mục hiện đại của thành phố bằng cái này nhưng thôi tôi cứ nói vì đây là cái người du khách dễ gặp nhất và có lúc cần dùng. Cái cầu công cộng. Cầu tiêu công cộng ở Paris thường ở trạm métro lớn hay có, ở trong có cả đánh giày (cireur) cho nên người Việt hai, ba mươi năm trước ưa lịch sự dùng chữ “đi xia”. Kính lão đắc thọ, tôi xin nói về cái cổ kính trước. Cầu công cộng thuộc quyền cai quản của RATP ở Place Madeleine vẫn còn được giữ nguyên như vào lúc đầu thế kỷ. Ghế da, cửa sổ vernis, gạch lót hoa, kính chạm 1905 đã đành, quảng cáo trên tường cũng thuộc vào thời đó, bồn sứ, vòi nước, tất cả đều din như trong Viện Bảo tàng. Thuộc vào loại gìn giữ thế này chỉ còn có hai cái (cái kia ở Royal) nhưng rải rác các métro vẫn còn nhiều nơi mở cửa tuy là có ảnh hưởng của tám thập niên thay đổi. Trong những cầu này, thường có một bà lớn tuổi, áo đen, tóc búi, kính lão ngồi đan áo để trông coi. Nhân vật dame-pipi này rất Pháp, cũng như nhân vật concierge giữ nhà ở Paris. Giá ấn định là hai quan hai mươi, bạn nhớ để lại tiền lẻ. Ở các hàng quán có hạng, nhiều khi vào cầu cũng có bóng dáng các bà này, dĩ nhiên trong quán đâu có bắt trả tiền thêm về mục này nhưng thấy Dame-Pipi là phải “tip” dù miễn phí hay là có giá ấn định do thị xã đặt ra. Các bà này không còn bao nhiêu mà hình như không ai kế nghiệp cả nên càng ngày càng ít đi. Cầu công cộng giờ phải hiện đại hóa, bớt tốn kém nhân công cho nên Jean Claude Decaux xuất hiện. 

Cái ông này ở Bolsa cũng là chỗ quen biết. Bạn có để ý cái trạm xe buýt che mưa gió mới đặt dạo này ở Nam Cali? Hai mặt kính, một cái mái và quan trọng nhất, một phía hông dành riêng cho quảng cáo (có hình ca sĩ Ngọc Lan đang mơ màng). Nó là cái Abribus Decaux giống hệt những cái Abribus Decaux ở Pháp, ở Bỉ, ở Thụy Sĩ, ở Ðại Hàn gì đó. Ông này xách cặp đến một thành phố, hỏi hội đồng thị xã có muốn chỗ trú ẩn cho người đợi xe buýt hay không, ông đặt cho free. Ông chỉ cần lấy tiền quảng cáo, nếu khó khăn chưa chịu thì ông đặt thêm cái bảng hiệu chỉ đường, cả bản đồ thành phố nữa, bản đồ thành phố ông đặt một mặt, mặt kia ông quảng cáo. Muốn dân chúng khỏi vất rác ra đường, ông cho không thùng rác, thùng rác của ông cũng có quảng cáo ở trên. Gì ông cũng tặng hết, ông chỉ tính thân chủ của ông tiền quảng cáo, thành phố nào chẳng chịu, thế là ông giàu. Ghế đá công viên, bản đồ chỉ đường ông làm xong, giờ ông quay sang cầu tiêu. Cái cầu Decaux dĩ nhiên cũng có quảng cáo. Ði ở đường bạn có thấy nó bằng xi măng trang nhã, loại đúc sẵn, màu vàng nhạt, to hơn cái tủ đựng quần áo một tí. Nó một chỗ ngồi (tôi muốn nói, nó đặt riêng ra từng đơn vị một), cửa ra vào bóng loáng như sắt máy bay. Quảng cáo có lẽ không đủ lời, bạn phải bỏ vào một quan vào cạnh cửa nhưng một quan này đáng đồng tiền bát gạo. Cửa sắt tự động thụt vào, đèn ở trong bật sáng, nhạc êm dịu nổi lên, bạn bước vào, cửa tự động đóng lại. Bên trong ấm cúng, quạt thì hút hơi thoáng khí, quạt lại phà hơi nóng điều hòa. Mà sạch thì không thể nào chê được tại vì cả cái sàn bạn đang đứng, cả cái bồn, cả cái phòng đến ngang người, một khi bạn đi ra sẽ tự động quay ngược xuống để mà tẩy uế hoàn toàn bằng máy với thuốc sát trùng như trong car-wash. Vệ sinh như thế còn hơn nhà thương nhưng chỉ phiền một cái, lỡ máy mát lên cơn điên lúc mình đang ở trong sập cả nửa phòng xuống xịt nước kỳ cọ thì mình làm sao? Thì mình chết, vậy thôi. Có một người mất mạng rồi, một em bé gái vì cân không đủ nặng, cầu tưởng là không có người. Ở ngoài có đề cẩn thận, đừng bao giờ để con nít vào một mình cả, biết đọc cũng có lợi. Còn máy điên lên thì tôi chưa nghe nói, chẳng qua chuyện này cũng như đang đi xe hơi tự nhiên chân ga rú lên vậy như nhãn Audi người ta đồn một dạo, xe nó điên thì cũng... chết chứ biết sao. Không phải vì thế mà không ai đi cầu máy Decaux nếu bạn là con người cầu tiến. Chẳng ai ngăn được sự phát triển, dù muốn dù không. 

Paris là thành phố nhỏ hẹp, mà hình như số chó cư ngụ nội thành đông chẳng kém số người, thành thử ra, di chuyển trên hè phố, bạn thấy ngay vấn đề. Chó đã là chó thì làm sao biết đọc quảng cáo nên vấn đề này ông Decaux không buồn giải quyết. Giờ người ta đang bàn chuyện biên phạt chủ nhân nếu con vật trung thành không chịu đi xuống rãnh (Ở Paris, vỉa hè ngay phía dưới có rãnh nước chảy mang vào cống). Trong khi chờ đợi luật lệ được ban hành, thị xã Paris dùng một biệt đoàn moto lưu động để đáp ứng với tình thế này. Cái cảnh này, nếu bạn gặp được, cũng bõ cái vé máy bay để sang Tây. Moto dùng vào việc này thuộc loại đặc biệt, cồng kềnh nhưng đẹp mắt, coi như trong phim khoa học giả tưởng tự hành tinh nào xuống. Người lái, có khi là một cô kiều diễm tóc vàng cân đối, giống như là Sigourney Weaver trong phim “Alien”, mặc đồ phi hành gia trắng toát đội nón, coi còn oai gấp mấy phi công chiến đấu cơ. Gặp người và máy này rà rà trên vỉa hè, thấy ở đâu có bãi thì thắng lại. Ðằng sau moto máy hạ xuống, hút ngay tang vật, còn quét rửa vài cái bằng chổi theo sự điều khiển của space captain điềm nhiên ngồi đàng trước vặn nút. Tôi đi đây đi đó cũng nhiều rồi, chưa ở đâu tôi gặp được một cái cảnh phải trắng mắt ra mà theo dõi như thế. Tôi không dám nói là người lái loại moto này được tuyển theo nhan sắc nhưng họ bận quần áo đẹp, Paris là thành phố đẹp, vỉa hè cũng đẹp và cái cô tôi chứng kiến lần đó lại cũng đẹp nữa. Bấy nhiêu cái đẹp đó hợp lại để khai trừ cái bẩn, không phải là cảnh đáng coi sao. Tân kỳ đã đành, mà đẹp nữa, tôi nhấn mạnh, tôi mà nói láo thì bị loại moto này cán chết. Người đi du lịch ưa nói ngoa nhưng mà tôi nói thật, tôi thề thốt. Ðàn bà đẹp, mặc quần áo đẹp, lái xe đẹp, điều khiển máy hót phân chó thì tất cả các thị trấn trong đời tôi đi qua, chỉ có ở Paris. 

Paris, nhân viên nhà nước cầu kỳ, các cô biên phạt thì mặc quần áo Givenchy, cảnh sát thì vài năm nay mới thay đổi sắc phục, giờ mang đồ Pierre Balmain (nhưng vẫn đeo súng ngắn Manurhin). Tây mà, họ ưa chải chuốt. Nhưng chuyện tân kỳ của tôi nó không phải chỉ ở những chuyện cặn bã. Người Pháp, chẳng hạn, là người xài tiền nhựa nhiều nhất thế giới. Về mặt này, các ngân hàng thống nhất, Visa hoặc Master và vào đâu bạn cũng mua bán được, ngay trong các siêu thị thực phẩm. Giấy tính tiền chạy từ két ra có hai bản sẵn, bạn ký ngay vào còn cái thẻ, good hay không good, máy cũng biết nốt, khỏi lật sách ra dò số lôi thôi. Mà cần cash thì ở đâu cũng có máy phát tiền, máy khắp nước chung một hệ thống dù ngân quỹ của bạn thuộc nhà băng nào bạn cũng lấy ra được ở bất cứ máy nào, chẳng phải nhìn xem có thuộc Cirrus hay là Star-System của thẻ mình không. Tiền nhựa, chẳng có gì lạ, tôi chỉ nói là ở bên Tây nó thông dụng hơn ở Mỹ. Nhất là, một loại tiền nhựa mà Mỹ không dùng, là tiền nhựa điện thoại. Trước đây, các cột điện thoại ở Pháp hư lên hư xuống, du đãng thiếu tiền cắc ưa chiếu cố đến khiến ngày nay, nếu không có sẵn cái thẻ trong túi không tài nào bạn gọi phone được. Thẻ này không thuộc loại phone-card tính trên số điện thoại của bạn. Nó cũng có nhưng cái thẻ tôi nói là cái thẻ trừ tiền chứ không phải thẻ cộng. Thẻ cộng đã đành, nó như con ma xó, bạn xài bao nhiêu nó cộng thêm dần dần. Thẻ trừ ngược lại, nó có giới hạn, bạn ra đầu đường mua một cái thẻ điện thoại 120 đơn vị, cỡ 14 USD. Mỗi lần gọi đi đâu, bạn đút vào máy, nói càng lâu nó càng trừ. Gọi viễn liên cho đào, nhìn nó nhẩy mà thích mắt, tắc $13.75, $13.50, $13.25 v.v... sắp hết nó chớp đèn ngoắc bạn để báo động, hết, bạn vứt nó đi mua cái khác. Có tỉnh bên Tây đang thí nghiệm loại thẻ này vào việc ăn chơi mua bán. Mấy trăm cửa hàng trong tỉnh đều có gắn máy để đọc, bạn đến nhà băng mua cái thẻ 500 USD, 300 USD gì đó, đi đâu cứ việc móc ra tiêu, nếu lẻ tẻ dăm ba đồng thì không cần code, mua sắm nhiều thì phải bấm số bí mật của mình. Hết tiền, cạn thẻ, bạn vào ngân hàng nạp tiền lại, dùng được tiếp. Dùng thế cash, nó không phải là thẻ tín dụng mà là tiền mặt loại gọn gàng. 

Thế thì đã có gì tân tiến, lợi ích thế nào tôi không biết nhưng vào nhà ai tôi cũng thấy có một cái điện thoại có màn hình và bàn phím như là một cái máy vi tính bé. Ðường dây điện thoại bên Pháp thuộc độc quyền chính phủ (Bưu điện) nên việc nối điện thoại vào với điện toán áp dụng rất dễ. Cái máy, nhà Bưu điện cho không, nếu muốn có máy in thì phải bỏ tiền thêm. Áp dụng của nó y như là áp dụng vi tính vậy, chỉ khác chỗ là nó tập trung hóa được. Bạn có thể “gọi” giữ chỗ xem xiếc, tìm địa chỉ nhân tình cũ (đánh tên lên màn ảnh, nó tìm hộ như mình xem niêm giám, ôi, những tên nhân tình cũ xanh xanh trên màn ảnh...), coi giờ máy bay vớ vẩn. Nhưng nó lan rộng ra trăm ngàn dịch vụ, thí dụ bạn làm business nó giữ sổ kế toán cho bạn được, nó khai thuế hộ, bạn gửi thư sang Bồ Ðào Nha, đánh vào bằng tiếng Pháp nó dịch ra ngay bằng tiếng Bồ, tiếng Ðức, tiếng quái quỷ gì khác, dịch qua dịch lại chớp mắt tuy là dịch dở. Và cái mà người ta ưa dùng nhất, là nó... kiếm bồ cho mình. Kiếm bồ cho mình thì nó chưa tự động được (nghĩa là kiếm nhân tình cũ không ra, máy chưa tự động hỏi bạn bè, thế nào, muốn kiếm nhân tình mới không?) Kiếm nhân tình, cho đến giờ này, con người còn phải chủ động, dù là bồ cũ hay bồ mới (bồ cũ nhiều khi cần chủ động nhiều hơn nữa). Bạn có quyền lựa các tiết mục, có những số tìm bạn mặc đồ da, tay cầm roi, có những số để tìm bạn mặc đồ trắng, tay cầm hoa, tùy sở thích. Bạn có thể đăng rao vặt và mở “hộp thư” trên máy bằng bí số (Z 28 chẳng hạn), ngày hôm sau mở máy check “hộp thư” coi có ai trả lời không. Bạn có thể đối thoại thẳng với người lạ (Z 28 gọi Mèo Xiêm), bạn có thể ỡm ờ tay cầm lá cây mà ngắt ngắt hay bạn bạo dạn hơn mà phơi bày những ý đồ rực rỡ (tôi không thích chữ đen tối vì tôi thấy những chuyện này tôi sáng mắt ra chứ ít khi nào nhắm mắt lại) trong đầu. Thích lắm, muốn nói thêm gì thì nói, cũng như phone hồng nghe thẳng tiếng nhau ở bên Pháp này không đắt khách, chỉ có Minitel Hồng phải viết ra lên màn hình lại chạy. Z 28 gọi Cọp Thái, nếu tâm đầu ý hợp mình hẹn nhau đi chơi cuối tuần. “Tôi với nàng quen nhau qua Minitel” mươi năm nữa có lẽ trở thành một trường hợp thông dụng. Như ngày hôm nay học cùng trường, làm cùng sở, gặp ở nhà người quen, đám cưới, party. Minitel có thể áp dụng vào nhiều việc đúng đắn, chắc chắn rồi, vô số kể. Nhưng ngoài đường tôi ít thấy quảng cáo những dịch vụ này. Năm nay đã bớt, phong trào Minitel Hồng dường như mệt mỏi, phải lấy lại hơi nhưng vẫn còn những tấm biển có cô ngực trần tóc vàng 3615 ULLA (3615 là mã số đầu tương đương như 976 ở Cali), có cô đít nhỏng tóc đen 3615 BRIGITTE. Phong trào này cách đây hai ba năm làm nhiều người Mỹ sang đây phát sợ, chẳng hiểu chuyện gì sao đàn bà nhồng nhộng đầy bích chương đường phố. Không bán sú-cheng, không bán sì-líp, không bán nghỉ mát mà cứ vẫn phơi bày. Người Mỹ đâu có Minitel. 

Cái màn ảnh nhỏ hấp dẫn như vậy, ở Pháp đi đâu tôi cũng thấy màn ảnh. Màn ảnh computer, màn ảnh vidéo. Hệ thống métro cũng có cáp TV riêng bày khắp nơi để đợi tàu đỡ buồn, coi nhảy hát, coi khí tượng, coi tin ngắn. Tiệm sách, tiệm nhạc, tiệm café, cá ngựa gì cũng vậy, màn ảnh bày la liệt, dĩ nhiên mỗi nơi một chủ đề, tiệm nhạc thì để vidéo clip, bấm nút mà lựa chọn được, tiệm cá ngựa thì để kết quả cuộc đua trực tiếp truyền hình. Cớ gì người ta cũng mang TV ra chắn lối được, cái đề chữ, cái để hình làm như không có nó thì không sống nổi. Chả vậy mà chữ “câblé” (bắt giây) dạo này đồng nghĩa với “thời trang”. Ngay cả cái việc chỉ đường bạn cũng không cần nhờ anh cảnh sát hay cô đầm tốt bụng nữa. Ở các lối ra vào nơi phương tiện chuyên chở công cộng người ta để một thằng Situ là xong. Anh này màu xám xịt, cũng có màn hình (bằng LCD), cũng có keyboard. Bạn đánh vào cái địa điểm mà bạn muốn đến, số bao nhiêu, đường gì. Chàng sẽ hỏi bạn muốn dùng tàu điện, xe buýt, cả hai, cách nào nhanh nhất hay cách nào ít phải đi bộ nhất, tùy ý bạn chọn lựa. Bấm nút lựa xong, Situ vừa rè rè làm việc vừa tử tế “Xin lỗi, làm ơn đợi chút”. Ðộ ba mươi giây sau, chàng nhả ra một tờ giấy in mực hai màu đen đỏ cẩn thận, cặn kẽ từng chỉ dẫn. Lấy hướng A, xuống trạm B ra lối C, quẹo tay phải độ bao nhiêu thước thì đến, tất cả mất chừng X phút. Tôi tò mò hỏi thử, nhà địa chỉ người yêu dạo trước ra mà tra hỏi. Bằng đủ cách, cách nhanh nhất, cách ít phải đi bộ nhất, bằng tàu điện, bằng xe buýt, bằng cả hai cộng lại. Năm phút sau tôi lần mần cầm cả năm tờ giấy chỉ đường ở trên tay do anh Situ trao tặng. Tôi xin lỗi lại là đã làm phiền máy. Tại hỏi chơi cho biết chứ người yêu cũ, có cách nào mà đến được và hiện đại thì hiện đại, Situ không tài nào chỉ nổi. Tình nhân mới, may ra còn nhờ máy Minitel được chứ tình nhân đã cũ rồi thì máy nào cũng phải chịu thua. 







TỜ GIẤY MỰC ĐEN

Về truyền hình thì chuyện đã đành. Nhưng còn có những dấu hiệu khác làm tôi ngại hơn tí xíu. Người Mỹ sáng chế ra cái hình trong hộp, hộp 27 inch để trong phòng khách, hộp 21 inch để trong phòng sinh hoạt gia đình, hộp 19 inch để phòng sinh hoạt vợ chồng, hộp 13 inch để trong bếp, hộp 7 inch để ngoài hồ bơi, còn có cả hộp 3 inch để mà bỏ túi, chạy bằng pin, đi đâu mang theo cũng được, thì họ nhất về truyền hình là phải, còn ghen tức cái nỗi gì. Nhưng Hoa Kỳ nhất định không phải là nước phát minh ra mẫu tự và cũng chẳng phải là nơi sáng chế ra giấy, mực, nhà in. Vậy mà, sau khi đến Centre Commercial Rosny 2 đi một vòng thương xá vào buổi tối, lót bụng bằng Hamburger rồi vào tiệm sách báo xem chơi, tôi giật mình. Trong tiệm sách, có những chỗ để bày sách bán chạy, sách best-seller, nghĩa là bước vào thì thấy ngay, như là quân cảnh xét giấy ở Việt Nam, muốn tránh cũng không khỏi. (Kỹ thuật bày sách này rất hữu dụng, chỉ tiếc là hình như các tiệm sách Việt ở Bolsa chưa nghiên cứu tới nơi, bằng cớ là sách của tôi, tôi vào tiệm của họ tôi tìm quanh quẩn độ nửa giờ tôi mới thấy). Cầm vài ba cuốn lên chơi (chẳng phải vô tình vì best seller được bày một cách rất khoa học. Bước vào tiệm, dừng chân lại, tự nhiên sách nào bán chạy tự nhiên nó rớt vào tay) tôi thấy tác phẩm mới nhất của Tom Wolfe, bản Pháp dịch ra là “La Foire aux Vanités” trùng tên với sách đời nào của Thackeray (Thạch Sĩ Cay). Cuốn này năm ngoái hàng nhất ở Hoa Kỳ, mới ra bìa mềm. Bên Mỹ, phi trường, bến xe đò Greyhound nào cũng thấy. Thôi được, tôi đặt xuống, quyển thứ nhì rơi vào tay là bản dịch của cuốn nói về đời lưu vong của ông Shah do William Shawcross viết. Cuốn này còn nhanh nữa, vẫn còn đang chạy ở Hoa Kỳ, tôi cũng OK đi. Hai ông nói trên đều viết những sách có giá trị, nó bán chạy bên Tây bằng bên Mỹ thì càng tốt, tôi nói thật cả hai tôi đều thích và muốn đọc bạn khỏi cần đi Tây, chỉ cần ra nhà sách trong Mall gần nhất, Westminster Mall, Anaheim Plaza quanh quẩn đâu đây. Ðến cuốn thứ ba, này nhé, lại là Linda Evans dạy phái nữ làm cách nào để giữ gìn sắc đẹp và sức khỏe. Tôi vội vàng đặt xuống, sau cuốn này tôi nhất định nắm chặt hai tay lại, thọc vào túi quần cho chắc, lủi vào các xó tối tăm để tìm cuốn tiểu thuyết nào của Patrick Grainville, cuốn thuật chuyện nào của Gilles Perrault. Tôi không thấy, vòng trở ra thì đập ngay vào mắt (tay tôi vẫn còn nắm chặt trong túi như đã nói) cuốn sách của Rika Zarai. Vừa lòng chưa, không phải là sách dịch từ tiếng Anh sang, bà này Pháp hẳn hoi và ở bên Tây nổi tiếng nhờ ca hát. Bán rất chạy là sách bà chỉ cách chữa bệnh bằng rau mùi, rau ngò, húng quế, hành ta và dược thảo nói chung. 

Nếu sách ở bên Tây có vẻ đang lâm vào tình trạng bi kịch truyền hình với loại hồi ký Joan Collins và tập thể dục Raquel Welch thì phía bên sạp báo tôi thấy sáng sủa hơn. Le Point, L’Express tôi không biết giờ có còn ai đọc, tờ Nouvel Obs một thời vang bóng này độ nhật (độ tuần) bằng trang quảng cáo tìm bạn kiểu “Prof. Lib. (Hành nghề tự do) 50 tuổi, chưa hói, tìm phụ nữ 35 trở xuống, biết bơi, để Phục Sinh này đi thuyền quanh Ile de Man”. Ngược lại, tạp chí mới ra nhiều đếm không xuể, thế hệ 68 ngày trước bịt mặt cầm gậy sắt lò cò trên đường đánh cảnh sát giờ vô khối làm chủ báo. Serge July vững chắc tờ Libération hàng ngày, Bizet lập thành lũy với tờ Actuel hàng tháng. Thơm phức mùi nước hoa tư tưởng là tờ Globe điểm trang thêm cho cựu tân triết gia làm dáng Bernard Henry Lévy, rồi nào Passsages, nào City, tạp chí ra ào ạt. Nhóm Le Monde củng cố rồi bành trướng vẫn với cái dáng đạo mạo Ðệ Tứ Cộng hòa từ ngày khai sinh đến giờ, lấn qua những chủ đề chuyên môn, hết Le Monde Diplomatique, Le Monde de I’Education, I’Etudiant, de La Philatélie năm nay còn có Le Monde de La Révolution để kỷ niệm 1789. Báo Phụ Nữ có chiều Âu Hóa, Anh và Ðức đua nhau ra các ấn bản tiếng Tây (và ngược lại), báo Nam Nhi cũng vậy. Dĩ nhiên Play boy, Penthouse vẫn có ấn bản bằng tiếng Pháp từ lâu nhưng Club của Anh giờ cũng xen vào và tờ Lui của Pháp tự nhiên phát minh ra lối mới. Mỗi tờ in làm hai tập nói chung, một tập đứng đắn (như mới đây có phỏng vấn Ðức Giám Mục Gaillot) và tập kia hình ảnh nõn nà. Có lẽ là để cho các nha sĩ mua báo dài hạn tiện việc khấu trừ vào thuế, tập đứng đắn để ngoài phòng đợi cho thân chủ đọc đỡ đau răng, tập hình ảnh để ở phòng ngồi lật lật những khi vắng khách. Tôi thấy phát minh một tờ mà hai tập này cũng lạ, không hiểu từ đâu ra. Chắc đầu óc người Pháp bây giờ rộng lượng, cái gì ra cái đó chính xác, khỏi cần lập lờ, ờ, tôi đang coi bài nói chuyện với Daniel Ortega, Chủ tịch nhà nước Nicaragua, ở trong Lui. Không, Alain (Finkielkraut) một bên, Sylvaine (các cô người mẫu này thường thì không có họ) một bên. Chẳng hiểu từ đâu ra, cầm tờ báo L’Express lên rơi vài ba tập lỉnh kỉnh L’Express-Paris gì đó, phải nhặt lên xếp lại, đến lúc cầm tờ Figaro cuối tuần tôi mới vỡ lẽ. Figaro cuối tuần một xấp, bên ngoài là báo, bên trong nào Figaro-Magazine giấy láng, nào Figaro-Madame, nào Figaro-Télé. Kiểu này tôi đã có thấy ở đâu, loáng thoáng trở về trong ký ức. Báo nào bên trong vừa có Tạp chí, vừa có tập riêng cho chương trình TV, vào ngày Chủ nhật, ra trước nhà mà xem thằng bé đi xe đạp đeo hai cái túi liệng vào sân bạn đánh bốp, lằng nhằng cột lại bằng sợi dây thun và nặng chừng hai ký - báo Mỹ. 

Trong hai ký đó, tờ do Mỹ ngày Chủ nhật để dành một ký rưỡi riêng cho quảng cáo khiến nhiều người sáng Chủ nhật dậy sớm đi tìm tờ báo chỉ để xem quảng cáo, rao vặt mà thôi. Mua xe, bán nhà, cửa hàng nào đại hạ giá, Special, Clearance để kỷ niệm khai trương hay bất cứ ngày lễ nào làm cớ. Về mặt này, báo Pháp còn hơi kém, phần quảng cáo chưa được phồn thịnh bằng ở Hoa Kỳ, mở tờ báo ngày cuối tuần chưa thấy rơi ra lủng củng mười lăm mười bảy tờ fliers vớ vẩn, nào drugstore, department store, nào coupon trừ tiền trên café thuốc lá và kem dưỡng da, thuốc nhức đầu. Và kém nhất trong các tờ báo Pháp về mặt này là một cơ quan ngôn luận hàng tuần phát hành trong ngày thứ tư. Nếu bảo tại nó mới ra nên chẳng ai buồn quảng cáo cũng không phải. Tờ này có từ 1917. Nếu bảo nó bán ít nên không có thân chủ thì cũng không đúng. Hiện nay tờ này phát hành 600.000 số. Lý do đúng nhất là vì nó ít chỗ, vỏn vẹn có tám trang khổ nhật báo mà ban biên tập lại siêng năng thành ra không còn một mẩu nào trống để chừa cho quảng cáo. Từ bảy mươi hai năm nay, tờ Canard Enchainé đại để về hình thức trình bày vẫn thế và chưa bao giờ nhận quảng cáo cả. Ðây hẳn là một biệt lệ trong làng báo ở các nước mở mang kỹ nghệ. “Con Vịt Mắc Xiềng” do vợ chồng Maurice và Jeanne Maréchal thành lập trong thời Ðệ Nhất Thế chiến là một huyền thoại sống mạnh được nhiều nơi bắt chước, từ Moscow, Nga, Dakar, Sénégal, đến ngay cả Sài Gòn, Việt Nam. 

Tôi quen với tờ báo này nhờ một người Nam Tư lớn tuổi giới thiệu. Vào dạo giao thiệp nhiều với nhạc sĩ này, ông ta đoan chắc với tôi là ở đời không cần học hỏi gì ở đâu cả, mỗi tuần chỉ cần đọc “Con Vịt Mắc Xiềng” là đầy đủ. Dạo đó tôi còn trẻ, cũng gắng nghe lời ông ta làm thử, chẳng thấy thú vị gì, lại đâm ra nghi ngờ cái bọn làm nhạc, không tin được. Phải đợi đến có cả thập niên sau, gặp lúc cùng cực thờ ơ với cuộc sống, không buồn đi ra đến cả ngoài đường, tôi mới thấy lời nói của vị tiền bối này đúng đắn. Khi chán đời, chẳng còn thiết đọc gì nữa, mỗi tuần tôi vẫn còn đọc được “Con Vịt Mắc Xiềng”. Những lúc nào phải bôn ba ly tổ, tha phương mãi những nơi ngoài đường sạp báo kiếm không ra tờ này, tôi rất nhớ tuy là đặt mua dài hạn bằng máy bay là chuyện có thể làm. Nhưng “Con Vịt Mắc Xiềng” cũng như bánh mỳ Tây, gửi đi xa ăn không còn ngon nữa, nó thú vị ở những mốc bám vào đời sống tại chỗ hàng ngày, độc giả ở xa dù có quen thuộc mấy cũng chỉ mù mờ được nửa hay ba phần tư, không cách nào mà nắm hết. Ðọc “Con Vịt Mắc Xiềng” phải ở ngay tại chỗ, phải liên tục sống và liên tục đọc, không được bỏ số nào, không được nhịn thở một phút như lúc tắm nằm “lặn” trong bồn. Tôi về đến Pháp, qua khỏi thông hành, quan thuế là vơ ngay tờ báo, ngay tối ấy về nhà đọc trước khi ngủ, chỉ thấy như là người tình cũ đã quen, mừng ở những cái nhận ra ngay được nhưng buồn ở những cái không có đó mà chia sẻ. Nhiều chuyện lạ trong khi tôi vắng mặt, nước Pháp được “Con Vịt” phản ánh chẳng phải là nước Pháp của một năm về trước, như một kiểu tóc mới, một màu móng tay vừa đổi, hình như là năm ngoái, lần chót gặp, nàng chưa có kiểu gót giày này. Tôi hơi bỡ ngỡ, tờ “Con Vịt” tôi không hiểu hết, một năm mà, những xa lạ cũng bình thường thôi. 

Thời sự của tháng Hai này vòng vo chung quanh cặp vợ chồng Tổng trưởng Tài chánh Pierre Bérégovoy mà điển tích bắt đầu ra sao tôi không được biết. Chính quyền và đối lập hết khoe vớ của mình lại đòi xem vớ nhau, tôi là người đến vào lúc câu chuyện đã sắp tàn, chẳng rõ họ muốn ám chỉ gì hay ai nói xấu nói đẹp gì ai. Ngoài cái ví von ở trường chính trị này, được bàn ra tán vào trên mặt báo và quầy bar là bài phỏng vấn Ðức Giám Mục Gaillot trên tờ Lui. Tôi không được xem tận mắt, thứ nhất báo Lui đã được phân rõ rệt, phần đứng đắn và phần phụ nữ hở hang. Thứ nhì, ngay cả phần hở hang của báo Lui cũng không hợp nhãn tôi thì phải, chẳng tại tôi đạo đức nhưng không cứ loại đàn bà nào chụp hình cởi truồng tôi cũng thích cả và đàn bà báo Lui tôi không ưa nổi. Tôi bị cái tội tủi thân, những cô vạch áo choàng lông nằm trên thảm da beo chỉ làm tôi sầu khổ thêm về cái tội nghèo và không biết ăn chơi nên tôi coi làm gì những loại Centerfolf này nếu không phải là để than thân trách phận những lúc buồn. Cho nên, phụ nữ trên hình, tôi chỉ chịu đựng được những týp bình dân hơn. Kỹ nghệ làm báo đàn ông ở Tây Phương nói chung bây giờ chuyên nghiệp hóa, chẳng khác gì báo dành cho đàn bà, có tờ coi được, có tờ coi thích, có tờ coi bực mình vô ích và tờ Lui đối với tôi thuộc vào loại thứ ba. Cho nên chuyện Giám Mục Gaillot hấp dẫn thế mà tôi cũng không tìm đọc tận mắt, chỉ nghe qua dư luận bình phẩm ở những báo bên ngoài. 

Việc giám mục hạt Evreux đội nón tím lên báo có nhiều ảnh đàn bà phóng túng chẳng có gì đáng để ý ở tự nó. Ông này không làm chính trị theo chiều “thần học giải phóng” bắt nguồn từ Nam Mỹ nhưng về xã hội ở Tây Phương ông có nhiều cái nhận xét ngây thơ khiến đến cả tờ Con Vịt còn phải động lòng. Báo Con Vịt là chiến lũy cuối cùng của những người ưa chọc tăng ghẹo lữ theo cái tinh thần “cộng hòa giáo làng” của đầu thế kỷ. Hơn một trăm năm về trước, lúc Ðệ Tam Cộng hòa tại Pháp mới phôi thai, tại mỗi xã bên Tây ông giáo viên là nhân vật điển hình cho văn minh cấp tiến và ngài cha xứ là người tượng trưng cho đạo đức cổ truyền. Trường học đối diện với nhà thờ, hai vị này nhìn nhau hò hét, mỗi người đứng trên một bục giảng, để tranh giành mấy mái đầu thơ tóc vàng hoe. Một bên thổi kèn bản Marseillaise theo Jules Ferry chủ nghĩa, một bên ò e đàn orgue thánh ca, chỉ khi nào đến mùa rượu đỏ Beaujolais nouveau vừa được cất xong mới hưu chiến, gặp nhau hội đàm được ở nơi trung lập là quán café. Ðến ngày nay cái chuyện ân oán này gần như là xí xóa hết, chỉ có tờ Canard thù dai nên vẫn nhắc nhở đến thôi. Ông Giám Mục này hơi lạ, phim “The Last Temptation” ông nhận xét chẳng việc gì cấm quần chúng xem, dùng bao cao su ông thấy có lợi ngừa được bệnh Aids, phong tục phóng túng ông không ngại bằng bất công và nghèo đói. Tờ Con Vịt chẳng mấy khi có dịp gặp địch thủ Giáo Hội nào cỡ đó nên vội vàng phong thánh cho vị này ngay. Dĩ nhiên, chẳng có cách nào mà chiều lòng được tất cả mọi người. Con chiên có vài đám bảo thủ giận dữ biểu tình trước nhà thờ phản đối, Ðức Hồng Y đứng đầu Giáo Hội Pháp chau mày, Tòa thánh Vatican hắng giọng nghiêm nghị. Bây giờ mới vào tháng Hai, chưa đến mùa rượu Beaujolais mới, không có lý do gì để giáo học và giáo hội cụng ly thân thiện với nhau trong quán nước hay là trên báo cởi truồng. Nhưng câu chuyện này cũng nhạt, chẳng được sống động bằng chuyện cảnh sát đã chiến cầm dùi cui đàn áp cai tù trong khi các tội phạm đứng nhìn và cổ võ (không biết phe nào) ở đằng sau chấn song.








CĂN NHÀ BA BẾP

Nếu mà mang ví với New York thì thành phố nào chả dễ chịu. Tôi mang Paris ra so sánh thì cũng quá lố. Paris có lắm cái bực mình, cũng như tình nhân, ở lâu với nhau rồi có tật, nhiều khi hờ hững, nhiều khi gắt gỏng, đến ngày sinh nhật không còn tặng hoa, sáng ngủ dậy không pha giùm café sữa bưng vào tận giường nữa. Nhưng Paris đẹp, lại vừa có nết. Có lần nào, một đêm tháng năm, mưa rơi lất phất đường Monsieur le Prince mà tôi không chạy, còn dừng chân lại nửa phút để mà nghĩ ngợi xem mình có biết được chỗ nào đẹp hơn. Ba mươi giây thôi nhưng trong vòng ba mươi giây không tìm ra hình ảnh thành phố nào khác có thể đẹp hơn trong ký ức. Ba mươi giây thôi nhưng ba mươi giây, đủ đẹp rồi. 

Có lẽ tại con đường Monsieur le Prince là con đường đầu tiên ở Paris tôi biết đến và đến giờ vẫn là con đường tôi rõ nhất ở trong thành phố, thuộc từng căn. Ðúng hai mươi năm trước, cũng vào tháng này, lần thứ nhất trong đời tôi thấy tuyết, thứ tuyết mỏng bất thường, chưa kịp xuống đến mặt đường đã chực trở thành mưa. Tôi ngồi nhìn sau cửa kính xe, đầu tự bảo đây là kinh thành ánh sáng về đêm dưới tuyết không ra tuyết, mưa chẳng ra mưa và con đường đầu tiên tôi đặt chân xuống là đường Monsieur le Prince. 

Bây giờ hai mươi năm sau, cũng vào cùng dạo trong năm đó, tôi đi Tây lần nữa. Tôi đến Paris bằng Roissy thay vì Orly. Roissy mới có từ mươi năm nay, đặt ở ngoại ô xa vẫn còn được vây quanh bởi những cánh đồng vắng vẻ. Trời sương mù nhưng không lạnh như tôi tưởng, lúc rời Los đã gió bão gần chết, đến đây cách biệt không đến nỗi to lớn lắm. Xa lộ A3 vào thành phố lại vắng vẻ làm tôi ngạc nhiên không chờ đợi đến. Thằng em đến đón càu nhàu cái Peugeot 205 mới hai năm đã làm lại máy “Trước tao bị cái tội kỳ thị, thích xe AÂu Châu. Giờ tao thấy bảo đảm nhất là xe Nhật, ít bị hư nhất, bằng mười xe Tây”. Thằng này có lẽ từ ngày Nhật nhảy vào thị trường sang trọng với loại Acura mới đâm ra đổi ý, dạo trước nó kỳ thị là phải, xe Nhật lúc đó còn mang tiếng rẻ tiền và tiết kiệm. Qua cái giai đoạn bền một thời gian giờ xe Nhật đua đòi cái tiếng sang chứ chẳng có gì. Cái này cũng như mê con gái đẹp tự nhiên khen ầm là nó ngoan. Cái nết đánh chết cái đẹp, thí dụ trường hợp Mercedès. Ở Mỹ người ta mang kền của Mercedès ra mà mạ vàng vì nó lịch sự, ở Âu người ta dùng loại Mercedès chạy xăng dầu cặn Diesel để làm taxi vì nó bền. Thì cũng vậy, nếu có cái Checkers vàng loại taxi New York để chạy bên này ai chả phải ngoái đầu lại, ăn đứt Mercedes 300SD đang rù rì rước khách. Còn nhiều cái ngược lại nhau nữa, sao giống được, bên này và bên kia bờ Ðại Tây Dương. 

Lúc bắt đầu qua nhánh A86 để về nhà, thằng em lộn exit, rời xa lộ để vào thành phố. Tự nhiên hiện ra trước mặt tôi cái gì như một di tích cổ. Sương mù ở đây không phải như trong phim kinh dị, bạn đừng tưởng tượng lâu đài Dracula vàng vọt như trong những chương trình truyền hình vào lúc hai giờ sáng với Mistress Elvira. Cái bùng binh ở lối ra xa lộ này hiền hòa hơn. Ở ngoại ô đìu hiu này người ta dựng lên ngay giữa bãi đất trống những cái cổng chằng chịt như một hí viện La Mã còn sót lại sau cơn địa chấn. Carthage, Baalbeck và gì nữa. L.A. mưa gió lúc hắn lên tàu đã giống như một cảnh của phim “Blade Runner” thì ở đây phảng phất dưới sương mù như Riddley Scott lúc còn thời kỳ “Duellists”. Nước Pháp một năm tôi đi vắng, ngoại ô miền Ðông dở chứng dựng lên ở bùng binh công cộng thứ kiến trúc thành phố phường tuồng. Ở điểm này ngoại ô Paris và ngoại ô Cali giống nhau, tôi giương mắt ra tìm sau làn sương có ánh đèn Mc Donald nào chớp nháy nhưng không thấy, sương đặc quá, chỉ thấy giữa bùng binh vắng ngắt một người con gái đứng chờ xe buýt, các cổng đền giả tạo trùng điệp vây quanh. Người con gái da đen. Ở điểm này Paris và L.A. thì khác, người con gái da đen tôi chẳng thấy có gì ngần ngại (“Ê, chết mẹ, lạc vào khu đen rồi”) mà cô ta đợi xe chỉ mang trên mặt cái vẻ buồn chán chứ không có gì sợ hãi. Ở đây an toàn hơn, không có gang “Bloods” Inglewood, không có đảng Compton cầm AK hay Serial killer đường xa lộ. Ở đây trắng đen nếu không bình đẳng thì cũng bình thường hơn là ở Mỹ, ra ngoài đường cầm tay nhau được, lẫn lộn nhau mà không ai để ý. Ở Mỹ, da đen chỉ lẫn lộn với da trắng được ở trên T.V, trong những phim trinh thám và trong vai cảnh sát phụ diễn. Nói thế không hẳn là người Pháp không kỳ thị, là bên Tây bảo đảm an toàn, tối đợi xe buýt một mình ở bùng binh vắng không sợ bị giật bóp, hiếp dâm hay là lạc đạn. Nhưng mà tương đối thảnh thơi hơn, thấy người da đen hiện ra trong sương mù mà không phải giật mình. 

Căn nhà tôi đến ở phía Ðông thành phố. Paris không rõ do thầy địa lý nào bày ra, ở phía Ðông nhà rẻ, ở phía Tây nhà mắc, ở phía Bắc nhà tù túng, ở phía Nam nhà thảnh thơi. Nước Pháp chia ra làm chín mươi chín départements, nghĩa là một thứ hạt (không kể ba hạt ngoài nước là Martinique và Guadeloupe ở mãi tận Caríb và hạt Réunion ở Ấn Ðộ Dương). Paris là hạt mang bí số 75, vùng Ile de France gồm ba hạt giáp ranh thủ đô là Seine St Denis (Bắc và Ðông Bắc, số 93), Val de Marne (Ðông Nam, số 94) Hauts de Seine (Nam và Tây Nam, số 92). Bốn hạt nữa ở vòng ngoài cũng thuộc vùng này và được coi là thuộc về ngoại ô lớn: Yvelines (Tây và Tây Bắc, số 78), Val d’Oise (Bắc, số 95), Seine et Marne (Ðông và Ðông Nam, số 77), Essonne (Nam, số 91). Ở hạt 93, 95 đại khái là không được khá mấy, ở hạt 92, 78 đại để được ung dung hơn. Gần thành phố thì hạt 94 là hạt nhì nhằng xôi đậu, ở xa thì hai hạt 91, 77 vừa lẫn dân cư bình dân với nhà nghỉ mát, trang trại cuối tuần của những nhà khấm khá nội thành. Xem hạt thì bắt hình dong, nhất là xem bảng số xe. Hai số cuối trên bảng xe hơi Pháp là số hạt, lâu ngày người ta quên đi cả những cái tên thơ mộng để mà gọi những địa danh này bằng bí số trống trơn. Ðối với người ngoại quốc lại càng dễ, hai chữ đầu của zip code bao giờ chẳng dễ nhận hơn là những linh tinh Val de Marne (94) hay là Hauts de Seine (92). Một luật khác để đoán sang hèn là mức độ gần sông và gần rừng. Càng gần rừng thì càng tốt, chắc là mùa đông đi kiếm củi khô mang về bỏ lò sưởi cho tiện, mùa hè ra sông múc nước tắm đỡ khó khăn. Paris có hai cái rừng ở hai đầu, Bois de Boulogne ở Tây Bắc và Bois de Vincennes ở Ðông Nam, như hai lá phổi mang dưỡng khí vào nuôi thành phố. Sông chạy ngang Paris chỉ có một giòng, giòng Seine có gì lạ không em mà ai cũng biết với nhánh Marne chia ra phía ngoài thành phố ở hướng Ðông Nam. Sông Marne chưa có nhạc sĩ Việt Nam nào phổ nhạc nên không nổi tiếng bằng đàn chị, ở bên này được biết đến nhờ trận đánh quyết liệt ngăn quân Ðức bằng xe taxi vào cái thời quân vận Pháp chưa có trực thăng và Sư Ðoàn 11 Không Chuyển của Lực lượng Can thiệp Tức thời chưa được thành lập. 

Căn nhà tôi đến ở cái ngoại ô nhì nhằng miệt Ðông này nhưng lên được một nấc vì không xa rừng mấy, lại lên thêm nấc nữa nhờ ở sát cạnh bờ sông. Những năm nước đột ngột lên cao thì hơi phiền một tí, ngồi hàng hiên có thể câu cá được mà xuống hầm đựng rượu thì rất tiện giặt giũ đồ, khỏi cần ra cầu ao. Việc sưởi là vấn đề vì ẩm ướt hơn bình thường nhưng lại được cái nhìn ra ngay bến du thuyền thì cũng đỡ, ấm lòng ngay kẻ tị nạn thuyền nhân. Thật tình mà nói, ở ngoại ô tôi không thích mấy, hàng quán quá xa xăm mà tôi không thuộc loại người thể thao để chiều về thay đồ jogging chạy bộ ra dọc bờ sông hay lấy thuyền ra bơi sải một hai một hai. Lý tưởng theo tôi thì phải ở Paris Intra - Muros, Nội vi quận tư hay quận sáu, ở từng năm nhìn ra vườn Lục Xâm hay khu Marais nhưng mà ở đời phải thực tế. Nhà ở Paris dạo này mười ngàn franc (1700 USD) một thước vuông là giá chót, nếu đi thuê phải tính cỡ 20 đôla một mét ở những chỗ trung bình. Ðằng này, cũng chẳng phải nhà tôi, kỳ này tôi đến đây ở tạm độ mươi ngày. Ở dưới đây (dương thế) cái gì cũng là tạm cả, mươi ngày hay mươi năm, ngoại ô Paris hay là ngoại ô L.A. 

Tôi vào đến nhà, thượt người ra. Bận đi Tây này, hay là bận trở về, tôi không thấy gì làm hứng thú tuy cảm tưởng đầu tiên của tôi cũng không có gì là xấu. Trừ người nhà ra, dân Tây từ lúc ở phi trường đến giờ tôi chưa thấy được ai, chỉ trừ cái cô đứng đợi xe buýt và những cái xe nhà băng qua băng lại xuôi ngược trong sương mù. Tôi bước ra cái hàng hiên lồng kính ở tầng ba nhìn xuống bờ sông đen ngòm không một mống. Ðang ở cái Hạt Cam nhà quê, dẫn xác về đây, ờ thì có sương mù tình tứ, có đồi dốc chập chờn, nhưng mà hay ho gì thêm. Trước kia, tôi rất thích cái nhà kính này, có cây kiểng um tùm, có đèn vàng loe loét, sưởi lại rất ấm giữa mùa đông, ở trên đầu kính, ba mặt kính, tưởng với tay bắt được rặng cây ở bên kia trên hòn đảo giữa sông mang tên “Ðảo chó sói” (nó kém thơ mộng hơn cái tên của hòn đảo ngay bên cạnh mang tên “Ðảo tình yêu”). Người đi dưới đường có lẽ nhìn vào thấy ấm cúng, tôi đứng ở trong nhìn ra chỉ thấy tù mù lạnh lẽo. Tôi trở vào trong, T.V đài 1 đang lải nhải, tôi đứng nhìn mà không theo dõi, thường thì tôi vẫn thích T.V Tây. T.V Pháp chỉ có sáu đài mà cũng có lúc còn xem được, T.V Mỹ hai mươi đài tôi chỉ bật có PBS. Không có gì tôi chỉ ngồi lật lật, lật hết đài này sang đài khác, được hai ba vòng tôi chóng mặt đi ngủ. Nhưng mà bây giờ, T.V Tây tôi cũng không muốn xem. Trong nhà có tờ Le Monde trong ngày, ừ, Nga ở Kabul đang triệt thoái, quốc nội phe thân chính đang rắc rối gì với xì-căng-đan thị trường chứng khoán và công ty Péchiney, mặt xã hội không ổn định, gác dan nhà tù biểu tình phản đối dự án cải cách mới. Tờ Figaro Magazine cuối tuần vẫn nhạt nhẽo giấy láng như thường lệ, chẳng có gì thay đổi. Tôi ngồi lật lật báo của ông Hersant một lúc, tôi chóng mặt y như là tối ở Mỹ lật T.V Mỹ, từ Current Affair đài 4 Fox sang Eye on L.A. đài 7. Tôi đi ngủ. 

Ðến giữa đêm, chưa quen giờ giấc, tôi tỉnh dậy và đói bụng. Ðã sang ngày mồng một Tết. Căn nhà này là loại nhà biệt lập, ba tầng và bao quanh bởi vườn riêng. Gia đình tôi có máu xây cất, ưa cải biến, mỗi tầng đều có phòng ngủ, phòng tắm, phòng khách, cái đó thì chẳng có gì là lạ. Nhưng mỗi tầng đều có cả bếp riêng thành ra theo đúng lệ thì phải thờ đến ba Táo. Ðêm rạng mùng một tết, tôi lò mò ra cái bếp ở từng một, tủ lạnh trống trơn, nồi niêu xếp ở trong tủ ngăn nắp. Tôi lò dò lên từng nhì, thấy có bề bộn hơn, đâm ra hy vọng. Mở tủ lạnh ra, linh tinh đủ loại nước ngọt, có cả vài chai Champagne để sẵn nữa nhưng mà uống Champagne, dù là thứ thật, và vào ngày mùng một Tết, tuy là hợp lý nhưng cũng không no được. Tôi tìm ra một mớ trái cây tươi, măng cụt, chôm chôm, vải. Những thứ này tươi ở bên Mỹ không có, kể thì cũng lạ miệng, lâu rồi chưa ăn, mỗi thứ tôi làm vài trái. Bụng tôi không đồng ý, vẫn còn ấm ức, tôi mở tủ lôi ra được một hộp cua Nga. Nga nhất định không còn là thiên đường xã hội chủ nghĩa nhưng cua hộp Nga hiệu Chatka tức là snow crab Tây Bá Lợi Á thì ăn đứt cá các loại cua hộp khác. Tôi khui ra ăn một phần tư hộp, chẳng hiểu có phải tại tôi chán đời hay không nhưng cua hộp ăn với trái vải tươi nó cũng chẳng nhịp nhàng. Tôi leo lên tận từng thứ ba. 

Bàn thờ để đâu thì tôi không biết nhưng trong căn bếp chót, tôi tìm ra được một cái bánh chưng. Ôi, ý nghĩa của ngày Tết. Có thế chứ, văn hóa dân tộc vẫn còn được duy trì. Tôi vừa bóc lá chuối vừa chùi tay, cái bánh chưa kịp nguội, còn nhơm nhớp gạo nếp. Cắn một miếng, bánh chưng ngọt, nhân đậu rơi vãi ra khắp nơi. Lúc bé, tôi vẫn thích bánh chưng ngọt hơn là bánh chưng mặn, có lẽ tại nhân nó người ta nhuộm đỏ, lại không có mấy cục mỡ lều phều. Ðằng này, sang đến Pháp không ai buồn nhuộm ruột bánh chưng ngọt nữa, phải nếm mới biết, tại nhìn thì nó cũng chỉ vàng vàng màu đậu như là bánh chưng mặn. Tôi không chờ đợi đến, đâm ra bất bình. Ðang đói đêm rạng mùng một Tết, lục những ba căn bếp mà còn bị miếng bánh chưng lừa mặn ngọt. Ngày đầu tiên của năm vào ba mươi lăm tuổi, chẳng cần thầy, chẳng cần xăm, chẳng cần chim bói, tôi biết thế nào cũng xui. 







CÔ PAPAE FIU

Phi trường Charles De Gaulle đóng cửa hai ngày vì sương mù, chuyến bay này trễ bốn tiếng, tôi biết. Anh chàng người miệt Bretagne này nói tiếng Pháp điềm nhiên tuy ở đây cách vùng bán đảo quê anh có mười ngàn cây hơn. Quày Air France như là một thứ sứ quán, bầu không khí đã bắt đầu rất Pháp. Tôi trao anh bịch hành lý đựng các thùng sách mới (cuốn tập truyện đầu tay của tôi vừa in xong, tựa tên “CÂY GẬY LÀM MƯA”, Tân Thư xuất bản, gồm mười một truyện, giá mười hai đồng, nghĩa là một truyện hơn được một đồng chút xíu), anh trao tôi một cái phiếu ăn miễn phí mười lăm đồng để giết thời gian trong khi đợi máy bay. Cuộc trao đổi văn hóa này, tôi leo lên lầu tính toán, đủ để qua bên phía bar ăn sò sống uống Long Island Tea khỏi cần ngồi bên quày tự phục vụ lấy ăn mỳ Nhật Bản Udon và uống Diet Pepsi. Ừ, lịch sự. 

Cái bảng “Departures” nhấp nháy, tôi nhìn những chuyến bay vào buổi tối. Ngoài AF006, SFO-CDG (San Francisco - Charles De Gaulle) 9:45 Cổng 105 còn có vài ba chuyến Trung Mỹ, Manila, Tokyo, London, Úc Ðại Lợi, Tân Tây Lan. Trước lối vào phía tay phải, ở đây mỹ miều gọi là South Concourse, bộ lạc Philippines tụ tập vài năm người ồn ào nam phụ lão ấu chờ đợi, hình kỷ niệm chụp trước restrooms (nhà vệ sinh) đàn ông đàn bà, chốc chốc lóe lên tia flash trắng xanh. Xích lại gần thêm, lui ra, ôm vai nhau, đổi chỗ, ngắm máy ngang, ngắm máy dọc. Con nít lăng xăng đuổi bắt cười nói, vài người lớn cũng chơi trò ú tim nấp sau mấy hàng ghế. Trước lối vào tay trái, North Concourse, vắng vẻ hơn, vài người Nhật thẫn thờ qua lại. Ở giữa là cầu thang máy dẫn lên lầu ăn uống, phía dưới là tiệm Duty Free vắng vẻ. Ngay lối lên xuống, một ông đen lực lưỡng ngồi trên một cái xe đẩy hành lý quay ngược lại, quần áo chỉnh tề bất động cầm giỏ xin tiền cho một họ đạo Ki-tô. Thỉnh thoảng, như để duỗi người, ông ta lại dang hai tay ra thật rộng, lẩm nhẩm mấy câu Kinh thánh. Vài đứa trẻ cầm tiền cha mẹ đưa cho đến bỏ vào giỏ, tò mò nấn ná lại một vài giây. Cách đây vài năm, để ngăn các vị quảng bá tôn giáo này làm phiền người qua lại, tôi nhớ lại ngay phi trường LAX, dưới chân, trên đầu các thang máy lên xuống có kẻ một vùng an toàn bằng gạch đỏ với bảng giải thích bằng hai thứ tiếng “Ban quản trị phi trường không có quyền cấm những người quảng đạo thi hành Ðiều Một Tu Bổ của Hiến Pháp nhưng họ không được phép quấy rầy hành khách ở bên trong vạch đỏ vì lý do an ninh”. Tấm bảng này dạo đó cũng có hiệu lực trấn an được những người yếu bóng vía như tôi, phải chờ đợi ở phi trường tôi không bao giờ đứng xa đầu cầu thang máy, lỡ có gặp nhà truyền giáo nào nài nỉ chỉ việc bước qua vạch đỏ là an toàn tức khắc (dù cho sau khi chết có phải xuống địa ngục, cái đó thì hậu tính). Dạo này không thấy những tấm bảng kiểu đó được yết thị nữa, chẳng hiểu vì tệ nạn (?) này đã giảm hay là Ðiều Một Tu Bổ của Hiến Pháp (trong đó có tự do truyền bá) đã lớn mạnh với thời gian hơn cả những lý do nhỏ nhặt về an ninh như là ngã cầu thang? 

Ðến lúc qua khỏi cổng kiểm soát vũ khí, vào đến phòng đợi của cổng 105 bốn mươi lăm phút trước giờ dự định thì nước Pháp lại gần thêm một bước. Mấy chục người ngồi rải rác chẳng có ai mang vẻ gì là Mỹ. Bây giờ vào tháng hai, ngoài dịp nghỉ, người Mỹ chắc ít ai sang Âu Châu chơi vào giữa mùa đông. Tiếng Pháp rì rào các góc, từng đám chào hỏi nhau, mấy anh tây chị đầm hôn má phải trái xã giao, vài người điềm nhiên ngồi hút thuốc dưới bảng cấm. Ngay cả với người nặng hai tai hay là điếc (nghĩa là không nghe được họ nói tiếng gì), quang cảnh trên cũng rất là “Pháp” ở hai điều vừa kể. Người Mỹ chỉ hôn nhau vào dịp gì đặc biệt, người Pháp thì thân sơ gì, mới gặp lần đầu giới thiệu cũng phải túi bụi “bise” nhau. Tôi nói thí dụ, học trung học, đến trường trước khi vào lớp, con trai con gái mươi, hai mươi người phải hôn đủ cả mười hay hai mươi. Có người hai cái, một bên trái, một bên phải, có người đến bốn, trở đi, trở lại. Nó là lễ phép khi đến, khi đi, làm tôi nhớ thằng bạn Việt Nam lúc cùng ở bên Thái. Mỗi lần sắp giao thiệp với người bản xứ, nó lại nháy mắt bảo tôi “Mày coi nè, nó sắp lạy tao, đó, thấy chưa”. Người Thái gặp ai cũng vái, chẳng cần là ông bà ông vải thì người Pháp gặp ai cũng hôn má, chẳng cần là tình nhân. Hơi phiền một tí, thì đã sao. Ðiều thứ hai là dân Tây hình như vô kỷ luật hơn ở bên này, những chữ kẻ “No Smoking” ngông nghênh chẳng coi ra gì cả, tuy là gần đây, dĩ nhiên phong trào chống hun khói người khác cũng đã lan sang tận đó. 

Chuyến bay chỉ có mình tôi là người Việt, có lẽ đồng bào ta mải lo ăn Tết, ai ở đâu ăn ở đó, ai lấy máy bay đi đâu làm gì vào trước đêm trừ tịch. Tôi lắng tai nghe loáng thoáng, mấy người ở sau lưng làm nghề tiệm cơm ở L.A. biết mặt nhau bàn những chuyện lặt vặt về business “... Mickey Rourke, diễn viên điện ảnh, mới mua lại cái bar bên cạnh quán của tôi...” Tôi lên tàu, bụng mừng thầm vì tưởng chuyến bay xuất phát ở Los, có bấy nhiêu mạng thôi, thế nào chả kiếm ra được ba bốn ghế trống để mà nằm ngủ. Nào ngờ, tàu đã đầy sẵn quá nửa. Chuyến bay này khởi hành từ Papetee, Tahiti, ở Thái Bình Dương thuộc Pháp. Tahiti thuộc về Nam Bán Cầu, ở phía dưới Hawai cách Cali tám giờ máy bay và hiện nay đang vào hè. Câu chuyện trên tàu xôn xao thời tiết (xấu) ở Paris, sương mù được dân quần đảo nhiệt đới nhắc đến như là một tai họa kinh hoàng. Trên máy bay đại đa số là người Pháp, ngay cả người chủng tộc khác coi cũng rất là “Tây”. Cô chiêu đãi Tàu nói tiếng Pháp không mang giọng ngoại quốc, anh hành khách ngăm ngăm đen chắc người Phi Châu Djibouti, Afars và Issas. Co ro trên một ghế, cổ quấn kỹ khăn choàng len, ông Trung Phi hói đầu cũng chẳng có gì đen “Mỹ”. Týp đen này cũng không thể lộn với Giáo sư phụ giảng của Howard University ở D.C. Áo blazer xanh, kiếng đồi mồi gọng lớn, người trí thức Châu Phi văn hóa Tây điển hình. Tôi tìm ra hàng ghế 40 A, B, C window; 40D, aisle. Ðầu bên kia aisle, một cô tóc vàng nhuộm lăn tăn, còn trẻ, pull lót đen ngực không đeo nịt vú, quần jean trắng háng rộng đang ôm một cuốn sách bỏ túi của tủ sách “J’ai lu”. Bốn ghế tôi và cô mỗi người hai ghế. Mấy tờ Libé, Le Monde thiên hạ đã vơ hết, tôi lục giá đựng báo phía sau lưng tìm ra USA Today và Newsweek. Lật ra nhìn, cả hai đều ấn bản phát hành ở Âu Châu. Trang chót của Section I tờ USA Today, cái bản đồ khí tượng Âu Châu bốn màu lòe loẹt. Tôi nhìn Paris, 5 độ C (tối đa), hơn cả London. 

Cho mãi đến mấy tiếng sau, vật lộn với hai chỗ ngồi để tìm ra một vị thế co giò cho êm ấm mà không được, tôi lịch sự nhường cả ba cho người con gái cùng hàng ghế. Nàng lăn ra yên ả còn tôi tự an ủi, hai chỗ hay một chỗ gì cũng khó chịu, thà để cho có người còn lợi dụng được để duỗi chân. Ðàn bà Pháp bình đẳng, cô ta đề nghị sòng phẳng tao một giấc, hết lượt lại đến mày, tôi lên cơn tử tế, chả sao, chả sao, rồi cũng thiếp được ngay sau khi cuốn phim bắt đầu được chiếu sau bữa ăn. Ðến lúc sáng, cô ta choàng dậy rất tự nhiên: “Họ có báo là máy bay đang bắt đầu xuống hay là tôi nằm mơ?” Cô ta nằm mơ, còn những hai ba giờ nữa gì đó mới đến, có lẽ tại mùi café sữa. Trong tàu chưa bật đèn nhưng vài người không ngủ được kéo màn cửa sổ nhìn ra ngoài làm ánh sáng hắt chéo vào bên trong. Tôi nhìn cô bạn đồng hành dưới cái ánh sáng phảng phất này rọi vào trong khi phần lớn thân tàu còn tối. Qua một đêm chung, cô thân mật dùng “tutoiement” với tôi mày tao. 

Corinne ở Papetee được hai năm hơn, giờ đang hè như đã nói, về Pháp lục địa chơi với gia đình một tháng. Tahiti hiện ban ngày hơn 40 độ C nhưng vào mùa mưa rất ẩm. Tôi chưa bao giờ đặt chân đến Thái Bình Dương, dĩ nhiên là trong đầu đầy dừa xanh, cát trắng, tiếng hò thôn nữ hở ngực váy rơm và Gauguin. Ở Tahiti có ba chủng tộc - Corinne giải thích, người bản xứ, người Tàu (điều này giải thích cô chiêu đãi viên hồi nãy trước khi đổi phi hành đoàn ở San Francisco) và người da trắng, dân từ Pháp lục địa “métro”. Người Tàu đến đây di dân mấy đời để buôn bán, dân lục địa trắng làm công sở hải quân, Trung tâm Nguyên tử Thái Bình Dương để thử bom. Ðời sống cái gì cũng đắt đỏ hơn đất liền “Mày có tiền nghỉ hè hãy đến”. Cách đây mười lăm năm, người bản xứ còn hiền lành, chưa có trộm cắp, hiếp dâm như gần đây. Corinne lúc bé đã từng ở với bố mẹ nhà binh đồn trú ở Tahiti nên còn nhớ. Có lẽ cô này vì con cái dân võ bị nhà nghề nên đầu óc hơi hẹp, tôi tự nghĩ. Nàng than phiền gần đây có biến động chính trị, biểu tình, đình công ở địa phương. Vào năm ngoái, tôi nhớ lại, phải rồi, cũng nhờ câu chơi chữ tìm thấy được làm tôi thích thú mãi. Năm 1968, sinh viên ở Paris chiếm đường phố, cậy đá lót đường lên làm vũ khí với khẩu hiệu vô cùng lãng mạn “Dưới gạch lót đường là bãi biển”. Năm 1988, công nhân bến tàu Papetee đánh nhau với nhân viên công lực, tôi hồi tưởng, lại bật cười “Dưới bãi biển là gạch lót đường”. Hai mươi năm, nửa vòng trái đất, thiên đàng hạ giới theo Corinne đã bắt đầu ung thối. “Dân Tahiti rất hiền và dễ thương, nàng nói, chỉ trừ khi nào họ say rượu, nghĩa là suốt cả ngày”. Nhưng mà nói đi nói lại, vẫn lý tưởng chán, Tahiti núi lửa, bãi cát đen từ thạch nham, Bora Bora atoll, bãi cát trắng từ san hô, suốt ngày bơi lội. Việc dễ kiếm, lương làm không cao tuy là có đắt. Corinne ở căn nhà một phòng ngủ có hồ tắm và tí vườn mỗi tháng trả 4000 quan ($630 US). Lương chuyên viên điện toán cho ngân hàng Indosuez $25000, một năm cũng năm tuần được nghỉ, pas de (no) problème. Nàng có cái cũng nhớ nhà “Tao mong ở bên Tây có tuyết, về nhà tắm nước nóng nằm ngâm người trong bồn và ngủ trên giường với chăn đệm bằng lông ngỗng”. Ðó, đi đây thì lại nhớ kia là như thế. Hai mươi tiếng máy bay, bố mẹ từ Bordeaux (cách Paris 700 km về phía Tây Nam ở phía bờ biển Ðại Tây Dương) lên đón bằng xe, lại còn phải sáu bảy tiếng để lái về “Qua đêm ở Paris cũng được nhưng tao muốn về nhà sớm, ngủ trong phòng tao”. Ðược một lúc Corinne lại sợ. Sợ dân Paris mặt mày khó chịu đăm chiêu khó chịu, gắt gỏng và vội vã. Nàng tạm quên đi chuyện thiếu niên bản xứ vào nhà nàng mở tủ lạnh lấy bia ra uống và ngồi sa-lông coi vidéo thản nhiên. “Năm sáu đứa mười mấy tuổi, tao hỏi ‘tụi bay làm gì đó vậy?’ chúng trả lời ngon ơ ‘Thì mày không thấy sao, coi T.V.’ tao muốn đuổi nhẹ ‘Ê, OK, giờ tao về rồi tụi bây đi chỗ khác đi’, hên mà không đứa nào làm gì tao”. Cũng câu chuyện đó, giờ càng đến gần phi trường Roissy nàng lại thấy có cái hay. “Ở Pháp, tụi nó vào nhà mày là khiêng hết đi, cái gì không mang được nhiều khi còn phá nữa, ít ra ở Tahiti không có vậy”. Tôi nhún vai làm phép, phải nói cô này coi cũng được, cao lớn, xương vuông vắn, hai bàn tay đẹp. Con người phải mâu thuẫn chứ, mâu thuẫn là nhân tính. Ở xa thì nhớ, về gần lại sợ, con người thôi. ParisBordeaux có hay hơn Papetee, Bora Bora? Cũng đều là nước Pháp. Tạm thời, có lẽ được thêm vài năm nữa. Tình hình ở Tân Ðảo (Nouvelle Calédonie) dạo này sôi sục đòi độc lập. “Dân Canak có vẻ dữ dằn hơn phong trào đấu tranh ở Tahiti” Corinne nhận xét. Tôi hỏi “Ngoài ra, người da trắng ở Tahiti có kỳ thị lẫn nhau người mới người cũ như ở Tân Ðảo không?” Ở Tân Ðảo, dân da trắng lập nghiệp lâu đời “Caldoche” không ưa người da trắng “Zoreille” mới đến vài mươi năm sinh sống. Không, Corinne cho biết, ở Tahiti da trắng là da trắng, không phân biệt cũ mới, “papae” là “papae” thôi, người da trắng nào cũng vậy. Corinne cười. Và tất cả mọi người, bản xứ Tahiti, Tàu di dân, Tây trắng papae ai nấy đều “fiu”. Chữ “fiu” nàng giải thích đại để là trạng thái thông cảm và dễ dãi cóc cần. Fiu là phè phè, là tà tà. Fiu là “cool” như ông Phật (“O Phật, you’re so cool”, chữ của Hoàng Mai Ðạt). Ở Tahiti thường thì ai cũng phải fiu thôi. 

Nhưng ở Paris, hẳn là không vậy. “Tao chỉ sợ mới xuống máy bay đã gặp người giành giật ba cái xe đẩy hành lý. Ra ngoài đường, dẫm lên chân nhau mà chẳng thèm ngó lại”. Corinne nói, “Paris khó mà fiu”. Tàu đến nơi, Paris ở bên ngoài, tôi nhìn ra thấy đã tối om. Sáu giờ chiều, chúng tôi mới vừa ăn sáng xong, người còn uể oải. Tôi hơi tội nghiệp cho cô này, tuy là cô ta hơi có cái tinh thần thuộc địa trong khi nói chuyện. Phần đông ai cũng thấy, ở đâu thì cũng kiếm ra những thứ đáng chê, đến lúc gần trở về lại đâm ra tiếc. Corinne giờ này nôn nao với cái lạnh thèm muốn hay là đã bắt đầu hối tiếc cái nóng bỏ lại đằng sau cách đây hai mươi giờ máy bay? Tôi nhìn nàng trùm vào người hai lượt áo len cũng lục túi lấy khăn cổ ra choàng vào mấy vòng cẩn thận. Khăn cổ tôi không phải bằng Cashmere mà bằng Cashmore nhãn hiệu cầu chứng 100% acrylic made in Korea, mùa rồi tôi bị lạnh phải mua ở New York. Cũng ở khu Upper East Side nhưng không phải ở trong Bloomingdale’s, ở trong đường tàu điện ngầm, anh da đen bán năm đồng một cái. Tôi nhìn Corinne ái ngại, an ủi nàng một câu “Paris không fiu đâu nhưng còn đỡ hơn là New York”. Nàng lên tinh thần hẳn, gật đầu.


Nguồn: talawas.org

No comments:

Post a Comment