NGUYỄN VIỆN - QUÁN / ĐẠI GIA / THIÊN TAI / CÀ-PHÊ SÁNG Ở SÀI GÒN / CỦA NHỮNG LINH HỒN / GIÒNG SÔNG BỊ GIẾT / KHÔNG QUÊ HƯƠNG / NƠI TỐI TĂM / THỜI CỦA NHỮNG SLOGAN / CHAI & LỌ & VÀI THỨ LINH TINH KHÁC - văn


QUÁN
kịch bản văn học
CẢNH 1
Buổi sáng. Quán hẻm bên hè phố với chiếc bàn thấp và những chiếc ghế nhựa, sơ sài. Bàn nào cũng có người ngồi. Có bàn 1 người. Có bàn 2 người. Bàn 3 đến 5 người. Hầu hết là đàn ông. Một người đàn ông dựng xe và bước đến chỗ bàn đã có 4 người ngồi. Ông ta ngó quanh tự tìm cho mình một chiếc ghế rồi ngồi xuống.

Khách 1: (nói với người đàn ông vừa mới đến – Khách 5) Đi viếng Bố Già Nam Bộ không?
Khách 5: Ông ấy không phải là người đầu tiên chết và cũng không phải là người cuối cùng. Đi làm cái gì.
Khách 2: Cũng có lý. Đợi tất cả các Bố Già ngủm rồi đi viếng một lần cho gọn.
Khách 5: Bố Già này chết, lại có Bố Già khác xuất hiện. Vẫn có cái gì đó vĩnh cửu luân lưu. Cho nên tốt nhất là không cần phải tiễn biệt bất cứ ai.
(Người chủ quán đến mời nước)
Khách 5: (nói với chủ quán) Cho một Lipton nóng.
Khách 1: Nhưng vẫn cần một nén nhang cho một người tử tế như Bố Già Nam Bộ chứ.
Khách 5: Chuyện tử tế hay không cũng cần phải coi lại. Tao không tin có một thằng Bố Già nào lại tử tế.
Khách 3: Trong trường hợp nó nghỉ hưu rồi thì có thể.
Khách 5: Đó chỉ là một trò điếm.
(Ở bàn bên cạnh có ông khách trẻ ngồi một mình, đang đọc báo. Ông ta ngẩng đầu nhìn người Khách 5, rồi lại cúi xuống chăm chú đọc tiếp).
Khách 2: Làm từ thiện đang là một cái mốt. Lương tâm tỉnh thức về già cũng là một cái mốt để mua một vé cho đời sau. Bọn cơ hội lúc nào cũng biết cách tận dụng lợi thế.
(Người chủ quán bưng nước đến, ông ta định nói một điều gì đó, nhưng khi nhìn thấy ông khách ngồi đọc báo một mình nên thôi.)
Khách 5: Tốt nhất là cứ coi như tụi nó không có.
Khách 1: Làm sao coi tụi nó như không có được khi chúng ta vẫn phải giữ lề luật của bọn nó.
Khách 2: Cứ địt mẹ chúng nó là xong.
Khách 1: Cũng chẳng có cái gì xong. Chửi chúng nó thì cũng chỉ có mình nghe.
(Khách 4 tủm tỉm cười và rít một hơi thuốc, ngửa cổ thả khói lên trời. Có tiếng chuông điện thoại. Khách 5 rút điện thoại trong túi quần.)
Khách 5: (nói điện thoại) Anh đây... Đề tài gì vậy?... Để anh tính, sẽ báo lại em sau... Ok, bye.
(nói với Khách 4) Mày viết kịch bản phim không? Bọn Thiên Hà đặt hàng.
Khách 4: Phim truyền hình hay phim nhựa?
Khách 5: Truyền hình nhiều tập. Mỗi tập 5 triệu. Đề tài cho Teen.
Khách 4: Teen không viết. Tao không thích nhố nhăng. Tao chỉ thích xúi dại thôi.
Khách 1: Để tao viết cho. Ba ngày nữa đưa đề cương.
Khách 5: Ok.
Khách 2: Xét cho cùng, cũng chẳng có nghề nào lương thiện.
Khách 4: Có đấy. Tôi chỉ viết những gì tôi thích.
Khách 2: Ông có viết vì tiền không?
Khách 4: Ở Hollywood người ta viết vì tiền. Ở New York Times người ta cũng viết vì tiền. Ở tạp chí Văn Nghệ, tạp chí Cộng Sản, hay Thanh Niên, Tuổi Trẻ... người ta cũng viết vì tiền hoặc một thứ gì đó hơn cả tiền. Những chỗ đó không có tôi.
Khách 2: Cứ cho là như thế. Nhưng ông viết cũng vì một mục đích riêng nào đó chứ. Mà cái mục đích của ông có chắc là không gây tai hại cho người khác?
Khách 4: Tất nhiên là có thể gây hậu quả, tốt hoặc xấu. Nhưng cục cứt thối không phải là không cần thiết như một bông hoa thơm.
Khách 2: Dù ở lĩnh vực nào. Người ta cần có trách nhiệm với cộng đồng.
Khách 4: Đấy là giáo điều của bọn cai trị. Tôi chỉ muốn người ta nổi loạn.
(Ông khách ngồi đọc báo ở bàn bên cạnh liếc nhìn Khách 4)
Khách 2: Tôi không ủng hộ nhà nước. Nhưng có thể là vô tình, ông có cùng giọng điệu với một phe phái khác. Đó cũng là một cái bẫy.
Khách 4: Không vô tình, cũng không có một cái bẫy nào cả. Vấn đề không phải là có đồng điệu hay không với một phe phái nào đó, mà là có tự do hay không. Và cái tự do ấy cho phép người ta trở nên khác biệt trong khi người ta vẫn có thể có một tiếng nói chung.
Khách 3: Mấy cha cãi nhau chuyện cũ xì. Đây mới là vấn đề mới: Trưa nay kiếm chỗ nhậu không? Lâu quá chưa nhậu.
Khách 1: Nhậu thì nhậu. Ngồi ở đâu?
Khách 3: Vào Dinh Tổng Thống đi.
Khách 2: Ok. Nhưng còn sớm quá. Ngồi đây chút nữa.
Khách 5: Mấy ông đọc bài trên Đàn Chim Việt online chưa?
Khách 2: Có gì hay?
Khách 5: “Bao giờ Trung Quốc tấn công Việt Nam?”. Một bài đáng quan tâm. Đọc xong bần thần cả người.
Khách 1: Vấn đề là thời gian thôi.
Khách 2: Vấn đề lúc nào mà không là thời gian.
(Mọi người cười).
Khách 4: Cầu cho nó đánh. Phải để cho mấy thằng Cộng sản nó dạy nhau thì mới tỉnh ra được.
(Ông khách ngồi đọc báo ở bàn bên cạnh lại liếc nhìn Khách 4.)
Khách 2: Đừng giận mất khôn. Nó đã dạy mấy lần rồi mà có tỉnh ra đâu.
Khách 5: Tôi không hiểu nổi đến giờ này mà tụi nó vẫn bợ đít thằng Tàu.
Khách 3: Chính mấy ông mới cần tỉnh ra đấy. Mấy ông đừng quên thằng Tàu ho là thằng Việt Nam ốm liền.
Khách 4: Ông cũng đừng quên là bọn giặc cỏ Mông Cổ, bọn mọi rợ Mãn Thanh đã từng đạp đầu cỡi cổ người Hán.
Khách 2: Nhưng rồi người Mông Cổ, người Mãn Thanh cũng đã bị Hán hóa. Điều kỳ diệu nhất của lịch sử con người là người thắng trong thời chiến lại thường là kẻ thua trong thời bình. Ở Việt Nam bây giờ cũng đang diễn ra quá trình đảo ngược đó.
Khách 3: Ông có mơ không đấy?
Khách 2: Mặc dù xã hội càng lúc càng suy đồi, nhưng nếu nhìn sâu vào bên trong, chúng ta lại thấy những giá trị cũ của cái vốn bị coi là sản phẩm của cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam đang được phục hồi một cách ngoạn mục. Hay nói một cách khác, chính các giá trị văn hóa xã hội truyền thống của miền Nam cũ đã cứu vớt dân tộc này không nát bét trong cái vực thẳm của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa máu me.
Khách 5: Bọn Cộng sản đã phung phí nhân mạng và thời gian cho sự ngông cuồng ngu xuẩn.
Khách 3: Chửi Cộng sản hoài không chán à?
Khách 5: Cuộc chiến của sự lì lợm. Im lặng là bỏ cuộc. Và người ta chỉ mong có vậy.
Khách 2: Bi kịch nhất của dân tộc Việt Nam ngày nay là hội chứng yêu cái xiềng xích của mình. Và những người tỉnh thức bị coi là dở hơi.
Khách 1: Thôi, lên đường. Đi nhậu cho bớt dở hơi.
(Cả bọn đứng lên rời quán cà phê).

CẢNH 2
Quán cà phê tối thui. Những chiếc ghế đôi xếp hàng quay lưng vào nhau và quay lưng lại với khán giả. Người phục vụ cầm đèn pin soi đường dẫn một cặp tình nhân vào ghế ngồi.
Giữa tiếng nhạc êm dịu, bất chợt một tiếng thì thầm: “Nhột em”. Hoặc đôi khi một tiếng rên nhẹ. Khán giả không nhìn thấy gì, chỉ thỉnh thoảng có một cặp đứng lên sửa lại quần áo cho ngay ngắn trước khi rời quán. Cũng thỉnh thoảng lại có một cặp khác vào.
Một ai đó đốt thuốc.
Tâm điểm của sân khấu tập trung vào đốm lửa của điếu thuốc.
Khi điều thuốc tàn. Những tiếng rên của các cô gái lúc làm tình bắt đầu vang lên, từ nhỏ rồi to dần. Và cực đại như một bản hòa ca tràn ngập không gian, cho đến khi bất chợt đèn bật sáng...

CẢNH 3
... Người ta chỉ thấy trên sân khấu một quán nhậu. Trên bàn của 5 ông khách quen thuộc, những dĩa mồi đã cạn. Những vỏ chai nằm ngổn ngang dưới đất. Những ly bia đang uống dở...Vẫn có người khách ngồi một mình ở bàn bên cạnh.

Khách 1: Quán nhậu cũng như bóng đá, thực chất là cái được chính quyền định hướng để ru ngủ nhân dân. Nó tạo ra ảo giác về tự do và sự thịnh vượng của cuộc sống. Bởi thế không lạ gì người ta thấy quán nhậu tràn lan như hội hè và bóng đá được tôn vinh như phẩm giá dân tộc mặc dù đó là một nền bóng đá què quặt và dơ bẩn.
(Người khách ngồi một mình nhìn Khách 1 với một vẻ căm ghét.)
Khách 2: Quán nhậu là chỗ để người ta chỉ trích, chửi bới chính quyền mà không sợ bị bắt.
Khách 3: Quán nhậu là chỗ để xì hơi sự bất mãn.
Khách 4: Quán nhậu là chỗ để người ta cảm thấy cuộc đời đáng sống.
Khách 5: Vui cũng nhậu. Buồn cũng nhậu. Không vui, không buồn cũng nhậu.
Khách 2: Cô đơn cũng nhậu. Làm ăn cũng nhậu. Gặp bạn gặp bè không thể không nhậu.
Khách 3: Nhậu là làm tình với cuộc sống.
Khách 4: Nhậu là giết người trong mộng.
Khách 5: Nhậu là khí phách nam nhi.
(Một cô gái bước đến, tay cầm ly bia.)
Cô gái: Nhậu là thường tình nhi nữ.
(Cô gái kéo ghế ngồi xuống.)
Khách 2: Ừ, thế mới oách. Cứ nhậu là OK.
Khách 3: Nhậu không cần bao cao su.
Khách 4: Nhậu không cần tính đảng.
Khách 5: Nhưng nhậu cần có tính dục.
Cô gái: (nâng ly) Anh Năm lúc nào cũng có lý.
Mọi người cùng nâng ly: Em là mồi của bọn anh.
Cô gái: Chấp cả 5 anh đó.
(Người khách ngồi một mình nhìn cô gái chăm chăm.)
Khách 4: Ừ, làm tình cũng cần tính đoàn thể mới vui.
Khách 3: Cũng cần tính khủng bố.
Khách 2: Và đếch cần tính truyền thống.
Cô gái: Nhưng nhất thiết phải có lãnh đạo.
Khách 5: Tất nhiên, đó là vai trò của em.
Cô gái: Nhất trí thế nhé.
Tất cả họ cùng nâng ly và hô: Dzô...
Khách 1: Uống rượu, dễ có cảm giác mình là “phần còn lại của thế giới”.
Cô gái: Không uống rượu, em vẫn thấy anh là “phần còn lại của thế giới”. Có lẽ đó là điều khiến em luôn luôn là một fan của anh.
Khách 1: Thật ra, không bao giờ có cái gọi là “phần còn lại của thế giới”. Đó chỉ là ảo tưởng. Cái tính đồng nhất nơi con người mới là thật. Và đó là điều kinh khủng nhất.
Cô gái: Chỉ những người như anh mới nhận ra điều đó. Và nó làm cho anh trở thành “phần còn lại của thế giới”.
Khách 2: Chúng mày muốn tán nhau thì để lúc khác. Mồi là của chung.
Tất cả họ lại cùng nâng ly và hô: Bọn tao là tất cả thế giới. Dzô...
Khách 3: Bọn còn lại là hư ảo. Dzô... (Hắn nâng ly một mình.)
Khách 4: (cụng ly với cô gái) Và mồi bao giờ cũng chỉ là bánh vẽ.
Cô gái: Tội nghiệp anh Tư thiếu đức tin. (Cô gái cầm tay anh Tư đặt lên ngực mình) Mồi thật và sự sống thật.
Khách 5: Hàng hiệu đó.
Khách 4: Cái gì không thuộc về mình thì cái đó không có.
Cô gái: Em đây anh à.
Khách 3: Thằng này nó “mục hạ vô nhân”. Em cho nó biết thế nào là nữ quyền đi.
Cô gái: Em sợ anh Tư choáng.
Khách 4: Thử đi.
Cô gái: Thật chứ không thử.
Khách 4: Coi chừng anh phải bỏ chạy.
Cô gái: Đồ đểu.
Khách 3 (nâng ly): Cái này thì phải... vào.
(Ánh sáng mờ dần rồi tối hẳn.)

CẢNH 4
Quán chỉ có một người khách duy nhất ngồi. Chủ quán là một bà già, thỉnh thoảng đi ra đi vào. Khách là một cô gái. Không ra vẻ chờ đợi một ai. Hững hờ. Trước mặt cô là chai bia và gói thuốc. Cho đến khi cô gái hút hết điếu thuốc thứ hai, vẫn chẳng có điều gì xảy ra như người ta có thể chờ đợi.
Bỗng nhiên, những âm thanh xốn xang của xe cộ ngược xuôi đổ dồn đến, tràn ngập khán phòng. Cô gái vẫn ngồi im.
Màn từ từ khép lại.

9.9.2008





ĐẠI GIA

1.
Năm 1975. Trong ba ngày liền, trước khi Long Khánh được giải phóng, hàng ngàn quả pháo đã nã vào tỉnh lỵ nhỏ bé là cửa ngõ của thủ đô miền Nam này. Những quả đạn đại bác 122 ly đầu tiên của quân giải phóng đã rơi vào giữa chợ vào thời điểm đông người nhất. Người chết và bị thương nằm la liệt. Mọi người chạy tán loạn tìm chỗ ẩn nấp. Nhưng chẳng có chỗ nào thực sự an toàn. Từng căn nhà đổ sập.
Và khi tiếng bánh sắt của những xe tăng T54 nghiến trên mặt đường hùng hổ tiến vào thành phố, một sư đoàn bộ binh phòng thủ của quân đội miền Nam được tăng cường thêm một lữ đoàn Dù hoảng loạn bỏ chạy. Người dân hoang mang sợ hãi cũng hối hả chạy theo.
Một toán quân giải phóng án ngữ ngay dưới chân đèo Mẹ Bồng Con. Dù chạy bộ hay bằng các phương tiện cơ giới, tất cả mọi người đều bị chặn lại. Một số được cho đi, nhưng cũng có những nhóm người bị dẫn vô rừng. Không ai biết số phận của họ sau đó ra sao.

2.
Hai ngày sau khi Long Khánh được bình định, hơn ba trăm người còn kẹt lại trong rừng cao su dưới chân đèo, thuộc xã Tân Lập. Tiếng súng vẫn nổ ở phía họ muốn đi tới. Họ không muốn quay lại nên đành phải cắm trại chờ nghe ngóng tình hình. Trong số họ, có một nghĩa quân còn giấu theo cây súng. Và anh ta đã không dằn được lòng khi phát hiện một bộ đội đi lẻ loi. Chỉ bằng một phát duy nhất, anh nghĩa quân đã bắn chết anh bộ đội giải phóng.
Tất cả hơn ba trăm người bất kể già trẻ lớn bé bị dồn ra giữa khoảng đất trống. Họ được yêu cầu chỉ mặt kẻ đã bắn chết anh bộ đội. Mọi người khiếp đảm, kêu gào khóc lóc, nhưng không ai khai. Thật sự họ không biết gì để khai.
Viên đại uý đại đội trưởng ra lệnh: “Bắn.” Súng nổ. Gần một nửa số người chết gục ngay tại chỗ.
Tất cả những người còn sống bị buộc đứng lên. Tiếng kêu khóc hoảng loạn vang một góc trời. Đàn bà, trẻ con sụp lạy, rên rỉ.
Lần thứ hai, viên đại uý lại ra lệnh: “Bắn. Không để sót một người nào.”

3.
Ba mươi năm sau. Thân nhân của những người chết ở xã Tân Lập vẫn làm đám giỗ vào ngày 23 tháng 4, nhưng không một ai đến tận nơi xảy ra cuộc thảm sát để thắp nhang. Ký ức không phải bị quên lãng mà được dấu kín. Một cán bộ được chi tiền để qui tập hài cốt trong khu vực, nhưng anh ta đã dùng xe ủi cào bằng ngôi mộ tập thể của hơn ba trăm thường dân và những ngôi mộ lẻ tẻ của các chiến binh giải phóng khác.
Viên đại uý năm xưa đã giải ngũ, ra khỏi đảng và lấy cô gái con một tên tư sản mại bản làm vợ. Hắn trở thành đại gia sau đó ít năm. Người ta gọi hắn là anh Sáu.

4.
Đại – thiếu tá biệt kích quân đội Việt Nam Cộng Hoà, sau khi Long Khánh thất thủ, đã chạy một hơi tới Philippines. Ở trại tỵ nạn, người Mỹ hỏi: “Ai tình nguyện đi Phi châu chiến đấu?” Đại đăng ký. Anh được đưa thẳng tới Zimbabwe, tiếp tục đeo lon thiếu tá và hưởng lương theo tiêu chuẩn Mỹ.
Những cuộc thảm sát diệt chủng khắp Phi châu không làm Đại lạnh lưng, nhưng anh sởn gai ốc mỗi khi gặp người da vàng nói tiếng Hoa trong khu vực này. Không phải vì sợ. Người Trung Quốc như một nỗi ám ảnh trong cuộc chiến của chính anh, dân tộc anh, mặc dù chưa bao giờ anh chạm trán họ trên chiến trường. Bởi thế, chỉ sau ít năm, từ Zimbabwe đến Sudan, Đại quyết định giải ngũ và xin định cư ở Bắc Cali, Mỹ.
Đại mở một tiệm bán rượu và làm đơn bảo lãnh cho vợ con đoàn tụ.

5.
Khi đến Mỹ, hai con trai đầu của Đại vào thẳng đại học. Cô gái út vào trung học. Cuộc sống êm đềm cho đến khi cả hai ông con tốt nghiệp ngành kinh tế. Ông em, tên Định muốn học tiếp lấy tiến sĩ. Trong khi ông anh, tên Đức muốn về Việt Nam làm ăn. Đại nói với Đức: “Con chờ bố một thời gian.” Đại mở cho Đức một quán rượu khác trên Lake Tahoe.
Đại mua thêm một chiếc xe 16 chỗ. Mỗi cuối tuần, anh chở thuê cho đám sinh viên Việt Nam du học đi chơi. Những câu chuyện về cuộc đời anh làm bọn trẻ mê hoặc, nhất là những câu chuyện ăn chơi liên quan đến những nghệ sĩ nổi tiếng trước kia ở Sài Gòn. Nhưng đối với Thi, cô gái Bắc, học năm cuối ngành tài chánh lại thích nhất câu chuyện về việc anh đã có hai triệu đô vào năm 24 tuổi và làm mất nó như thế nào. Một người lính Fulro trên Dakto, Kontum đã cắt cổ một người Mỹ khi anh này mang tiền lên chi cho bọn phản loạn. Đại và người bạn đã cướp được số tiền đó. Anh xuống Đà Nẵng xài vung vít trong các bar và tìm cách gửi tiền về cho mẹ ở Sài Gòn. Nhưng một em cave đã ngửi được chỗ anh giấu tiền. Và sau đó anh nhận được lá thư cảm ơn của Mặt trận Giải phóng.
Thi hỏi anh: “Chú có tiếc không?”
Đại nói: “Tôi chưa phải tiếc một điều gì trong đời. Nhưng tôi sẽ rất tiếc nếu Thi về Việt Nam.”
Thi nói: “Thì thuê nhà cho Thi ở để khỏi tiếc.”
Chuyện nhỏ. Mỗi nửa đêm, Đại mở cửa sau, lén vợ lái xe đến nhà Thi. Đại cũng giấu tất cả bạn bè mối quan hệ không bình thường này.
Chiếc răng khểnh, cái lưỡi rám và cách yêu đương nghiến ngấu của Đại làm Thi mê mệt. Nhưng mối tình nặng phần sinh lý này cũng chỉ kéo dài chưa đầy một năm. Thi về nước để điều hành một dự án của ông bố.
Trên chuyến bay của hãng Eva từ San Francisco về Việt Nam, Đức ngồi cạnh Thi.

6.
Đức nói: “Tôi rất thích những khu rừng ở Mỹ. Nó luôn cho tôi cái cảm giác bí ẩn cần khám phá nhưng lại không quá nguy hiểm.”
Thi bảo: “Em cũng thích rừng. Đặc biệt thích loại cây ở khu 17 Miles. Đẹp cổ kính như trong cổ tích.”
“Khu đó đã thuộc về người Nhật rồi.” Đức nói.
Thi bảo: “Một ngày nào đó, em sẽ trở lại Mỹ và mua một cánh rừng.”
“Để làm du lịch?” Đức hỏi.
“Không, để nghỉ ngơi.” Thi nói tiếp. “Khó có thể tìm ở Việt Nam một cảm giác bình an như trong những cánh rừng của Mỹ.”
“Ô, tuyệt vời.” Đức tán thành. “Nhưng tôi chưa có khái niệm nghỉ ngơi.”
“Cũng phải thôi.” Thi nói. “Chẳng có lý do gì lại không tận hưởng cuộc sống.”
“Rất giống bố tôi.” Đức nói tự nhiên.
Thi cười: “Tôi nghĩ là tôi biết ông ấy. Và tôi tự hỏi là sao anh không giống ông ấy tí nào vậy?”
“Em biết bố tôi?”
“Có gì lạ đâu. Chuyến bay này do bố anh sắp xếp mà.”

7.
Anh Sáu đã giải ngũ sau khi được chuyển công tác về cơ quan thuế. Và anh bị buộc ra khỏi đảng khi quyết định cưới cô gái mà anh đã gặp trong đợt đánh tư sản. Có một chi tiết trong cuộc hôn nhân của anh được giấu kín, đó là sự hàm ơn của gia đình vợ đối với việc anh đã để cho họ tẩu tán tất cả đô la, vàng bạc, nữ trang trong lúc anh được phân công canh gác và kiểm kê nhà cô gái.
Bản thân anh được chính quyền chia cho căn nhà đã lấy của gia đình cô gái, sau khi gia đình này bị đuổi đi kinh tế mới.
Anh Sáu tin vào số phận của mình. Anh cũng tin vào số phận của hơn ba trăm người mà anh đã ra lệnh tàn sát. Sự nhân đạo bất ngờ mà anh có được đối với gia đình cô gái chỉ vì anh thấy cô quá đẹp và cũng vì mẹ của cô đã dúi vào túi quần anh mấy lạng vàng.
Anh đã hoàn toàn đúng. Sau nhiều năm lưu lạc, cô gái là con chủ cũ của căn nhà anh đang ở quay trở về đề nghị mua lại. Anh nói: “Tôi không bán. Nhưng tôi rất vui lòng đón cô và gia đình về ở với tôi.”

8.
Đám cưới của anh Sáu có mặt tất cả bạn bè cùng đơn vị cũ, cũng như những người bạn trong cơ quan thuế của anh hiện tại. Anh không muốn bỏ sót một ai, bởi vì anh biết sẽ đến lúc anh cần đến bạn mình.
Với phần góp vốn của gia đình vợ, anh Sáu mở một cửa hàng kinh doanh vật liệu xây dựng. Anh đã bắt mạch đúng hướng đi của xã hội và mau chóng phất lên. Người ta đã đi từ thái cực của sự lén lút đến thái cực của sự khoe của. Hệ thống lý thuyết điều hành xã hội mất định hướng. Đó cũng là thời cơ tuyệt vời cho những kẻ cơ hội. Từ thương mại, anh Sáu nhảy vào sản xuất, một thương hiệu gạch bông mang tên Plus do anh làm chủ, tuy không độc chiếm thị trường, nhưng có một thị phần đáng kể, đặc biệt trong các công trình công cộng, anh có ưu thế tuyệt đối, bởi anh biết tận dụng mọi mối quen biết.
Triết lý hành động của anh đơn giản. Mình ăn cơm thì cho người khác ăn cháo. Đôi khi cháo ngon hơn cơm, anh chấp nhận chia sẻ như một nguyên tắc. Bởi thế, hoá đơn bán hàng của anh cho các đơn vị nhà nước, sản phẩm loại 2 được kê giá loại 1, khoản chênh lệch anh được hưởng 30%. Môi giới các công trình, anh ăn 10%. Với các đại lý, anh giữ uy tín tuyệt đối và kiểm soát giá bán. Phần khai thuế, anh giao hẳn cho trưởng phòng Thuế thu xếp. Khoản trốn tránh nghĩa vụ được chia 1/3 cho người phụ trách. Chính quyền các cấp đều ít nhiều hưởng bổng lộc của anh. Bởi thế, các dự án trong khu vực ảnh hưởng của anh ít khi tuột khỏi tay anh, nhất là các dự án liên quan đến đất đai. Đôi khi, anh cũng vẽ ra các dự án. Và anh cũng vẽ ra các cuộc đời.

9.
Thành phố vào loại đẹp nhất Việt Nam, Đà Lạt cấp cho anh 100 mẫu đất bên hông ngọn núi Lang Biang với điều kiện Sáu phải qui tụ và lập một làng những người Hà Nội nổi tiếng. Đây sẽ là một mô hình dân cư sang trọng tầm cỡ thế giới và sự độc đáo của nó phải mang tính thời đại Hồ Chí Minh. Ai sẽ được chia phần và qui chuẩn sự nổi tiếng như thế nào do anh Sáu toàn quyền quyết định.
Vấn đề đầu tiên cần giải quyết là giải phóng mặt bằng. Bằng một quyết định hành chánh, dựa trên qui hoạch của thành phố, chính quyền yêu cầu mọi cư dân trong khu vực phải di dời trong vòng 4 tháng và được đền bù giải toả theo giá đất nông nghiệp.
Hơn 200 gia đình mất đất canh tác và không còn chỗ dung thân. Không ai biết số phận của họ sau đó ra sao.
Làng những người Hà Nội nổi tiếng được hình thành trên bản vẽ, nói cho công bằng cũng khá đẹp và trong thực tế thì cũng không thể nói là xấu, mặc dầu nó là một quần thể lộn xộn và đầy tính lai tạp, khoe khoang. Người nổi tiếng nhất ở đó tất nhiên là Sáu vì anh được gọi là Già Làng. Nhưng Già Làng chỉ xây khách sạn, một năm anh ở ít ngày. Những cư dân còn lại tuy không được nổi tiếng như chính quyền mong ước, nhưng bản thân họ rất hài lòng, vì họ sống trong làng được gọi là của những người nổi tiếng.

10.
Tuy không phải người Hà Nội, nhưng Thi nói giọng Bắc, cô được anh Sáu chia cho một mẫu với một khoản đóng góp tượng trưng bằng 50% giá thị trường. Sự ưu đãi của anh Sáu dành cho Thi không chỉ bởi Thi đẹp, mà bởi cô còn là một cô gái đầy tiềm năng của một lãnh vực kinh doanh mà anh Sáu rất muốn vươn tới, thị trường tài chính. Quan trọng hơn, Thi là con gái của một “nhân vật mà ai cũng muốn bắt quàng làm họ.”
Thi xây chùa. Cô nói, kinh doanh niềm tin chắc chắn không lỗ. Cô thuê người trụ trì giỏi bói toán và thuê cả người quản lý nguồn tài chính do sáng kiến “du lịch tâm linh” mang lại. Doanh thu từ chùa của Thi mang lại nhiều hơn khách sạn của anh Sáu.

11.
Làm thế nào để kết thân với “nhân vật mà ai cũng muốn bắt quàng làm họ” là mục tiêu lớn nhất của Đức khi quyết định về đầu tư tại Việt Nam. Cũng như anh Sáu, Đức biết rằng luật không bằng lệ, và cũng chẳng có cái lệ nào không có biệt lệ. Chiếc cầu dẫn đến “nhân vật mà ai cũng muốn bắt quàng làm họ” đã nhờ bố anh mà có. Tuy nhiên, anh vẫn phải tự mình tạo ra một mối ràng buộc cần thiết với nhân vật ấy ngoài sự quen biết thông thường trong tính cách gia đình qua Thi.
Cơ may hình như lúc nào cũng sẵn sàng đợi anh. Ông đại sứ Mỹ tại Hà Nội mời Đức ăn cơm tối. Ông cho biết có một người bạn ở đại học MIT, người bạn giáo sư này muốn nhờ ông cứu anh con trai đang bị chính quyền Việt Nam bắt giữ vì gây tai nạn chết người. Ông đại sứ không thể ra mặt làm chuyện này, bởi thế hỏi Đức có thể giúp được không?
Đức gọi điện thoại cho mẹ Thi, cho biết sự việc.
Mẹ Thi nói: “Tôi ra điều kiện nhé.”
Đức: “Vâng.”
Mẹ Thi: “Tôi cần hai xuất học bổng trọn gói, từ lúc bắt đầu nhập học đến khi tốt nghiệp, tôi nhắc lại là tốt nghiệp đại học MIT. Hết.”
Đức trình bày lại với ông đại sứ. Sau khi gọi điện thoại về Mỹ, quay sang Đức, ông đại sứ bảo: “Nói với bà ấy, được.”
Trong vòng 48 tiếng, anh con trai người Mỹ lái xe gây chết người được hộ tống ra sân bay đi Hồng Kông.

12.
Hai xuất học bổng đại học MIT với cam kết tốt nghiệp không biết “nhân vật mà ai cũng muốn bắt quàng làm họ” tặng hay bán lại cho ai. Chỉ biết rằng sau đó một năm, “nhân vật mà ai cũng muốn bắt quàng làm họ” đã trở thành “nhân vật mà ai cũng phải sợ.”
Chính vì thế, một hệ thống các nhà hàng và vũ trường mang tên LUK đã lần lượt ra đời ở những vị trí tốt nhất, không những tại Sài Gòn mà cả ở Hà Nội, do Việt kiều tên Đức làm chủ. Không một ai biết cái bí mật thành công của hệ thống LUK nằm ở chỗ 4/10 lợi nhuận được chia cho bà vợ của “nhân vật mà ai cũng phải sợ” mà mệnh phụ phu nhân này không phải bỏ ra một đồng vốn nào.

13.
Sự thắng lợi của hệ thống LUK trước hết là công của Đức. Anh có những tính toán của một người biết đo lường nhiệt độ chính trị và tận dụng những mối quan hệ đó. Nhưng để kinh doanh thành công thì phải kể đến linh hồn của nhà này, đó là Định.
Tiến sĩ kinh tế của đại học Harvard, nhưng nhờ di truyền dòng máu lang bạt của ông bố, Định theo anh về Việt Nam với tham vọng dựng nên một thương hiệu riêng cho gia đình.
Cả hai anh em nhà này đều nhất trí rằng, một xã hội càng thiếu minh bạch, càng tham nhũng thì càng dễ làm ăn. Bởi thế, chiến lược kinh doanh của họ được xúc tiến như sau:
Bước 1: Tìm kiếm sự bảo kê của một nhân vật quan trọng trong chính quyền.
Bước 2: Xây dựng mô hình kinh doanh dành cho đối tượng là giai cấp trung lưu đô thị với mức giá cạnh tranh nhưng vẫn giữ được sự sang trọng.
Bước 3: Bằng mọi giá tìm kiếm những địa điểm tốt nhất dựa trên mối quan hệ với thế lực cầm quyền.
Bước 4: Nhân rộng địa bàn hoạt động.
Không một nhân vật giang hồ, xã hội đen hay đỏ nào dám đến quấy nhiễu khi biết hệ thống LUK do bà vợ “nhân vật mà ai cũng phải sợ” bảo kê.

14.
Nhân có bố về Việt Nam chơi, Đức đưa cả gia đình và bố lên Đà Lạt. Họ nghỉ ở khách sạn Bồng Lai của anh Sáu.
Định nói với Đức: “Có lẽ đến lúc chúng ta cần có cơ sở ở xứ du lịch này.”
Đức bảo: “Đúng. Tiền sảnh của khách sạn này nên là chỗ bắt đầu chúng ta cắm rễ ở đây.”
Liên là bạn học cũ của Thi thời trung học, trưởng nhóm săn lùng địa điểm, được yêu cầu đến trao đổi với giám đốc khách sạn Bồng Lai.
Liên nói với anh Sáu: “LUK muốn thuê cái tiền sảnh và một nửa sân trước của khách sạn. Hy vọng rằng sự góp mặt của nhà hàng LUK sẽ làm tăng thêm sự hấp dẫn của Bồng Lai.”
Anh Sáu nói: “Rất tiếc là chúng tôi không muốn có sự chung đụng của một thương hiệu khác trong giang sơn của mình.”
Liên: “Em nghĩ vấn đề nằm ở chỗ khác.”
Anh Sáu: “Ý cô muốn gì?”
Liên: “Dạ, không phải em muốn, nhưng sếp em muốn.”
Anh Sáu: “Cô về nói với sếp, tôi không thích chơi với Việt kiều.”
Liên: “Thưa anh Sáu, em có một sếp khác.”
Anh Sáu: “Sếp nào cũng thế thôi. Phiền cô nhé.”
Liên: “Anh nghe em nói rồi hãy đi cũng chưa muộn. Sếp em là “nhân vật mà ai cũng phải sợ.”
Anh Sáu: “Thật không?”
Liên: “Tin em đi. Anh sẽ không thiệt thòi.”

15.
Thật bất ngờ, anh Sáu nhận được lời mời đến gặp “nhân vật mà ai cũng phải sợ.” Ông ta cho biết mục đích: “Chúng tôi muốn tạo cơ hội cho anh.”
Anh Sáu: “Vâng, em xin thỉnh giáo.”
Ông ta: “Chúng tôi muốn anh có mối giao hảo với gia đình nhà LUK. Anh sẽ đi du lịch Mỹ cùng với ông Đại, bố của Đức. Cứ ăn chơi thoải mái. Và bằng cách nào đó, qua ông Đại, anh tổ chức mua giùm chúng tôi một số thiết bị an ninh viễn thông. Theo chỗ chúng tôi biết, ông Đại có mối quan hệ với các tổ chức tuyển mộ lính đánh thuê ở Mỹ. Danh mục cần mua sẽ được thông báo sau.”
Anh Sáu: “Thưa anh, chuyện này ngoài chuyên môn của em.”
Ông ta: “Chính vì nó ngoài chuyên môn của anh, chúng tôi mới cần anh. Vấn đề kỹ thuật sẽ có người phụ anh. Hãy làm như một người lính. Và giữ bí mật, kể cả cuộc gặp tôi.”
Anh Sáu cảm thấy không có đường rút lui.

16.
Cùng vào thời điểm đó, Thi thành lập một công ty mới chuyên kinh doanh vật tư viễn thông.

17.
Đại được anh Sáu mời đi Nha Trang xem thi hoa hậu. Đại phát biểu: “Gái Việt Nam càng ngày càng đẹp. Nếu xã hội Việt Nam cũng phát triển được như thế thì hay nhỉ.”
Anh Sáu: “Chuyện gì cũng phải có thời gian. Được tới đâu chúng ta hưởng tới đó.”
Đại: “Vấn đề là người dân có được hưởng không?”
Anh Sáu: “Người dân thì không chắc, nhưng với anh thì được.”
Đại chợt hiểu ý anh Sáu, tuy nhiên vẫn còn ngờ vực: “Các em danh giá thế thì chắc khó.”
Anh Sáu: “Nếu anh muốn, mọi chuyện tôi lo, trừ hoa hậu ra, anh chọn ai cũng được.”
Đại cười: “Nếu tôi chỉ thích hoa hậu thôi thì sao?”
Anh Sáu: “Khó hơn một chút. Nhưng không phải là không thể.”
Đại lại cười: “Sau đó thì sao?”
Anh Sáu: “Chẳng sao cả. Tôi với anh là bạn.”
Đại hỏi tiếp: “Anh chờ đợi gì ở tôi?”
Anh Sáu: “Chỉ mong được là bạn anh.”
Sau đêm đó, họ hẹn nhau ở Đà Lạt. Ba ngày sau, khi Đại đến khách sạn Bồng Lai, cô hoa hậu đã đợi anh sẵn trong phòng.

18.
Đại hỏi cô hoa hậu: “Em mất trinh từ khi nào?”
Hoa hậu: “Đêm sinh nhật 16.”
Đại: “Cho bồ hay bị hiếp?”
Hoa hậu: “Chính xác là bán.”
Đại: “Và tiếp tục bán đến bây giờ?”
Hoa hậu: “Dạ, nhưng chỉ khi nào cần tiền thôi.”
Đại: “Chúc mừng em có code giá mới.”
Cô hoa hậu làm tình như thợ.

19.
Đại gặp Thi trong bữa ăn sáng tại khách sạn.
Đại hỏi: “Em lên đây lâu chưa?”
Thi: “Chiều hôm qua. Còn anh?”
Đại: “Cũng hôm qua.”
Thi: “Anh đi một mình?”
Đại: “Em lên phòng anh nhé. Lâu quá rồi...”
Thi: “Cũng được.”
Đại: “Chồng con em thế nào?”
Thi: “Không có vấn đề gì.”
Đại: “Còn đám bạn sinh viên của em hồi đó có về Việt Nam hết không?”
Thi: “Nói chung, chỉ những đứa có tiền và thế lực như em mới về. Còn những đứa nghèo thì nó ở lại để thay đổi cuộc đời.”
Trong phòng của Đại, họ cùng cố tìm lại những cảm giác cũ.

20.
Quê hương, đồng nghĩa với những cô gái Việt mà Đại có thể dẫn vào khách sạn. Bởi thế, khi anh Sáu hỏi:
“Anh nghĩ gì về quê hương?”
Đại chỉ cười: “Có lẽ cũng tuỳ thời điểm. Với tôi bây giờ, quê hương chỉ là những vùng địa lý trên thân thể phụ nữ, là những cảm xúc mà tôi có thể cưỡi lên chúng.”
Anh Sáu: “Nhưng nếu cần làm một điều gì đó cho quê hương thì anh vẫn sẵn sàng chứ?”
Đại: “Nếu điều đó cho tôi một cảm xúc chân thật.”
Anh Sáu: “Có lẽ anh nói đúng. Thật ra, quê hương không chỉ là một nơi mà ta có cha mẹ, anh em, bạn bè hoặc một người thân thương ở đó.”
Đại: “Nó cũng là nơi mà ta có quyền lợi.”
Anh Sáu: “Vậy thì, nó cũng là nơi ta có trách nhiệm.”
Đại: “Trách nhiệm là một điều sáo rỗng. Tôi đã từng cầm súng để bảo vệ một phía khác của quê hương như anh, và tôi cũng từng cầm súng đánh thuê như một người vô tổ quốc. Và tôi thấy, vấn đề của con người ở bất cứ đâu là các điều kiện.”
Anh Sáu: “Tôi thích sự sòng phẳng của anh.”

21.
Đêm Noel, vũ trường LUK đông nghẹt. Mùi rượu, khói thuốc, son phấn và nước hoa các loại cùng với âm thanh cường độ mạnh làm cho bầu không khí bị dồn ép quánh đặc. Đức thoáng thấy bóng của Hoàng-Đôla. Anh mỉm cười. Thằng nhóc này là một trong số các công tử đang làm giàu cho Đức. Không mấy đêm vắng mặt bọn nó. Đức ghé đến quầy tính tiền, anh liếc qua phiếu ghi của bàn Hoàng-Đôla, gần mười ngàn đô tiền rượu. Gấp năm ngày thường. Đức nói với quản lý: “Mang thêm cho Hoàng-Đôla một chai rượu, nói tôi tặng.”
Tổng doanh thu đêm đó của riêng vũ trường LUK, Đức thu được gần 200 ngàn đô.
Ba ngày sau, Liên xin phép được gặp sếp.
Liên nói: “Anh Hoàng gửi lời cám ơn anh.”
Đức: “Có gì đâu.”
Liên: “Anh Hoàng cũng nhờ em nói với anh, anh ấy muốn mua lại hệ thống LUK.”
Đức: “Cô nói sao?”
Liên: “Anh Hoàng muốn mua lại toàn bộ nhà hàng, vũ trường của LUK.”
Đức: “Hoàng nói với cô từ bao giờ?”
Liên: “Dạ, mới sáng nay. Anh ấy bảo anh cho một cái hẹn để gặp.”
Đức: “Tôi chưa bao giờ có ý định sẽ bán LUK.”
Liên: “Anh Hoàng bảo anh nên thu xếp.”

22.
Đức đến gặp bà vợ của “nhân vật mà ai cũng phải sợ.”
Đức: “Hoàng–Đôla bắn tiếng cho em rằng nó muốn mua lại toàn bộ LUK.”
Bà ta: “Tôi biết chuyện đó.”
Đức giật mình: “Nó đã gặp chị?”
Bà ta: “Phải. Nó đề nghị chia cho tôi sáu phần mười.”
Đức nhẫn nhịn: “Em xin lỗi chị. Để em tính lại, từ tháng tới em sẽ biếu chị theo tỉ lệ mới.”
Ra đường, Đức văng tục: “Địt mẹ con đĩ chó.”

23.
“Con đĩ chó” có bộ mặt béo phị như lợn nhưng khôn lanh như cáo. Bà gọi Hoàng–Đôla đến, bảo: “Có bốn chục ký hêrôin đã được đánh tráo trong kho tang vật của cơ quan an ninh và cần phải tái xuất. Cậu lo giùm việc này nhé.”
Hoàng: “Phần em bao nhiêu?”
Bà ta: “Tuỳ cậu.”
Hoàng: “Ba mươi phần trăm.”
Bà ta: “Cậu đánh giá mình hơi cao đấy.”
Hoàng: “Thôi chị cho xin hai mươi. Dưới mức đó em rút lui.”
Bà ta: “Được rồi. Tôi sẽ cho người hộ tống cậu qua cửa khẩu.”

24.
“Con đĩ chó” cho gọi Định.
Bà ta nói: “Tôi đánh giá cao công sức của anh em nhà cậu. Vì thế, tôi muốn có món quà cho cậu.”
Định cười cười: “Có đáng gì đâu chị.”
Bà ta: “Đây là một việc tôi luôn ấp ủ, cho đất nước, cho giới trẻ và cũng là cho tôi. Đó là xây dựng một đại học tầm cỡ quốc tế. Tôi nghĩ cậu có thể giúp tôi thực hiện ước mơ này. Vấn đề tiền bạc, tôi nói luôn, cậu không phải bận tâm. Tất cả do tôi đầu tư và tôi muốn cậu đóng vai trò cố vấn cho tôi cũng như cho nhà trường sau này. Công sức của cậu được tính trị giá 20% cổ phần. Cậu về soạn hợp đồng làm việc rồi mang cho tôi coi. Không cần phải bàn cãi nữa, phải không?”
Định: “Cám ơn chị.”
Anh ta nhủ thầm: Con mẹ này không chỉ tham mà còn muốn lưu danh thiên hạ. Định biết, kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục đại học béo bở chẳng thua gì bất động sản.
Bà ta: “Nhân tiện, tôi cũng nhờ cậu về Mỹ tìm kiếm mua giùm tôi một căn nhà, ở Cali nhưng tránh xa cái bọn Little Saigon mắc dịch ra.”

25.
Công ty nhập khẩu vật tư viễn thông của Thi chỉ là một văn phòng nhỏ. Nhưng doanh thu của nó không ai kiểm soát được. Tất cả hàng nhập về đều đi thẳng tới các kho của quân đội. Và lợi nhuận của công ty này được chia một phần ba cho anh Sáu.

26.
Anh Sáu ít quan tâm đến gái, mặc dù anh vẫn phải thường xuyên chiêu đãi nhân vật này, nhân vật kia cái khoản giải trí tươi mát ấy. Nhưng anh ái mộ Thi cả về tài năng lẫn nhan sắc. Đôi lần anh tỏ tình với Thi, cô chỉ cười bảo: “Anh nên tìm các cô chân dài cho đỡ mệt óc.”
Yêu Thi, anh Sáu đột nhiên trở thành thi sĩ. Anh làm thơ và in được hai tập thơ rất đẹp và sang. Tuy nhiên tiền in thơ không tốn kém bằng tiền anh chiêu đãi các nhà báo và bạn bè văn chương khác. Tất nhiên đó chỉ là chuyện nhỏ. Anh muốn được công nhận như một nhà thơ đích thực và muốn được kính trọng như một người có tâm hồn, chứ không phải chỉ là một người có tiền. Càng chính đáng hơn khi anh khẳng định đẳng cấp văn hoá của mình bằng cách sưu tập tranh. Thế nhưng, tranh anh sưu tập đa số lại là hàng đểu. Điều đó không hoàn toàn do lỗi anh ngu dốt, mà một phần bởi các nhà báo chỉ viết được những gì do đám hoạ sĩ lừa đảo cung cấp.
Tuy nhiên, đỉnh cao của tình yêu nghệ thuật nơi anh Sáu chính là ở việc anh quyết tâm trở thành hoạ sĩ. Cũng thật đơn giản khi bọn nhà báo đã giúp đưa giá tranh của anh lên như một bậc thày đương đại.

27.
Đôi khi tự xét, anh Sáu thấy mình có tất cả, ngoại trừ Thi. Và anh nghĩ, vẫn còn thời gian để thu xếp chuyện đó.

8.11.2008





THIÊN TAI

1.
Vào ngày lễ của mẹ năm 2008, nhân vật N của truyện ĐI.COM đã bước ra khỏi cuốn sách vừa mới được in chui trước đó mấy ngày. N có nước da hơi đen và số tuổi đúng như bà chủ quán cà phê, mà tôi vẫn uống vào những sáng chủ nhật, đã bói cho tôi: “Đó là cô gái sẽ làm đời anh thay đổi.” Hình như tất cả mọi cô gái bán quán đều ít nhiều biết bói bài. Câu hỏi mỗi ngày của họ là hôm nay có tiền không, chứ không phải là hôm nay có gặp được ai không. Và họ luôn luôn bói bằng một cỗ bài mới. Trong khi tôi lại nghĩ, nếu họ bói bằng một cỗ bài cũ, với những câu hỏi càng ngày càng cũ, họ sẽ có cơ may đoán đúng hơn. Bởi tôi tin rằng, bị gặng hỏi mãi, thì ngay đến một bộ bài vô tri nhất, cũng sẽ phải nói ra điều gì đấy.
N bảo, sắp đến ngày vía Bà rồi. Anh đi Châu Đốc với em nhé.
Tôi nói, việc đi Châu Đốc theo như trong truyện thì mãi đến năm 2030 em mới đi với anh.
Nhưng N bảo, em không chờ được đến ngày đó.
Để anh thu xếp, tôi nói.
Một tuần sau, chúng tôi đi Châu Đốc trên chuyến xe mà ngày trước tôi đã cùng ngồi với Phượng và ông Đạo Tiếng.
N hỏi, anh có nhớ không?
Tôi nói, nhớ. Tuy nhiên tôi đã không kể lại việc tôi đã làm quen với Phượng như thế nào.
N bảo, em muốn là tất cả những cô gái đã đi qua đời anh.
Tôi cười nói, như thế thì đĩ quá.
N nhún vai, có sao đâu. Anh không thích em đĩ à?
Thích chứ. Tôi nói ngay. Mọi lúc mọi nơi.
Vừa thôi ông ơi. Sức ông bao nhiêu mà ham thế. N bảo.
Nói cho sướng miệng. Về mặt nhận thức, tôi nói thêm, biết rằng em lúc nào cũng sẵn sàng trong mọi tư thế, mọi tình huống, hạnh phúc chứ.
Chỉ có thế? N hỏi.
Ừ, lúc này, anh không muốn bận tâm đến bất cứ điều gì khác. Tôi nói.
Sao đến nông nỗi vậy? N lại hỏi.
Tôi hất đầu, chẳng sao cả, chỉ vì sắp chết thôi.
N cười, muốn chết cho nhanh?
Ừ.
Xe qua ngã ba Trung Lương. Tôi nói, em không giống như nhân vật trong truyện.
Nhưng giống với mẫu đàn bà anh thích hơn? N hỏi.
Có lẽ vậy. Tôi bảo.
N nói, em là giấc mơ của anh. Em đến để hoàn tất cho anh.
Tôi bảo, bà thày bói cũng nói thế. Nhưng em định ở với anh bao lâu?
Cho đến khi có một cô gái khác. N nói.
Tôi bảo, như thế em đâu có hoàn thành sứ mạng.
Sao lại không hoàn thành, khi anh đã thật sự được là anh? N hỏi ngược lại.
Tôi bảo, em nói em sẽ là tất cả những cô gái đã đi qua đời anh.
Thì đúng vậy, còn những cô sau này sẽ chỉ là cái bóng của em thôi. N nói.
Tôi cười, sướng thật.
N cũng cười, anh lúc nào cũng chỉ tưởng tượng.
Tôi nói, em có thật đâu.
Em mới là sự thật. N bảo. Những cái anh tưởng là thật đã qua rồi.
Tôi cầm bàn chân của N đang gác trên đùi. Xoa bóp nhẹ. Tôi muốn hỏi, em đã qua những thế giới nào? Những chuyện thần tiên ở New York sẽ là những chuyện thần tiên ở Sài Gòn. Sự tưởng tượng là một sự thật khác hay chỉ là phóng tưởng hư ảo. Ở một bình diện nào đó, sự tưởng tượng có giá trị “vật chất” không?
Tôi nói với N, anh vẫn ước ao, em biến sự tưởng tượng của anh thành sự thật.
N bảo, em đang ngồi với anh trên chuyến xe đi Châu Đốc, giá vé một trăm hai mươi ngàn một người, đúng không?
Đúng, tôi nói.
Như thế thì đâu phải anh mơ.
Bàn chân của N vẫn nằm trong tay tôi. Tôi bẻ những ngón chân của N, hỏi: Đau không?
Không, em thích. N nói.
Cầu Mỹ Thuận sáng rực. Nhưng tôi không nhìn thấy gì dưới dòng sông. Tôi chợt buồn cười với khám phá rằng, trời tối mênh mông ngoài kia hay trời tối đặc một chỗ tôi ngồi thì cũng không khác gì nhau. Tất cả những người khách khác trên xe đã ngủ.
Tôi nói với N, em ngủ đi.
Nếu em ngủ thì anh sẽ biến mất, N bảo, như thế chính tôi mới là nhân vật hư cấu.
Cầm tay N, tôi ngả người ra ghế. Bàn tay rất mềm dù hơi xương xẩu.

Mùa mưa mới đang sắp bắt đầu. Khí hậu nóng bức và những con ve kêu réo vang trời. Phượng xách rổ ra vườn hái mấy ngọn rau lang và mùng tơi. Cô muốn chiêu đãi N và V một bữa ăn “cây nhà lá vườn” với mấy con cá rô vừa mới bắt được. Phượng gọi điện thoại hỏi V, “anh muốn ăn cá chiên hay kho tộ?” V trả lời, “cá kho tộ, rau luộc và mắm kho quẹt.” Phượng đùa, “hay là thế này: rau kho tộ, cá kho quẹt và mắm đun sôi cho có tinh thần cách tân?” V bảo, “không cần cách tân thì cũng đến ngày phải ăn rau kho tộ thôi.”
Phượng mỉm cười nhớ lại đoạn nói chuyện điện thoại với V. Cô cũng không biết từ lúc nào, cô đã bước vào thế giới siêu thực của V. Mặc dù xóm Hòa Hảo của cô, căn nhà có mái tôn trắng của cô chẳng có gì thay đổi, ngoài mấy cuốn sách V gởi.
Những cuốn sách cô đọc đi đọc lại đã muốn rách. Những chữ gần như cô đã thuộc. Nhưng cái anh chàng V ba lăng nhăng vẫn cứ lạ với cô. Cô tự hỏi, sao hắn có thể ấm ớ dây mơ rễ má với tất cả các cô gái, trừ mình? Có phải hắn là thằng cha xấu xa không? Nhưng mình cũng chẳng có lý do gì để ghen với N. Có người bảo N là cứu cánh của V. Nhưng Phượng lại cho rằng N chỉ là một điểm tựa để V có thể đi qua cây cầu của sông “mê” đến bến “hoặc.”
Điều lạ lùng nhất của họ chính là mối quan hệ không phải vợ chồng, cũng không phải tình nhân.
Có tiếng con Bili sủa. Phượng đi ra cổng. Lão khùng đang đứng xớ rớ với một bịch nylon nặng trĩu trên tay. Phượng hỏi, “Có gì không?” Lão khùng nói, “Tôi đem cho cô mấy trái xoài để cô đãi khách.” “Sao biết tôi có khách?” Phượng hỏi. “Chuyện gì ở nhà cô tôi cũng biết,” lão khùng thành thật nói. “Ông làm chỉ điểm cho công an hả?” Phượng lại hỏi. “Không, cô nói oan tôi. Tôi chỉ là người quan tâm đến cô,” lão khùng phân trần. “Tôi không lấy đâu. Ông đem ra chợ bán lấy tiền,” Phượng bảo. “Tôi đâu cần tiền,” lão khùng nói. “Thế ông cần gì?” Phượng vẫn hỏi. “Tôi không cần gì cả,” lão khùng ôn tồn. “Được rồi, tôi nhận. Nhưng từ giờ về sau, không được mang cho tôi cái gì nữa nghe,” Phượng bảo. “Dạ, cô nói tôi nghe,” lão khùng ngoan ngoãn. Bất chợt, Phượng lại hỏi, “Ông có muốn gặp bạn tôi không?” Lão khùng nói, “Tôi không biết nói chuyện. Tôi cũng không biết gặp bạn cô để làm gì. Tôi chỉ muốn nhìn thấy cô thôi.” Phượng bảo, “Vậy lần sau ông cứ đứng xa mà nhìn, đừng đòi vô nhà tôi, nhớ không?” “Dạ, cô nói tôi nghe,” lão khùng bước đi.
Người đàn ông đó ngang tuổi V. Nhưng V phơi phới bao nhiêu, thì lão dúm dó bấy nhiêu. Lão cũng có một cái nhà và mấy cây xoài. Mọi người trong xóm nói lão khùng sống với một âm hồn. Lão trò chuyện suốt ngày suốt đêm với âm hồn đó, và chuyện gì lão cũng biết. Cũng có người nói, Đức Thày nhập vào lão. Dù tin hay không, lời đồn đại này khiến lão được mọi người đối đãi tử tế. Ngưởi ta bỏ gạo và đồ ăn vào nhà lão. Bù lại, lão cũng luôn mang niềm vui đến cho mọi người bằng những lời tiên tri vô thưởng vô phạt.
Bỗng nhiên Phượng gọi giật, “Nè, ông khùng. Ông ăn cơm chưa?” Lão khùng quay mặt nhìn Phượng, “Tôi không sống bằng cơm.” Phượng bực mình nói, “Thôi, ông đi đi.”
Đối với Phượng, lão khùng chỉ có một nhân dáng còm ròm duy nhất và một tuổi tác tèm lem không thay đổi. Dường như lão không có quá khứ. Không có quá khứ thì không có nhân quả, phải chăng điều ấy làm cho lão hạnh phúc, hay cái sự khùng bất biện của lão mới là nguồn hạnh phúc? Phượng đứng tần ngần hồi lâu, cô tự hỏi V có hạnh phúc hơn lão khùng không? Sáng sớm mai V và N mới đến, nhưng Phượng đã chuẩn bị cho bữa ăn chào đón họ từ hôm nay. Điều ấy làm cho cô vui. Lão khùng cũng đã muốn làm điều gì đó cho Phượng vui. Nhưng cuộc sống không công bằng, Phượng chưa bao giờ vướng bận về những điều lão khùng đã làm cho mình, dù lão luôn biết trước những việc nặng nhọc của Phượng cần được giúp đỡ. Lão giống như ông Bụt trong những truyện cổ tích.

Đây là tôi.
Tôi thấy ai cũng khùng, nhưng chỉ có mình tôi được gọi là “lão khùng.” Mặc dù, không ai minh triết hơn tôi. Bởi không ai tự biết mình hơn tôi. Có một xung lực ghê gớm luôn gùn ghè xô đẩy trong tôi và khi cái xung lực ấy thoát ra khỏi cổ họng tôi, lập tức nó biến thành những lời u nhã bậc nhất. Tôi đoan chắc rằng, chính Đức Thày cũng đã có một trạng huống như tôi. Thậm chí có người còn cho rằng Đức Thày đã nhập vào tôi. Nhưng tôi biết chắc Đức Thày đã giải thoát. Những gì còn lại của ngài ở thế gian chỉ là mấy bức di ảnh và một ít huyền thoại. Chính tôi cũng là một trong những huyền thoại của ngài. Nhưng thật sai lầm khi cho rằng tôi đang rao giảng về ngài. Bởi vì cũng đã đang có những huyền thoại về tôi được thêu dệt nên ở cái xóm quê nhỏ bé này. Dù chỉ mang một hình hài hèn mọn, nhưng không ai trên thế gian này mạnh mẽ hơn tôi. Tôi có thể làm được tất cả mọi việc và thấu hiểu mọi sự. Thế mới khùng. Tất cả mọi chúng sinh đều có căn tính Phật, nhưng chỉ có Phượng trong tất cả những người tôi biết ở xứ sở này, đang chuyển hóa thành Phật ngay trong kiếp lai sinh. Bởi vậy nhiệm vụ của tôi là dọn đường cho Phượng. Nhưng điều quái quỉ nhất, một thứ tình cảm không thể diễn tả làm tôi quyến luyến cô ấy. Điều này dẫn đến nguy cơ cả tôi và Phượng sẽ không thể giải thoát. Hằng đêm, những ảo tượng của dục vọng tà dâm như những con ngựa hung hãn cỡi nhau trên bờ cỏ và biến tôi thành kẻ sát sinh. Dục bất khả tuyệt. Thế mà tôi nửa tu nửa tục, dang dở bẩm sinh. Hằng đêm tôi giết ngựa mà vẫn muốn quì xuống ôm chân Phượng. Mùi Phượng tràn trề linh hồn tôi. Hình hài Phượng làm bốc cháy thân xác tôi. Tôi phải giết Phượng trong từng ý niệm của cái tồn lưu sinh tử phập phù oái oăm của tôi. Nhưng Phượng như tòa sen lộng lẫy chỗ tôi thiền định. Phượng là hương sắc nhiệm màu khải thị tôi giữa cuộc sống đầy bí ẩn.
Chiều nay mang mấy trái xoài cho Phượng và được biết thằng cha V sẽ đến đây, đó là điều tôi không muốn. Chẳng phải tôi ghen tuông với hắn, nhưng vì hắn chính là một hóa thân của tôi trên cuộc đời hiện thực này. Hắn không hề biết tôi chính là hắn, hay hắn chính là tôi, một cuộc song trùng hãn hữu của trời đất và duyên nợ nghiệp chướng của chúng tôi. Chỉ có tôi, kẻ thấu hiểu mọi sự, mới biết được bí mật kỳ lạ này. Đó là sự lộn kiếp. Hoặc tôi, hoặc hắn đã đầu thai nhầm thế hệ. Những gì hắn làm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tôi và ngược lại. Bởi vậy, tôi cần phải điều chỉnh hắn trên lộ trình giải thoát của tôi, cũng là cho hắn. Nhưng tôi không thể giáp mặt hoặc đi cùng với hắn. Thiên cơ bất khả lậu. Một cuộc gặp gỡ giữa tôi và hắn có thể sẽ phá vỡ cái mắt xích luân hồi không chỉ của riêng hai chúng tôi mà toàn thể cục diện chúng sinh.
Hắn có thể chơi với ai cũng được, nhưng tôi không thích hắn trở thành bạn của Phượng, mặc dù tôi biết mình đối với Phượng ra sao, hắn cũng sẽ đối với Phượng như vậy. Bởi vậy tôi nghĩ, tốt nhất là không cho hắn đặt chân đến đất Hòa Hảo này.

Dự định đi Châu Đốc vào buổi sáng, nhưng N bị nhức đầu, nên chúng tôi đã đổi vé đi ban đêm. Trưa ăn cơm xong, tôi chở N đi massage. Sẽ thật vô duyên nếu tôi và N không cùng tắm hơi chung với nhau, không nằm cạnh phòng nhau khi đấm bóp, bởi thế, tôi nói với người phục vụ, dành riêng phòng xông hơi cho chúng tôi 15 phút.
Nhìn chiếc khăn N quấn trên đầu che cho tóc khỏi ướt, tôi thấy N đẹp như một cô gái Ả Rập.
Tôi nói, nhìn em khỏa thân mờ nhân ảnh trong hơi nước chắc là tuyệt. Lãng mạn một chút đi.
N bảo, kỳ cục. Lỡ có người vào.
Tôi nói, anh muốn lưu giữ một hình ảnh đẹp của em.
Thôi đi. N bảo.
Đừng bỏ phí cái khoảnh khắc sẽ trở thành thiên thu, tôi nói.
N cười, thiên thu thì chết em.
Sống ngay và quên nhanh, đang là một khẩu hiệu đương thời. Tôi hôn khoảng vai trần của N. Khi chia tay vào phòng massage riêng, chúng tôi không nói gì nữa. Cô gái làm cho tôi có bàn tay to bè, nhưng đấm bóp êm ái. Dường như ở phòng bên cạnh, N đã ngủ. Gần hết giờ, cô gái ghé sát vào tai tôi hỏi, “Anh có muốn làm gì nữa không?” Tôi nói, “Sao cũng được.” Cô gái đổ dầu xoa bóp vào thằng nhỏ của tôi, rồi sục. Một lúc, cô hỏi, “Sao lâu thế?” Tôi nói, “Mỏi tay thì thôi.” Cô gái bảo, “Em thích nhìn thấy đàn ông xuất tinh.” Tuy vậy, tôi cũng không thể chiều cô được.
Sự kích thích quá độ làm tôi đau bụng. Những cục cứt lổn nhổn nhưng mềm thoát tục rơi tõm xuống hố thẳm của nghệ thuật ý niệm trong cái bồn cầu men sứ trắng, tôi nhớ tới câu chuyện của nhà thơ Dương Tường kể về họa sĩ Nguyễn Trọng Kiệm ở Hà Nội nhiều năm trước đây, đại khái rằng, một lần cả bọn được một nhà sưu tập tranh mời đi ăn, ông họa sĩ rất ấn tượng với cái toilet của nhà hàng. Khi nhà sưu tập hẹn ngày hôm sau sẽ mời nhậu tiếp ở nhà ông ta, thì ông họa sĩ nhất định để dành cái bụng đầy cứt của mình đến nhà ông sưu tập để được ỉa một cái cho đã đời trong cái toilet sạch sẽ. Lời thú nhận của họa sĩ Nguyễn Trọng Kiệm với nhà thơ Dương Tường tuy không cho người ta thấy cái kinh hoàng của các hố xí xã hội chủ nghĩa, nhưng ít ra cũng cho người ta biết được cái sướng của việc ỉa ở một chỗ văn minh.
Với tôi, cảm giác thong dong của cái bụng trống rỗng đôi khi cũng sướng chẳng thua gì việc xuất tinh.
Thoải mái, tôi nhìn N cười, cô gái vừa sục cặc tôi cũng cười.
Tôi hỏi N, bớt nhức đầu chưa?
N bảo, đỡ rồi.
Tôi nói đùa với N, đến lượt anh nhức đít.
N bảo, bậy bạ.
Ngồi uống trà, tôi nhìn N trang điểm lại trước khi về và nói một câu rất thừa, lúc nào anh cũng thấy em đẹp.

Cảm giác đầy ứ ở đầu thằng nhỏ không được giải phóng từ buổi trưa làm tôi bồn chồn. Người tài xế đã tắt đèn trong xe. Tôi cầm tay N đặt vào háng tôi. N không phản ứng, cô chỉ ấn nhẹ bàn tay xuống để cho tôi hiểu cô đã biết tôi muốn gì.
Tôi lại đau bụng khi vừa qua Bắc Vàm Cống.
N cũng nói, em bị đau đầu lại.
Chúng tôi uống thuốc trên xe. Tuy nhiên một cảm giác bất an lớn dần lên như có những cây nhang đang cháy trong bụng tôi.
N nói tiếp, càng lúc em càng thấy khó chịu.
Tôi quay qua xoa bóp vùng đầu cho N. Nhưng chỉ qua vài động tác, N đã gạt tay tôi ra, nói đừng đụng vào em nữa, đau lắm.
Tôi nghĩ cả hai chúng tôi cần phải được khám bệnh. Bởi vậy, thay vì sẽ xuống xe ở bến phà Năng Gù, chúng tôi đi thẳng Châu Đốc.
Ở phòng khám bệnh, bác sĩ nói, tôi không thấy có dấu hiệu gì hai người bị bệnh.
Tôi hỏi N, tình trạng của em bây giờ sao?
N nói, hình như em cũng cảm thấy không còn vấn đề gì.

Đây là tôi thứ thiệt.
Tôi vẽ hai hình nhân gồm một nam và một nữ sát cạnh nhau trên mặt đất, rồi cắm một cây nhang giữa đỉnh đầu người nữ, một cây nhang giữa bụng người nam. Tôi ngồi xuống trước mặt họ, tập trung tinh thần.
Các ngươi sẽ bị thiêu đốt bởi chính các ngươi. Các ngươi sẽ bị u mê bởi chính các ngươi. Các ngươi sẽ bị cùng khốn bởi chính các ngươi. Các ngươi sẽ phải phiền muộn vì chính các ngươi. Các ngươi sẽ phải căng thẳng vì chính các ngươi. Các ngươi sẽ phải gục ngã vì chính các ngươi.
Khi cây nhang tàn, tôi biết V và N sẽ không thể đến được đây. Nhưng tôi không thể chặn được Phượng đi Châu Đốc gặp họ. Tôi không dám làm điều gì trái ý Phượng. Khi đi ngang nhà tôi ra bến phà, Phượng nói: “Trông chừng giùm tôi con chó.” Thế có nghĩa là hàng ngày tôi phải mang cơm cho chó ăn. Con chó trở thành Đức Phật của tôi. Phượng là Bồ Tát của tôi. V và N là ngạ quỷ của tôi.
Tôi qua hàng xóm xin cơm và đồ ăn mặn. Họ hỏi tôi: “Không tu nữa à?” Tôi nói tôi đang tinh tiến sắp thành Phật. Họ cười bảo tôi đúng là khùng. Tôi nhủ thầm, bọn khùng bao giờ cũng nghĩ người khác khùng. Và tôi cảm thấy mình độ lượng.
Con Bili sủa vang khi thấy tôi. Mày cũng khùng như người ta, tôi nói. Cơm đây, thưa ngài. Tôi đặt tô cơm với cá kho vào phía trong cánh cổng. Đứng khoanh tay chờ. Mày không ăn tao không về được. Con chó lại sủa. Mày muốn tao dâng hoa nữa chăng? Tôi lội xuống nước hái một bông hoa lục bình màu tím. Con thành kính dâng ngài. Ngài ở lại xơi cơm, chiều con đến hầu hạ ngài. Tôi ra bến phà hát nghêu ngao. Thỉnh thoảng có người cho tôi tiền. Tôi lấy tiền mua nhang cúng Đức Thày.
Mặc dù tôi biết chắc chắn tôi là hiện thân của Đức Thày, Đức Thày là hiện thân của Phật, nhưng tôi không là Phật. Mỗi khi thắp nhang trước bàn thờ Đức Thày, lòng tôi như lửa đốt. Có điều gì đó thôi thúc tôi phải nói. Tôi thuộc lòng Sấm giảng của Đức Thày, nhưng điều kỳ lạ là khi đầu tôi nghĩ như Sấm giảng thì miệng tôi lại nói như một thằng lăng nhăng bất nhã. Có khi tôi lập ngôn mà không biết. Dẫu sao, tôi vẫn được mọi người tôn kính như Đức Thày tái thế. Ngoại trừ Phượng coi tôi ngang hàng như con Bili. Tôi tưởng tượng cảnh Phượng xoa đầu tôi như xoa đầu con Bili, tôi thấy mình hạnh phúc. Tôi sẽ bò dưới chân Phượng, liếm láp như con Bili vẫn làm. Tôi sẽ nằm ngửa ra như con Bili vẫn đùa giỡn như thế cho Phượng đạp chân lên mặt. Và tôi sẽ ôm bàn chân Phượng đặt lên môi mình. Và mút từng ngón chân Phượng. Và liếm sạch gan bàn chân Phượng. Và tôi cúi lạy Phượng như tôi vẫn lạy Bồ Tát. Và tôi thờ Phượng trên đầu tôi. Và tôi tụng niệm Phượng trong tâm can tôi. Vũ trụ được tạo thành và duy trì bởi dục. Nhưng dục bất khả túng. Thế mà tôi thủ dâm Phượng vượt không gian và thời gian. Dục lai láng từ tiền kiếp đến hậu kiếp. Con đường giải thoát tôi ở đâu? Tôi hiện tồn cùng với dục vô chấp trước. Thằng cha V đểu cáng biết tôi mê Phượng, nó hư cấu Phượng mê thằng cha Đạo Tiếng, bạn nó, bỏ tôi một mình trong cõi điên loạn trùng phùng viễn mộng thơ ngây. Tôi lại có thêm lý do giết V để đem Phượng về với bản quán chân như xứ Hòa Hảo giao tình với lão khùng thiết thực.
Mày cứ lên núi Cấm tìm Phật mà xin cứu độ. Tao sẽ có cách giết mày không dơ tay.

Dưới lán lợp bằng lá dừa, những chiếc võng nylon mắc lủng lẳng thành một hàng dài trông như một bầy ngựa bị nhốt. V nằm giữa, bên phải là N, bên trái là Phượng. Cả ba đều nhắm mắt. Ở mỗi đầu võng có một cái bàn nhỏ, trên đó lỏng chỏng ba ly nước thốt nốt gần cạn.
V nói trong lúc vẫn nhắm mắt, anh có cảm giác như đang động đất.
Phượng bảo không phải đâu. Cái cây mắc võng rung đó.
N nói động đất hay không thì vẫn cứ phải nằm. Em muốn ngủ.
V bảo, ừ ngủ đi.
Tuy nói thế, nhưng V thấy nắng lung linh trong đôi mắt nhắm của mình. Liền sau đó là những vạt lửa chạy trên đồng cỏ, nó dồn đuổi V về phía chân trời. Không chân đứng. Mất hút hai cô bạn gái. Trong khi cả N và Phượng đều bị vướng vất bởi những ý nghĩ về mối tương quan không thể xác định giữa họ với nhau, mặc dù họ đang cùng chia sẻ một trải nghiệm về cái hang. Nơi chốn mà người ta cùng cảm thấy chung một số phận. Rất khác với khi người ta ngồi chung trong một căn phòng, hay trên một chiếc xe. Đó cũng là cảm thức về sự tách biệt khỏi thế giới xung quanh.
Tiếng gió xào xạc làm cho sự yên tĩnh của ban trưa trở nên nhẹ nhàng hơn giữa nắng chói chang và hai người đàn bà. V duỗi thẳng chân, hắn muốn đạp đến một chỗ nào đó, nhưng điều ấy chỉ có nghĩa là chân hắn rớt ra khỏi chiếc võng. Đôi khi người ta cũng cần phải biết bơi, hắn nghĩ. Hụt chân và hụt hơi. Bỗng dưng V cảm thấy mình như người khuyết tật. Tôi thiếu cái gì? Tất nhiên không phải một chiếc xương sườn mỹ miều, một con cặc hoành tráng hay đôi cánh thiên thần.
Chỉ có lão khùng ở Hòa Hảo biết V thiếu cái gì. Nhưng thay vì bù đắp cho V, lão khùng đang hô biến một thằng cha V lếu láo vớ vẩn ra khỏi cuộc đời. Bởi không biêt mặt V, lão vẽ hình V theo nhân dáng của chính lão, rồi đặt tấm hình trên một cái đĩa.
Thắp mấy cây nhang, lão đặt cái đĩa lên bàn thiên. Ngửa mặt lên trời, lão thầm khấn vái, chết mẹ mày đi, biến mẹ mày đi, máy bay đâm vào mày, xe hơi tông vào mày, xe bò húc vào mày… Sau đó, lão cầm tấm hình vẽ đốt.
Trên chiếc võng, V bồn chồn xao xuyến. Hắn mở mắt và phát hiện dưới đất đầy những con sâu màu xanh to bằng ngón tay đang bò lổn ngổn.
V vội vàng gọi N và Phượng: Chạy nhanh ra khỏi đây.
N hoảng hốt và cô không thể đặt chân xuống đất. Giữa lúc ấy người chủ quán xuất hiện. Bà ta cầm cây chổi cứng quét.
Cách đó không xa lắm, lão khùng gục xuống. Lão đã đốt chính lão.

Ngày hôm sau, khi về Hòa Hảo, Phượng mới biết tin lão khùng bị đột quị. Cô quay trở lại Châu Đốc vào nhà thương thăm lão khùng. Lão không nói được, chỉ ứa nước mắt nhìn Phượng. Cô cảm thấy khó xử. Nuôi lão thì quá khùng, mà bỏ mặc lão thì bất nhẫn. Cuối cùng Phượng tự an ủi, cô chẳng có trách nhiệm gì với lão, cứ để cho thần thánh và nhà nước lo. Phượng ra về, lòng buồn vô hạn. Một ngày nào đó, cô cũng sẽ nằm một mình như thế, chờ chết. Phượng tự hỏi, mình có đủ can đảm để tự xử khi chán sống hoặc không thể cứu vãn mạng sống? Cảm giác về nhà giống như chui vào nấm mồ, Phượng đi lang thang ngoài đường. Tôi chẳng sống vì điều gì, thế mà tôi vẫn sống. Tôi cũng là một con điên.
Buổi tối, Phượng quay lại nhà thương với lão khùng. Cô sờ cặc lão. Một cục thịt bèo nhèo. Chẳng có gì thú vị, cô nằm xuống dưới chân giường ngủ.

2.
N nói với V, em muốn viết một cái gì đấy.
V bảo, nếu thật sự em cảm thấy bị thôi thúc.
Nhưng chữ nghĩa trốn đâu mất. N nói. Có cách nào không anh?
V cười, cách tốt nhất là cứ gặp nhau và cọ vào nhau.
N bảo, anh chỉ thích lạm dụng.
Không, thật đấy. Văn chương là ngọn lửa xẹt ra từ chỗ da thịt chạm vào nhau.
N lườm V. Tuy thế, cô cũng cọ má vào vai anh. Em không cảm thấy muốn làm nhà văn hay nhà thơ, nhưng em muốn viết.
Điều ấy hoàn toàn đúng đắn. V nói.
Trước mắt, em cần được hạ hỏa. N bảo.
Vào khách sạn anh giải quyết cho.
Không, em muốn đi gội đầu. N bảo.
Tiệm gội đầu có ba ghế. Một ghế đã có một cô gái nằm. V và N nằm trên hai ghế còn lại. Cô thợ hỏi, anh muốn dùng dầu gội gì? Đầu V trọc, nên V nói cái gì cũng được. Vừa gãi trên đầu V, cô thợ vừa hỏi, được không anh? Mạnh một chút nữa, V nói. Ô-kê, được rồi.
V thích nhất cảm giác nước xối thấm tràn qua cái khăn lạnh vào da đầu.
Hình như N đã ngủ. V mở mắt nhìn cô thợ. Cô nheo mắt với anh. V chu mỏ. Cô thợ cười, cô lấy tay bịt mắt anh lại.
Ra khỏi tiệm gội đầu, N nói khi ngồi trên xe sau lưng V, em muốn tặng anh cái đồng hồ, hàng hiệu, nhưng second hand thôi. Em thích đồng hồ.
V bảo, anh có đồng hồ rồi. Tặng anh mấy cái quần lót đi.
Cũng được. Hôm trước em nhìn thấy mấy cái rằn ri hay lắm.
V nói, mặc vào chắc trông giống Tạc-giăng.
Em sợ anh giống khỉ đột.
V nói, cũng tốt, làm trò khỉ cho dễ.
N dẫn V đến một cửa hàng nằm trên một con đường nhỏ. Đủ thứ hàng treo la liệt trên các mắc áo và chất đống dưới đất. N tìm được cho V mấy cái quần lót rất ngầu. Cô bán hàng vú bé như quả cau, đon đả tán: Em có mấy mẫu hàng mới. Anh mua tặng cho chị nhé.
V bảo cô bán hàng: À, chị không thích mặc gì bên trong.
N đấm V. Xuyên tạc.
Đôi khi trời Sài Gòn rất đẹp. N bảo V chở cô đi lòng vòng.
Em muốn nhìn thấy mây. N nói.
V chạy xe qua cầu Thủ Thiêm. Ngừng xe trên cầu. Mây âm u. V bế N ngồi lên thành cầu.
Em muốn sống như một người vô tổ quốc. N nói.
Ừ, nếu có một qui chế cho những người vô tổ quốc thì cũng vui. V bảo.
“Một qui chế cho những người vô tổ quốc” như anh nói thì có khác gì một “tổ quốc” khác.
Không, ý anh là một thừa nhận chung của các quốc gia dành cho những người không thích một tổ quốc nào.
Rồi thì chính cái tập thể ấy cũng sẽ biến thành một quốc gia. Con người không tránh được phải sống bày đàn.
Vậy thì chỉ có một cách là tự cho mình cái quyền vô tổ quốc. V bảo. Thật ra, đã có rất nhiều người sống trong trạng thái đó.
Cũng như em không thích lệ thuộc vào một ai.
V bảo, em chỉ lệ thuộc vào ông nhà văn là tác giả đã hư cấu ra em.
Một “nhân vật” như em có thể đòi quyền tự quyết không?
V bảo, cũng có thể. Đến một lúc nào đó, chính nhà văn cũng không thể kiểm soát được “nhân vật” của mình.
Vừa nói, V vừa ôm N, như thể anh sợ mất N. Thật ra, N chưa bao giờ thuộc về V. Sự hiện diện của N bên cạnh V chỉ là một ước muốn sáng tạo và hoàn toàn mang tính giả định. Nhưng chính N lại làm cho sự hiện hữu của V trở nên thực hơn.
Thế thì, N nói, anh cho em biến nhé.
Em sẽ không thể biến mất một khi đã được sinh ra. Dù chỉ là một ý niệm, khi đã được phóng chiếu vào thế giới, nó sẽ tồn tại mãi. Dẫu sao em cũng đã có một số phận.
Anh biết không, em chán nhất là việc phải mang một tính cách như một thứ bản chất bất biến cho cái nhân vật của mình.
Anh biết điều ấy đã bị công thức hóa. Chính vì thế, các nhân vật của anh như em, Phượng hay ông Đạo Tiếng, lão khùng có thể nổi hứng bước ra khỏi tác phẩm và sống một cuộc sống khác.

Đây là một tôi khác.
Tôi đã nói với V rằng tôi muốn là một người vô tổ quốc, mặc dù tôi biết điều đó là bất khả. Bởi vì tôi không thể từ bỏ được gốc tích của mình cũng như cái bối cảnh đã hình thành nên tôi. Có thể tôi đã ít nhiều lầm lẫn với khái niệm vô chính phủ. Nhưng tôi thật sự chán đất nước này, quê hương này, những con người này. Cả V nữa, nếu anh không cần đến tôi như anh đã cảm thấy. Điều trớ trêu nhất, tôi lại muốn lấy chồng. Tất nhiên không phải V. Tôi nói với V, nếu em lấy chồng, em sẽ đòi một điều kiện là được tiếp tục đi chơi với anh. Đấy là mối quan hệ thiết yếu để tôi vẫn còn là tôi. V cũng bảo, nếu em lấy chồng, và có một căn nhà riêng thì hãy để dành cho anh một phòng để bất cứ khi nào muốn, anh có chỗ để về. Tôi thích ý tưởng đó. Tôi sẽ trang trí căn phòng và sắm những thứ cần thiết cho anh. Hôm đi mua quần lót cho V, tôi đã nghĩ, cái anh chàng này, đang lệ thuộc vào mình. Thật ra, tôi rất muốn chăm sóc cho V, như một người tôi yêu quí mà tôi không thể lấy. V là kẻ đã sinh thành ra tôi, đấy không phải là một trở ngại, mà tôi biết V không còn khả năng đáp ứng những ham muốn vô độ của tôi. Tôi mới chỉ là kẻ đang bắt đầu, trong khi V đã là người hoàn tất. Trong khoảng thời gian còn lại của cuộc song hành so le này, chỉ có những cái với tay mịt mù mộng tưởng. Khoảng cách về thực chất là điều tôi muốn bù đắp cho V. Tôi đã để cho V ôm tôi, thậm chí cho V hôn vú tôi, như cách tôi san sẻ khoảng trống của thực tại phiêu linh giữa hai số phận rất riêng biệt của chúng tôi. Tôi đã lột trần tôi trên căn phần của thế giới này cho V được thấu suốt. Dẫu sao, tôi cũng muốn anh đi hết cuộc hành trình của mình, qua tôi và cùng với tôi. Nhiều khi tôi vẫn đùa hỏi, còn đủ sức để yêu không? V bảo thì cũng phải thử mới biết. Tôi không muốn anh phải thất vọng, vì thế tôi tự đặt một giới hạn là không bao giờ tụt quần lót khi bên anh. Gìn giữ ngọn lửa hưng phấn cho anh, tôi cũng muốn anh trở nên siêu thực như tôi, phóng mình vào những dự cảm bất định của một củ giống tuyệt mầm. Tôi vẫn nghĩ, cần phải có một cảm thức tuyệt tự khi viết cũng như yêu đương để giải phóng tối đa năng lượng sáng tạo và cảm thụ. Tôi là một sản phẩm của tưởng tượng và không có gì ngăn cản tôi mở rộng biên độ của mình, cũng như tự bôi xóa bằng cách đi ngược chiều trở về với một bản thảo trắng. Cảm thức tuyệt tự là độ nén cho một bước nhảy vượt tường. Đồng thời cũng là trạng thái của sự hư vô hóa. Chờ đợi bùng nổ. Tôi mồi lửa cho ước muốn của V. Tôi yêu V nhưng không muốn lấy V. Tôi tin rằng V hiểu điều ấy có ý nghĩa như thế nào. Có lẽ vì thế anh không ghen. Mặc dù tôi vẫn cho anh biết về những người đàn ông sẵn sàng bỏ tiền mua tôi. Tất nhiên tôi không được sinh ra để bán. Nhưng đàn ông vẫn thích tỏ ra là người có tiền. Họ quên rằng tôi cũng là người có khả năng làm ra tiền. Tôi hỏi V nên lấy một người chồng như thế nào? V cười bảo, như anh. V không bao giờ bỏ lỡ cơ hội vơ vào tán tỉnh tôi. Tôi bảo, anh tha cho em, đời em còn dài. Anh có thể sống với em bao lâu? Một tháng hay một năm? Sau đó, anh bắt em nhịn à? V lại cười, nếu cần thì kiếm một thằng khác giống anh. Tô muốn ôm lấy anh, nhưng phản xạ tự nhiên tôi đẩy anh ra. Ông vừa thôi. Tôi hỏi, anh vẫn muốn hầu hạ em phải không? Ừ. Đấm bóp cho em đi, tôi nói, em mỏi cái mông. V bảo người ta dùng cái mông để ngồi, em dùng cái mông để lắc thì mỏi là phải rồi. Tôi cười nhớ lại câu V từng viết, cái mông của tôi làm thế giới chao đảo. Tôi nằm sấp xuống cho V xoa bóp. Người tôi bềnh bồng nhưng bẹp dí như con gián dưới bàn tay anh. Có thể một ngày nào đó em phải đi bán bún bò nuôi thân, anh có đến phụ em không? Chuyện nhỏ. Chuyện lớn là em nấu bún bò có ngon không. V luôn làm cho tôi hạnh phúc. Tôi nói, tuần tới em sẽ nấu bún bò mời anh. Tôi muốn chăm sóc anh, nhưng tôi bao giờ cũng ở ngoài anh. Có những lúc tôi bỏ quên anh cả mấy tháng. Nhưng khi nào cần, cũng có anh, như là chỗ để tôi quay về. Tôi là một đứa bé ham vui và mê mải kiếm tiền. Thích ngồi trong bar uống rượu, nhưng không thích nhảy. Chọn đầu tư nhà đất, không chơi chứng khoán. Bởi thế, tôi có hai mơ ước. Một là mở hầm rượu, chỉ bán vang. Hai là xây một khách sạn trên nước, giống như một hòn đảo. Có hai người đàn ông sẵn sàng giúp tôi thỏa ước nguyện. Nhưng tôi không thể đáp ứng điều kiện làm người yêu nhỏ bé của họ. V nói, nếu em muốn làm giàu anh vẽ cho. Có tiền, muốn bao nhiêu chồng chẳng được. Tôi bảo đừng nói với em như thế. V không bao giờ tìm cách che giấu ý nghĩ của mình. Anh nói, đây là bí kíp của sự thành công. Bước một, tìm sự bảo kê của bọn cầm quyền (càng lớn càng tốt). Ngôn ngữ thời đại gọi là thương hiệu. Bước hai, tổ chức làm ăn theo nguyên tắc dựa hơi thì triệt để, chia sẻ quyền lợi thì khiêm tốn. Người bỏ vốn và điều hành chỉ lấy bốn. Cho bọn bảo kê ngồi không hưởng sáu. Sách lược này không bao giờ thất bại ở những nước độc tài. Và có thể kinh doanh ở tất cả mọi lĩnh vực, kể cả ma túy và buôn người. V nói không có gì lạ, tôi biết lâu rồi. Tôi cảm thấy kinh tởm và e ngại mỗi khi ngồi với các anh Hai, anh Ba, anh Tư, anh Năm, anh Sáu… Có thể một lúc nào đó tôi cần đến họ, bởi thế, tôi cũng đã thiết lập được vài mối quan hệ khá tốt với các chị Ba, chị Tư… Nhiều lúc thấy các chị kiếm tiền cũng sốt ruột, nhưng tôi ham vui hơn ham tiền, lại còn lãng mạn cổ điển chơi với anh V. Có lẽ một trong những điều đáng kể nhất của con người là hiên ngang coi mọi thứ như cục cứt và tự kiêu hãnh với đồng loại. Tôi không đến nỗi tự cao, nhưng cũng tự hài lòng. Sức mình đến đâu, chơi đến đó. Có thể các chị Ba, chị Tư cho rằng tôi dở hơi, nhưng tôi không thích quị lụy, lại rất sợ hàm ơn. Bởi thế, tôi chưa giàu. Tuy nhiên, tôi vẫn đủ bảnh để thỉnh thoảng mời V du hí và coi thường mấy anh đàn ông muốn dùng tiền dụ tôi. Sẽ là bi kịch cho bất cứ ai xem đồng tiền là cứu cánh. Tôi thong dong và tự tại. Đây mới là sự kiêu hãnh của tôi. V yêu tôi có lẽ vì thế. Tôi cũng quí anh vì chẳng có điều gì làm anh bận tâm, ngoài việc anh muốn gần tôi. Người ta hay thích nói về một thế giới phẳng hay chiều thẳng đứng, tôi lại chỉ nhìn thấy một thế giới nghiêng. Cảm thức về sự sụp đổ làm cho con người tỉnh táo hơn và biết sống hơn. Cần phải tận hưởng những gì có thể và cũng cần phải xa lánh những trào lưu của đám đông. Nhưng đôi khi tôi cũng tự hỏi, V có phải là thành trì an toàn của tôi? Thế giới tiểu thuyết của anh bất định và gây hấn. Trong khi bọn phê bình chỉ là một lũ chó làm xiếc. Chúng không cắn anh vì sợ ngộ độc. Tôi hiện hữu không căn cước. Dẫu sao, tôi vẫn chọn là người vô tổ quốc. Bạn bè bảo hơi bị sang. Chữ nghĩa cũng có lý lịch. Một biểu tượng cần phải có gia phả. Nhưng tôi không kế thừa chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cũng không dây dưa gì với truyền thống ầu ơ ví dầu cải lương hát bộ ca trù cửa quyền dân tộc. Sự trung thành đã bị khinh bỉ bởi tính ngu dốt và sự vô liêm sỉ của nó. V nhặt được tôi ở lề đường và đặt lên trang sách của anh. Bọn giáo điều bảo anh bị ám ảnh tình dục. Chỉ có bọn chỉ điểm văn hóa là tỉnh táo, chúng bảo anh phản động. Lại hơi bị sang. Chúng hỏi anh: Sứ mạng của mày là gì? Anh bảo, sứ mạng của tao là đụ. Bởi đụ là sáng tạo. Thế thì đụ má mày, chúng lại hỏi, mày chống ai? Chống tao. Đụ má mày, mày lại chống mày là sao? Tự chống là sáng tạo. Chúng hỏi, mày có ngu không? Minh triết đấy. Thế thì đụ má mày, cứ yên tâm mà minh triết nhé. Nhưng đừng có chống lãnh đạo mà toi mạng. V viết như cuồng sát. Ai là lãnh đạo giơ tay? Bác Ba Phi ở xứ Bạc Liêu giơ tay. V hỏi bác lãnh đạo ai? Tui lãnh đạo vợ tui. Xạo quá, đàn ông làm sao lãnh đạo vợ. Không tin hỏi các chị nữ quyền xem. Bác Ba Phi cười, không xạo làm sao thành Ba Phi. Đôi khi, tôi thấy V nhảm. V bảo không nhảm thì đã thành lãnh đạo. Tôi thấy lý luận kiểu này cũng giống như “không ngu sao thành cộng sản.” V hỏi cộng sản có ngu không, có hơn ba triệu người không giơ tay. V lại hỏi làm vua sướng không? Có một người không giơ tay, bởi chính ông ta đã từng làm vua. V hỏi ông vua, thưa hoàng thượng, tại sao làm vua mà không sướng? Ông ta đáp, vì còn có thằng sướng hơn, đó là thằng nhiếp chính. V bảo hiểu rồi, nó khiến được cả vua. V quay sang hỏi lão nhiếp chính, làm nhiếp chính sướng hay khổ? Chỉ có sướng trở lên thôi, hiểu không? Dạ, hiểu, giống như tổng bí thư nhiếp chính chủ tịch nước. Đôi khi, tôi thấy V điên loạn. V bảo không điên thì đã đi buôn đất. V hỏi buôn đất với bán nước cái nào giàu nhanh hơn? Cả thế giới đồng thanh nói bán nước. Đúng, buôn đất cũng có khi tổ trác. Cô bạn tôi đang muốn tự tử vì giá căn hộ chung cư bên Phú Mỹ Hưng xuống còn một nửa, thị trường chứng khoán đứng trên bờ vực sụp đổ. Tôi cũng thích bán nước hơn, chỉ mất mỗi cái hư danh mà được tất cả. Nhưng cả cái hư danh tôi cũng không có. Tôi bàn với V, hay là em bán đứng anh? Vấn đề là có ai chịu mua anh không. Thằng cha chỉ điểm xuất hiện, nó bảo tiền cò 15%, tao bán được tất. Tôi không tưởng tượng được sau khi bị bán, V sẽ như thế nào. Có lẽ điều ấy còn tùy thuộc vào người sẽ mua V là ai. V bảo, tốt nhất là bán anh cho hoa hậu hoàn vũ. Đừng có mơ. Em bán anh cho Thị Màu, cho anh chết sớm. Nhưng để có nhiều tiền, em sẽ bán anh cho công an. Thằng cha chỉ điểm lại xuất hiện, nó bảo việc ấy của tao. Giuda ở xứ Galilê từ trên cây tụt xuống bảo chuyện bán người không là độc quyền của ai cả. Rất nhiều người quen không biết từ đâu cũng chui ra nói, trong chuyện này, ai nhanh tay thì được. Tôi cảm thấy khoái trá, bỗng nhiên V rở nên đắt hàng. Tôi nói với V, em làm tiếp thị tốt đấy chứ. V bảo, thật ra có một người mà anh muốn bán mình cho hắn, nhưng hắn lại không đến. Bỗng nhiên tôi ngẩn ngơ, thì ra ai cũng muốn bán mình. Tôi hỏi V, thật không anh? V gật đầu.

3.
V bị mời lên công an phường. Anh bị hỏi cung liên tục bởi ba viên chấp pháp khác nhau trong ngày đầu tiên. Sau đó anh được chuyển về trại giam của công an quận. Tiếp tục bị hỏi cung, cuối cùng V cũng không biết mình bị khép vào tội gì. Sau hơn một năm trong trại giam, V bị đưa đi lao động cưỡng bức ở một nông trường thuộc Củ Chi. Thêm một năm nữa cày cuốc trồng lúa và lên liếp trồng thơm, anh tự nhủ, thế là đủ, rồi anh trốn về. Kinh nghiệm lao tù cho anh thêm một xác tín rằng, con người luôn có hứng khởi để trấn áp lẫn nhau. Thời gian V ở tù cũng là lúc N đi lấy chồng. Cô không có một ý niệm nào về sự vắng mặt của V. Chỉ đến khi N quyết định bỏ chồng, cô mới gặp lại V. Đối với V, N vẫn là một cô bạn chẳng có gì thay đổi, ngoài một vẻ đẹp chín chắn hơn và một sự thân thiện dễ dãi hơn. Rằm tháng giêng, lễ hội bà Chúa Xứ ở Thủ Dầu Một, V đưa N đi lễ chùa. N nói, em muốn xin ít lộc. Có hoa và mấy quả cau. V hỏi, em vẫn muốn lấy chồng nữa? N bảo, em đâu có ăn chay trường. Trên đường về, V bảo mình vào khách sạn ngủ một giấc nhé. N nói, thôi, làm sao ngủ được với ông. Họ chọn một quán nước bên đường có võng. Giống như mấy năm trước ở Châu Đốc, chiếc võng làm V có cảm giác động đất. N hỏi, anh có liên lạc với Phượng không? V bảo Phượng không còn ở Hòa Hảo nữa, anh nghĩ là Phượng đã lấy chồng. N bảo không chắc, em nhớ hồi đó có lần Phượng nói với em muốn mở một quán nhậu ở núi Sam vừa để kiếm sống, vừa muốn gần ông Đạo Tiếng. V bảo, dường như việc lấy chồng của em cũng như Phượng là điều gì đó không đúng. N nói, có lẽ thế, việc em bỏ chồng không phải do chọn lầm người, mà chính việc lấy chồng đã là sai lầm. Em không được sinh ra để làm vợ. Em cần tự do. Cũng như em không tưởng tượng được anh lại là một người chồng của ai đó. Có rất nhiều điều làm em cảm thấy thế giới này cần phải xóa đi làm lại, để cho các mối tương quan giữa con người với nhau trở nên bình đẳng và thông thoáng hơn. Đã có nhầm lẫn về trách nhiệm với sự trật tự và ổn định trong cuộc sống. Các mối quan hệ thay vì giải phóng đã trở nên ràng buộc.
Đột nhiên N thay đổi đề tài, khi nào thì anh sẽ xé tất cả bản thảo? V với tay sang võng của N đung đưa, nói, khi em trở lại trên trang giấy hoặc lặn sâu trong màn hình vi tính. N cười, em đâu có thoát được bọn Google.

20.7.2008






CÀ-PHÊ SÁNG Ở SÀI GÒN

Trong hẻm nhỏ nhà hắn, vừa đúng chuẩn qui định 4 thước, có 3 chiếc xe gắn máy dựng bất thường chiếm mất 1 thước lối đi, thêm sáu người đàn ông đứng loanh quanh nên nhiều khi lối đi chỉ còn 1 thước.
Vợ hắn bảo: “Chướng. Mỗi khi nhìn thấy chúng, em lại muốn động thai.”
Hắn nói: “Kệ mẹ chúng, đừng quan tâm.”
Tuy nói thế, hắn cũng cảm thấy buổi sáng bị vướng ở đâu đó, như thế có một ai đó làm cho thời gian bị xô lệch, hoặc che chắn mất một góc trời.
Vợ hắn hỏi: “Anh muốn uống cà-phê ở nhà hay ra quán?”
Hắn nói: “Ra quán. Đời mình đi uống cà-phê mà cũng tiền hô hậu ủng. Được mấy khi, cứ tận hưởng.”
Đã có mấy người bạn hắn ngồi hè quán. Miệng nào cũng phun khói thuốc.
Hắn hỏi người bên cạnh: “Có ai đi theo ông không?”
Dường như cũng đã quá quen với việc đi đâu có người theo nên bạn hắn chỉ phất tay coi như không có chuyện gì.
Một người nói: “Thằng N mới được phong danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú đấy.”
Hắn móc điện thoại gọi cho N: “Chào Nghệ sĩ ưu tú.”
N nói ngay: “Ông đừng chọc vào nỗi nhục của tôi.”
Hắn ngạc nhiên: “Sao lại nhục?”
N đáp: “Mẹ, lẽ ra bố mày phải là Nghệ sĩ nhân dân mới đúng.”
Hắn cười: “Thế thì rửa nhục đi.”
N hỏi: “Ông đang ngồi ở đâu vậy?”
Hắn bảo: “Cà-phê lề đường thôi.”
N hỏi: “Có ngồi với mấy thằng dân chủ không vậy?”
Hắn lại cười: “Nhân dân làm chủ lâu rồi mà. Không ngồi với dân chủ thì còn ai mà ngồi?”
N vội nói: “Thôi để lúc khác gặp riêng, nói chuyện với ông mất công lại bị công an theo dõi.” N cúp máy.
Hắn trở lại với các bạn: “Tôi bất ngờ khám phá ra rằng, bọn mình bây giờ được gọi là dân chủ, chứ không phải là những thằng phản động.”
Một người nói: “Bây giờ người ta không thể bắt bớ tuỳ tiện không cần lý do như cái thời kỳ bên trong bức màn sắt nữa rồi”.
Người khác nói: “Cái khái niệm ‘phản động’ nếu được dành cho những người đấu tranh dân chủ cũng mang một nội hàm khác. Sự ‘phản động’ đối với cái phản động của những kẻ cầm quyền trở thành một hành vi anh hùng. Cho nên không ít người dân chủ vẫn tự trào mình là ‘phản động’.”
Người ngồi diện hắn nói: “Thật ra, tôi vẫn thấy có những khái niệm về tên gọi rất rành mạch. Thí dụ: Sự kiện ngày 19 tháng 8.1945 vẫn được gọi là ‘cướp chính quyền’. Biến cố 1.11.1963 ở Sài Gòn gọi là ‘đảo chánh’. Ngày 30.4.1975 là ‘giải phóng’ một cách đa nghĩa theo từng góc nhìn. Cách mạng cam, cách mạng nhung ở Đông Âu hay mùa xuân Ả-Rập là ‘lật đổ’... đều là những tên gọi thể hiện được bản chất của nó.”
Hắn hào hứng phụ hoạ: “Có lẽ thế, không ai ngạc nhiên khi thấy chế độ hiện nay thích sử dụng bọn côn đồ xã hội đen trong việc giải quyết một số các vấn đề xã hội nhạy cảm.”
Người bên cạnh nói: “Khi những người đấu tranh cho tự do dân chủ sử dụng phương pháp hoà bình và hợp pháp thì chính quyền không thể dùng luật pháp theo nghĩa một công cụ, dù là bảo vệ chính quyền chứ không phải bảo vệ quyền lợi công dân, để trấn áp họ vì họ không vi phạm pháp luật.”
Một người khác tiếp lời: “Quả là ngoạn mục khi chính quyền bị đẩy vào thế chống đỡ của kẻ mất lương tri và không còn cách nào khác là phải làm càn.”
Người bên cạnh nói tiếp: “Đôi khi, tôi tự hỏi: mặc dù chính quyền Cộng sản Việt Nam đã trải qua nhiều thế hệ, đã đi qua thời kỳ du kích và làm chủ đất nước, nhưng tại sao họ vẫn chưa bao giờ thóat khỏi não trạng của những kẻ đi cướp chính quyền và không thể hành xử như những con người công chính, đặc biệt trong các trường hợp như trấn áp nông dân, giáo dân ở khắp nơi, hay những người đi biểu tình chống Trung Quốc xâm lược?”
Một người nói: “Tôi chợt có ý nghĩ là không phải họ tự ti, mà chính vì quá tự kiêu, họ tự cho mình cái quyền bất chấp luật pháp.”
Hắn nói: “Có lẽ chính xác và đơn giản là họ sống như những kẻ cơ hội và tận dụng cơ hội. Nó vượt qua mọi khuôn khổ, lý lẽ và dẫn tới những bất công, thối nát tận cùng. Vì thế, đây cũng chính là tử huyệt của họ.”
Người bên cạnh bảo: “Tôi có cảm giác đã có những người nhận ra cái tử huyệt này và đang tìm cách tấn công vào đó.”
Hắn nói: “Thật ra, đấy cũng chỉ là bọn chúng tranh ăn, tranh quyền với nhau phát sinh mâu thuẫn nội bộ. Nhưng đứng trước sự mất còn, bọn chúng sẽ biết cách dàn xếp để tránh một sự đổ vỡ toàn diện, ngoại trừ có một tác nhân mang tính hiểm hoạ lịch sử như mối đe doạ từ Trung Quốc chẳng hạn, khiến một số sĩ quan quân đội phải vào cuộc, sự thể mới được giải quyết.”
Một người nói: “Và cái được gọi là tự do dân chủ lúc ấy, nếu được mượn tạm, cũng chỉ là một chiếc áo không hơn không kém.”
Người bên cạnh cười: “Dẫu sao có một chiếc áo vẫn hơn là cởi trần”.
Hắn nói: “Điều quan trọng là có sự khác biệt căn bản nào không giữa việc pháp luật bảo vệ con người và quyền làm người của nó hay pháp luật bảo vệ chế độ và chống lại con người? Chỉ điều ấy mới có ý nghĩa.”
Một người nói: “Xét cho cùng, mọi cuộc đấu tranh của con người cũng chỉ nhằm đến cái đích tối thượng, con người được bảo vệ và tôn trọng. Thế mà đã qua mấy ngàn năm, con đường ấy xem ra vẫn quá xa.”
Hắn chua chát: “Bởi vì chúng ta chưa đi, đã có kẻ chặn ngoài ngõ.”
Người bên cạnh cười đểu: “Vấn đề nằm ở ngay lằn ranh này: Những người tạm gọi là thức giả có dám vượt qua cái hàng rào cấm cản và sợ hãi ấy không?”
Thế rồi, bạn hắn quay qua cái bàn có một người đang hóng chuyện, hỏi: “Hút thuốc không?”
Người ấy bỏ đi.

12.7.2012





CỦA NHỮNG LINH HỒN

1.
Xốp và gập ghềnh. Ẩm ướt và luôn luôn thay đổi. Thế mà những đám mây lại là nơi thích hợp nhất cho những linh hồn cư trú. Đã có rất nhiều linh hồn tìm về đó. Họ như những hơi sương bám lấy nhau, tạo nên những cảnh tượng khác biệt, huy hoàng và ủ dột. Thật ra, chỉ khi bạn là một linh hồn, bạn mới thấy hết được sự kỳ lạ trong những đám mây tưởng như chỉ là tình cờ của thời tiết kia.
Tôi nói điều ấy vì tôi đã trở thành một linh hồn từ đêm qua. Và tôi bay thẳng lên những đám mây ngay trên đầu.
Tôi không gặp thánh Phê-Rô mà người đón tôi là một bé gái, đoán chừng không quá 5 tuổi. Cô bé nói:
- Mẹ bảo em đi đón anh.
- Chắc bé nhầm tôi với người khác rồi. Tôi nói.
- Không đâu. Đây là nơi không bao giờ lầm lẫn.
Tôi ngạc nhiên. Một cô bé chưa đến 5 tuổi sao có thể nói như vậy? Tuy nhiên, tôi chỉ cười. Năm nay tôi 60 tuổi, tôi không cần phải tranh cãi về một niềm tin như thế. Tôi hỏi lại cô bé:
- Thế điều gì có thể làm tôi trở thành là anh của bé?
- Đây không phải là câu đố phải không? Cô bé hỏi.
- Ừ. Tôi chỉ hỏi để biết đích xác tôi có phải là anh của bé không thôi.
- Em là bé Nấm. Còn anh là anh Bự đúng không?
- Bé Nấm của tôi khi lên thiên đàng đã 50 tuổi. Vả lại có nhiều người tên Nấm lắm.
- Tại anh chưa biết đó thôi. Để em nói anh nghe: Thứ nhất, đây không phải thiên đàng. Thứ hai, đây là vương quốc của những linh hồn. Thứ ba, những linh hồn tồn tại không phải như tuổi tác. Thứ tư, những mối quan hệ như anh em, cha mẹ, họ hàng... hoàn toàn do tự chọn. Anh là người được mẹ chọn.
Tôi ngần ngại nói:
- Thế còn tự do lựa chọn của tôi?
- Anh sẽ tự quyết định khi gặp mẹ.
Dù sao, tôi nghĩ theo cô bé này cũng còn hơn là bơ vơ, nhất là khi mình ở giữa những đám mây. Tôi nói:
- Anh đi theo em.
- Đấy là sự khôn ngoan. Không ai sống đơn độc được đâu.
Những đám mây mềm mại nhưng thật khó bám. Dường như biết được sự khó khăn của tôi, bé Nấm nói:
- Anh không thể đi như trên một mặt phẳng của trái đất, mà hãy cuộn mình lại.
Quả thật, dễ dàng hơn khi tôi tìm cách quấn vào những sợi mây khác. Và chúng tôi bay đến một vầng mây vàng. Có một bé trai và một bé gái khác vẫy chào tôi. Bé Nấm hỏi:
- Anh có nhận ra cha mẹ không?
Tôi nói:
- Anh cảm thấy thân thuộc, nhưng hai người này không phải là cha mẹ anh xưa kia.
Bé gái dịu dàng nói:
- Con lại đây với mẹ. Mẹ vui mừng vì con đã về. Hãy cầm lấy tay mẹ.
Tuy rất phân vân và lúng túng, tôi cũng nắm tay bé gái. Đồng thời bé trai cũng đến ôm lấy tôi. Ngay tức thì, tôi nhận biết được đây là cha mẹ tôi.
Tôi hiểu rằng, bắt đầu từ bây giờ, tôi phải làm quen với một thế giới mới.

2.
Có một nguồn ân sủng không phải tình yêu mà nồng nàn thanh khiết chảy vào linh hồn, khi tôi chạm vào hai người được nhận là cha mẹ tôi. Và tôi trở nên bé bỏng như họ.
Khi bạn chưa đến 5 tuổi thì khái niệm về giới tính chỉ là sự khác biệt về chi tiết không đáng kể, nhưng nếu bạn đã từng trải qua những kinh nghiệm về tình dục thì sự khác biệt ấy lại là một đặc tính căn bản trong sự ứng xử của bạn với người khác. Vì thế, tôi không thể nói có sự trong suốt của mối quan hệ mà tôi vừa có ở nơi này, nhưng tôi cũng không thể nói về sự hạnh phúc hay sung sướng giữa những người đàn ông và đàn bà khi họ chỉ còn là linh hồn.
Thật ra, nói lòng vòng như vậy chỉ vì tôi muốn cho bạn biết cách thức mà chúng tôi đã tiếp xúc với nhau như thế nào trong sự sum họp.
Chúng tôi đã quấn lấy nhau và vào trong nhau như những cái bóng chồng lấn vào nhau không còn phân biệt được đường nét giới hạn của mỗi linh hồn. Nó tạo nên một khoảng sáng ở những chỗ chồng lấn và nó sẽ hoàn toàn biến mất khi các linh hồn hòa khít với nhau. Đó là những trạng thái của ý thức. Không cảm giác.
Tôi trở nên chan hòa.
Rồi cha tôi tách ra. Đến mẹ tôi rồi sau cùng là em gái tôi cũng tách ra. Tôi nhìn họ và tôi biết từ đây chúng tôi sẽ không bao giờ phải xa nhau nữa. Mẹ tôi nói:
- Chúng ta cần chuẩn bị để đón tiếp Linh vương.
Tôi hỏi:
- Linh vương là ai?
- Đó là người cai quản vương quốc này. Cha tôi đáp.
- Con tưởng chỉ có trần gian hoặc địa ngục mới có sự cai quản.
Dường như cha hiểu sự thất vọng của tôi, người nói:
- Thiên đàng, ngoài Chúa ra cũng còn các tổng lãnh thiên thần. Cho nên, dù chúng ta sống ở giữa những đám mây, vẫn có một Linh vương cai quản. Vì điều ấy là tốt đẹp.

3.
Linh vương đến trên một cụm mây ngũ sắc. Ánh sáng tỏa ra huy hoàng đến độ tôi không nhìn thấy gì ngoài một vầng sáng lớn. Một mùi thơm ngào ngạt đầy khắp không gian. Uy quyền của ngài mang lại sự bình an cho những ai kính phục ngài. Khi ngài đến trước mặt tôi và nói: “Chào mừng người anh em đến với vương quốc vô biên này” thì tôi cảm thấy có một sức hút kinh khủng cuốn lấy tôi về phía ngài. Điều làm cho tôi còn đứng vững được ở một vị thế riêng biệt chỉ có thể hiểu vì tôi là một người lạ. Tôi cũng cảm thấy được một sức nặng của khối vật chất nén chặt bởi vô lượng các linh hồn đã hòa nhập vào ngài. Vì thế, tôi không thể không kính cẩn thưa:
- Xin đa tạ Linh vương. Vạn tuế Linh vương trên các bầu trời.
Mặc dù tung hô Linh vương nhưng tôi là một sự sống, tôi vẫn còn bản năng tự vệ và sự cảnh giác của một người đã từng kinh qua cái chết, tôi không muốn bị Linh vương nuốt sống.
Linh vương cười như sấm:
- Cái chết chưa gột rửa anh em khỏi thói quen trần tục. Vương quốc này không có chỗ cho những tâm thức chính trị, tự do hay nô lệ. Ở đây chỉ có tình yêu, cho và nhận không điều kiện.
Không có chính trị có nghĩa là không có áp chế, tôi mạnh dạn thưa:
- Thế thì sao lại có Linh vương và các thần dân của ngài?
Linh vương độ lượng mỉm cười:
- Đó là sức mạnh của tình yêu. Một tình yêu càng lớn thì quyền năng càng mạnh. Người anh em cứ sống thì hiểu. Cầu chúc người anh em an hòa.
Nói xong, Linh vương lướt đi và ngài để lại cho tôi một lưu luyến.

4.
Mẹ tôi cho biết, khi có bất cứ một linh hồn nào du hành vào vương quốc này, Linh vương đều đến thăm. Nếu linh hồn đó vất vưởng không có một gia đình để nương thân, Linh vương sẽ đón họ.
Tôi hỏi mẹ:
- Và sau đó sẽ bị ông ta nuốt sống?
- Không, không phải như thế. Tình yêu sẽ hòa hợp họ thành một. Mẹ tôi vội vàng sửa chữa.
- Mẹ có tin vào tình yêu không? Tôi hỏi.
- Tại sao lại không? Chẳng phải chúng ta đang tồn tại vì tình yêu sao?
Cha tôi xen vào:
- Nếu không có tình yêu, đã không có thế giới này. Linh vương không chỉ là một biểu tượng mà ngài chính là sức mạnh của tình yêu. Được về với ngài là một vinh dự miên viễn. Một đại thể toàn mãn bất khả phân ly chính là điều chúng ta mong đợi.
Tôi không đủ lòng tin về bất cứ điều gì không phải của mình.

5.
Bé Nấm dẫn tôi vào một cánh đồng mây trắng. Choáng ngợp bởi sự thanh khiết, tôi nói:
- Đây chính là sự cao cả mà con người và thần thánh theo đuổi.
Tôi loãng ra và trở nên rộng lớn. Đúng lúc đó, bé Nấm nói:
- Ở đây có rất nhiều bí mật.
- Những hóa thân của muôn loài?
- Không, chỉ là những tiếng chim giấu trong các khe mây. Tất cả những con chim khi chết đều để lại tiếng hót ở đây.
- Anh không nghe thấy gì cả.
Bé Nấm cười:
- Anh thử sờ vào lỗ tai xem.
Bất giác tôi nhớ ra mình không còn lỗ tai cũng như các phần khác của cơ thể.
- Nhưng em sẽ có cách để anh nghe được chúng. Bé Nấm nói tiếp.
Bé Nấm lấy tay khoắng vào một bụi mây, tức thì tôi nghe thấy tiếng của những con chim sẻ ríu rít mà tôi vẫn nghe được trên bờ rào nhà mình trong những buổi sáng yên tĩnh. Bé Nấm cũng cho tôi nghe những tiếng hót rất lạ của những loài chim tôi chưa hề biết. Ở đó, tôi mơ màng hàng thế kỷ. Bỗng nhiên, tôi nghe có những tiếng hót nghẹn ngào mà tôi quả đoán rằng đó là tiếng hót của những con chim trong lồng.
Tôi hỏi Nấm:
- Tiếng khóc của con người giấu ở đâu?
- Có thể ở một nơi nào đó không thuộc về vương quốc này.
Tôi thầm nghĩ, có thể đây là bí mật lớn nhất mà tôi cần khám phá.

6.
Một ngày rất lạnh. Những linh hồn quây quần quanh Linh vương để sưởi ấm. Đây cũng là ngày cửa âm ty mở ra cho bọn quỉ đói lang thang tìm thức ăn. Bọn quỉ đi ngang bầu trời, chúng làm cho những đám mây trở nên u ám và đặc lại. Linh vương nói:
- Anh em đừng nhìn kẻo lòng anh em đau khổ.
Mẹ ôm tôi, trong khi cha ôm bé Nấm. Còn những linh hồn đơn độc thì nép sát vào Linh vương tạo ra những đường viền sáng rực. Chúng tôi ở trong trạng thái bấp bênh như có một áp lực nào đó đòi cuốn đi. Mẹ tôi nói đây là sự thử thách định kỳ để thanh tẩy linh hồn. Tôi không cảm thấy có lý do để phấn đấu. Tôi muốn an nghỉ, nhưng hòa bình hay tình yêu không phải thứ để an nghỉ. Tôi có thể đi đâu?
Phía dưới chúng tôi trời sũng nước. Bé Nấm nói nhỏ với tôi:
- Có thể anh sẽ được nghe thấy tiếng khóc.
Tôi không biết bọn quỉ đói có tìm được thức ăn không, nhưng tôi bắt đầu nghe thấy những tiếng kêu gào của sự đau khổ bùng vỡ ra từ dưới chân mây. Chúng lan tỏa ra khắp bầu trời. Tôi đã không nghe lời Linh vương. Những đám mây đen tan ra từng mảng mang theo những tiếng khóc từ sâu thẳm và rơi xuống đất. Lòng tôi buồn bã và hoang mang. Mẹ ôm chặt tôi nói:
- Con hãy soi mình vào Linh vương. Tình yêu của ngài không bờ bến.
Tự dưng tôi thốt lên điều mà không bao giờ tôi nghĩ mình có thể làm:
- Xin hãy cứu vớt tôi.
Tức thì tôi cảm thấy có một sức nóng từ Linh vương tràn vào làm cho tôi phải đứng lên. Ngài mở rộng từ tâm và tôi toan bước tới. Nhưng mẹ tôi và bé Nấm đã kịp giữ tôi lại. Mẹ tôi nói:
- Sự bình an đang ở cùng con.
Và tôi cảm thấy an nhiên hơn. Tôi không bị cuốn hút nữa và tôi cúi đầu từ tạ Linh vương.

7.
Khi cửa âm ty đóng lại, những đám mây trở nên sáng ấm, cũng là lúc tôi nghĩ mình cần phải thoát đi. Tôi không biết mình sẽ phải đến đâu để được an nghỉ thật sự. Nhưng dù sao cũng phải ra đi. Tôi bay lên, những đám mây càng lúc càng loãng hơn. Ánh sáng của Linh vương vẫn lan tỏa. Và tình yêu của ngài phủ dụ tôi. Tuy nhiên, tôi vẫn tiếp tục bay đi. Nhưng giữa tôi và ngài có sự liên đới giống như một sợi dây thun co giãn, có thể kéo dài ra mà không đứt, bởi thế mọi ý muốn tự do của tôi dường như vô ích.
Và khi cảm thấy không có một nơi nào để bám víu, tôi bị giật ngược lại. Và đối diện với Linh vương, tôi như một tội phạm.

8.
- Con có từ bỏ ma quỉ không?
- Con xin từ bỏ.
- Con có từ bỏ trần gian không?
- Con xin từ bỏ.
- Con có từ bỏ chính con không?
- Con xin từ bỏ.

9.
Tôi được gọi là người độc lập – tự do – hạnh phúc (đltdhp), giống như cha mẹ tôi và bé Nấm, sau một cuộc thanh tẩy. Tôi có thể chiêm ngắm tôn nhan Linh vương mà không bị ngài linh hóa vào bản thể tuyệt đối của ngài. Thật ra, trong các đẳng cấp của vương quốc linh hồn này, chúng tôi chỉ là một loại thứ dân đứng bên ngoài tâm linh của Linh vương. Những kẻ được yêu mến nhất đã lặng sâu trong tâm tình ngài. Nhưng điều này làm tôi cảm thấy có ý nghĩa hơn, cho dù tôi không được an nghỉ.
Tôi không thể biết được những người đltdhp ở đây nhiều hơn hay những người đã trở thành một với Linh vương đông hơn. Tuy nhiên, tôi luôn cảm thấy sức nặng của Linh vương càng ngày càng lớn. Và cái đltdhp của tôi càng ngày càng nhỏ lại, như một sợi mây mỏng lơ lửng giữa bầu trời càng lúc càng rộng. Nhưng đồng thời, ý thức về sự hiện hữu của mình cũng vì thế mà trở nên sắc nét hơn.
Bé Nấm và tôi thường bay về phía xa nhất đến tận mép rìa của vương quốc để xem các thiên thần qua lại. Những thiên thần thì gần như không biết đến sự tồn tại của chúng tôi, mặc dù khi còn là một thân xác của trần gian, tôi đã có một thiên thần bản mệnh. Tôi tự hỏi bây giờ thiên thần bản mệnh của tôi đâu? Người làm gì khi tôi ở cõi bờ lơ lửng này? Thú thật, tôi cũng có mong muốn được tình cờ trông thấy người. Mà làm sao tôi có thể nhận biết được người trong hằng hà sa số các thiên thần đang bay lượn tấp nập ngoài kia?
Có một khoảng cách lạ thường giữa chúng tôi và các thiên thần. Đó là ngôn ngữ. Tôi cho rằng, các thiên thần giống với loài kiến trong cách họ trao đổi. Bởi thế, tôi và bé Nấm có thể nói oang oang mà không sợ họ phát hiện. Có lẽ, cái thích nhất trong việc nhìn ngắm họ là cách họ bay. Nó không phải là một đường thẳng hay cong, mà là một đường gãy, lặn hụp. Tôi đoán chừng với cách bay đó họ đi nhanh hơn chúng tôi và có thể đến được với những thế giới khác nhau.
Nhưng nhiều khi, tôi cũng đoán chừng, những thiên thần không được đltdhp như chúng tôi, bởi tôi chưa bao giờ nhìn thấy một thiên thần nào bay một mình.

10.
Tôi không thích không khí nhã nhạc thiên đình. Tôi cũng không thích sự bận rộn thanh tao của các thiên thần bảo bọc sự thanh sạch cho con người. Tôi hỏi mẹ:
- Các thiên thần có bay đến được ba nghìn thế giới của chư Phật không?
- Không chắc.
- Vào trong Linh vương có nhìn thấy ba nghìn thế giới của vạn kiếp luân hồi không?
- Cũng không chắc.
Tôi hỏi Linh vương:
- Ngài có phải là tất cả ba nghìn thế giới?
- Không.
Tôi chỉ còn lại sự mơ mộng để đi qua ba nghìn thế giới. Và tôi dành tất cả linh khí còn lại để mơ mộng. Và tôi biến thành một giọt nước quay lại trần gian.

21.9.2009





GIÒNG SÔNG BỊ GIẾT

1.
Kể từ khi ngài Héraclite bảo không ai tắm hai lần trên một dòng sông thì dòng sông đã bị giết. Dòng sông cũng bị giết thêm một lần nữa bởi các nhà thơ chỉ biết theo gương người khác. Nhưng chính Thuý Kiều đã cứu sống một dòng sông khi cô ta dìm mình xuống thanh tẩy. Và người ta mang dòng sông ấy về nuôi ở vùng Dona thuộc xứ Đàng Trong và đổi tên là sông Thị Thuý.
Dòng sông tươi tốt vì nước trong mình chảy ra. Cây cỏ vùng ấy nhờ nước Thị Thuý mà xanh rợn chân trời. Người dân vùng Dona cũng nhờ uống nước Thị Thuý mà ngoan hiền như nai. Riêng con gái Đàng Trong đặc biệt hiếu thảo theo truyền thống Thuý Kiều nên lúc nào cũng sẵn sàng bán mình chuộc cha.
Tiền bán mình của các cô gái ngoài việc giúp cha mẹ sửa sang nhà cửa còn đóng góp một phần rất đáng kể vào việc xây đền miếu trong vùng. Thuý Kiều được người dân tôn thờ như Tổ Mẫu, bên cạnh đó người dân cũng thờ cúng người có công khai hoang vùng đất này được gọi là Thành Hoàng.
Các ông chủ mua gái vùng Dona đa số thuộc quốc tịch Đài Loan.

2.
Người Đài Loan cũng như hầu hết những người Trung Quốc khác đều tin vào phong thuỷ, bất kể duy tâm hay duy vật. Khi quyết định đầu tư vào xứ Đàng Trong, họ đã chọn một vùng đất rộng lớn bên dòng sông Thị Thuý. Ngoài vẻ đẹp của con sông, vùng Dona còn có một dãy núi hùng vĩ án ngữ mặt biển che chắn mọi sóng gió mà người Đài Loan tin rằng có thể tạo thế an toàn cho mình. Các thày địa lý của xứ Đàng Trong cũng chỉ biết đến vậy. Không ai biết người Đài Loan còn có thâm ý gì khác.
Theo luật, tất cả đất đai của xứ Đàng Trong đều do ban tài chính trung ương quản lý và được phân cấp cho các vùng. Vùng đất mà người Đài Loan chọn để đầu tư xây dựng một nhà máy sản xuất bột ngọt được giao quyền quản lý cho ban tài chính thành uỷ Dona. Cũng theo luật, đất đai của tổ quốc không bán cho người nước ngoài. Do vậy, các nhà đầu tư chỉ có quyền thuê đất. Tuy nhiên, luật cho phép được quyền sử dụng tiền cho thuê đất vào việc liên doanh.
Với miếng đất 100 ha, cho thuê 50 năm, thành uỷ Dona có 40% cổ phần trong công ty liên doanh nhà máy bột ngọt Vega.
Tất nhiên người dân vùng Dona không bao giờ biết số tiền mà ban tài chính thành uỷ Dona thu được trong vụ làm ăn với bọn Quốc dân đảng Đài Loan trong công ty Vega cũng như tất cả những vụ làm ăn khác được sử dụng vào việc gì và như thế nào. Nhìn bề ngoài, người ta chỉ biết quyền càng to thì người càng giàu. Tất nhiên, không thể giải thích bằng lương bổng..

3.
Tất cả những lứa đôi yêu nhau đều ao ước một lần trong đời đến sông Thị Thuý. Họ tin rằng nếu cả hai người cùng tắm sông Thị Thuý thì sẽ không bao giờ phải lìa xa nhau. Nhưng từ ngày Vega lập nhà máy bột ngọt bên sông này thì không hiểu vì lý do gì, nước sông mỗi ngày mỗi đen. Cây cỏ không xanh rợn chân trời nữa, mà bạc trắng, dù mặt trời lúc nào cũng chói lọi quang hợp thừa diệp lục tố. Ba phần tư dân số Đàng Trong uống nước sông Thị Thuý, bởi thế ba phần tư người dân trong vùng lúc nào cũng mắc nghẹn. Con số những vụ ly hôn càng ngày càng tăng. Các nhà xã hội học cho rằng đàn ông xứ Đàng Trong mất ưu thế cạnh tranh vì đần (theo tiêu chí kiếm tiền của Liên hiệp quốc). Nhưng các nhà khoa học lại phát hiện đàn ông bản xứ bị tụt giảm lượng tinh trùng và mất khí phách nam nhi. Những người thức thời đào giếng sâu, mong tìm được nguồn nước trong lành.
Có một số vị lão thành cách mạng nhờ kinh nghiệm chiến đấu biết rằng sông Thị Thuý đang bị giết bởi sự ô nhiễm chất thải từ nhà máy Vega. Họ báo cáo với thành uỷ Dona, nhưng ban bí thư thành uỷ lờ đi, bảo không có bằng chứng. Tuy vậy, thành uỷ Dona cũng có một buổi họp kín để phân tích tình hình. Các thành uỷ viên đều nhất trí sông Thị Thuý đang chết, thủ phạm là Vega. Và họ còn nhất trí cao hơn là không thể phạt hay đóng cửa Vega vì thành uỷ có 40% cổ phần. Theo nguyên tắc bí mật của cách mạng, lợi nhuận được chia cho mỗi thành uỷ viên không bao giờ được công bố.

4.
Người Trung Quốc và một số nước Á châu khác đều tin rằng rồng là linh hồn của đất đai. Rồng thiên biến vạn hoá nhưng thường thể hiện trong hình tượng của nước. Sông Thị Thuý được người Đàng Trong coi như long mạch. Người Đài Loan biết điều ấy và họ muốn giết sông Thị Thuý. Đấy là phát hiện và là chiến công lớn nhất của cơ quan bảo vệ môi trường thành phố Dona, sau hơn 10 năm nhà máy Vega xả chất thải trực tiếp vào sông Thị Thuý. Đây cũng là thời điểm Vega đã trở thành công ty 100% vốn nước ngoài. Cái 40% cổ phần trong liên doanh Vega của thành uỷ Dona không ai biết nó biến đi đâu và từ khi nào. Có tin đồn rằng thành uỷ Dona nhiệm kỳ trước đã bán cổ phần của mình cho các đồng chí ở Bắc Kinh.

5.
Lại có tin đồn khác, bọn tư bản Quốc dân đảng Đài Loan sẽ phải nhượng bộ Bắc Kinh trong vụ dàn xếp để Vega tiếp tục tồn tại và phát triển vì sự thịnh vượng của xứ Đàng Trong bằng cách nhượng lại 20% cổ phần cho ban tài chính thành uỷ Dona.
Các nhà phân tích vỉa hè nhận xét, theo mối tương quan lực lượng hiện thời, vấn đề không phải là sông Thị Thuý có chết hay không, mà liên doanh Vega cần phải được chia lại như sau: Bắc Kinh 50%, Đài Loan 30%, Dona 20%.

5.10.2008





KHÔNG QUÊ HƯƠNG

Khi gặp nhau ở Paris, Chu Ân Lai nói: “Tôi muốn đồng chí gặp một người Việt Nam.” Tôi hỏi lại, để làm gì, bởi tôi vốn không thích những người Việt Nam, trong thâm tâm, tôi vẫn coi họ là một thứ phó sản của dân tộc Trung Hoa. Chu Ân Lai nói: “Đó là một nhân vật mà chúng ta cần.”
Hai ngày sau, chúng tôi gặp nhau trong một quán cà phê nhỏ ở quận 13. Người Việt Nam đó tên Hồ Phục Quốc. Vẻ nhiệt thành của hắn làm giảm khoảng cách về sự kỳ thị của tôi. Trước khi về nước, Chu Ân Lai chỉ thị: “Đồng chí phải hợp nhất được với hắn.”
Quốc sống với một người chú làm thợ chụp ảnh. Đây cũng là người mà tôi liệt vào dạng tâm thần bất định, như Quốc. Những kẻ tự cho mình cái sứ mạng cứu rỗi nhân loại.
Một lần chú của Quốc chụp hình chung cho tôi và Quốc, nói sẽ gửi cho tôi để làm kỷ niệm. Nhưng ông đã không giữ lời hứa. Tình cờ, tôi đã nhìn thấy tấm hình ấy. Hai người nhưng chỉ có một khuôn mặt. Tôi hiểu tại sao ông chú của Quốc đã không gửi hình tặng tôi.
Những người thường đến chơi với Quốc, ngoài tôi còn có Kim Nhật Thành người Triều Tiên, Nelson người Nam Phi và Fidel người Cu Ba. Trong số những người này, tôi chỉ thấy Nelson thoát được cái tự kỷ ám thị thần thánh. Có lẽ vì thế Nelson học Luật, những người còn lại thích văn chương nhưng họ không chọn con đường trường lớp.
Tôi đề nghị với cả nhóm ra một tờ báo, một mặt để tố cáo sự độc ác của chế độ thực dân, mặt khác tranh thủ sự ủng hộ của các trí thức cánh tả Pháp. Chúng tôi được sự giúp đỡ tận tình của Jean-Paul Sartre, một người tôn sùng Staline và đang rất có ảnh hưởng với giới trẻ. Sartre nhận lời biên tập tiếng Pháp cho tờ báo. Quốc đề xuất lấy tên tờ báo là Những Kẻ Khốn Khổ, nhưng Sartre bảo giống bọn phong kiến quá, nên gọi là Cõi Người Ta, vừa thâm sâu vừa hiện sinh hơn. Nhưng người trung thành với Staline đến chết là Fidel lại đề nghị, nên chọn tên tờ báo là Sự Thật. Nelson cười: “Làm gì có sự thật trên đời này.” Cuối cùng, mọi người nhất trí lấy tên tờ báo là Vô Sản, vừa đúng với lý tưởng Marxisme mà chúng tôi theo đuổi, vừa phù hợp với hoàn cảnh đương thời của người dân thuộc địa.
Làm thế nào một người theo chủ nghĩa hiện sinh lại có thể ái mộ những cuộc cách mạng vô sản, như Sartre? Không phải Sartre thích mùi máu. Những ngày làm việc chung với Sartre, tôi khám phá ra con mọt sách này không phải mê Staline hay Mao Trạch Đông, mà hắn tìm thấy sự ngẫu nhĩ tương phùng với Karl Marx trong triết lý về hành động. Nhưng cô gái nhỏ Sagan nói với tôi: “Sartre chỉ là thằng cha muốn chơi nổi.” Về sau này, chúng tôi đã vận dụng triệt để nhận xét của Sagan để lôi kéo trí thức tư bản thế giới vào các phong trào quần chúng ủng hộ kháng chiến chống Mỹ, đồng thời để triệt hạ các trí thức trong nước một cách hoàn hảo.
Khi mới ra được ba số, tờ báo đã gây một tiếng vang lớn. Bọn Quốc Dân Đảng Tưởng Giới Thạch truy sát tôi. Phòng Nhì Pháp thẩm vấn Hồ Phục Quốc, Kim Nhật Thành, Nelson và Fidel. Tôi chuồn về nước qua ngả Hồng Kông. Tờ báo vẫn tiếp tục xuất hiện. Bọn cực hữu chửi Sartre là “cầm cặc cho chó đái”. Sartre viết bài chửi lại: “Chống Cộng là bọn chó đẻ”.
Mặc dù “cầm cặc” cho Cộng sản đái, nhưng sách của Sartre đã không bao giờ được phép lưu hành trong các chế độ Cộng sản. Thậm chí bất cứ ai đọc sách của Sartre cũng có thể bị bỏ tù. Chủ nghĩa hiện sinh của Sartre bị coi là một thứ nọc độc văn hoá. Mầm mống của phản loạn. Nhưng dẫu sao, giữa cá nhân tôi và Sartre cũng đã có những kỷ niệm đẹp ở Paris. Chúng tôi cùng chia sẻ, trước cái đói, ổ bánh mì có giá trị hơn văn chương, tư tưởng.
Tôi thích những buổi uống rượu khuya có Beauvoir. Đặc biệt thích cách làm tình bạo liệt của Sagan. Người Trung Hoa vốn cầu kỳ trong tình dục. Nhưng chỉ với Sagan, tôi mới có thể bộc lộ dâm tính của mình một cách tự nhiên và say đắm.
Phong trào giải phóng phụ nữ do đảng Cộng sản khởi xướng đã ít nhiều làm cho phụ nữ Trung Hoa thoải mái hơn trong quan hệ nam nữ. Ngày ấy, cùng Chu Ân Lai đón tôi ở Quảng Châu, Tăng Ánh Minh khen tôi “rất cool”. Tôi bất ngờ về cách bày tỏ của Ánh Minh và tôi đã không thể nào không đặt mục tiêu chinh phục cô.
Tờ Vô Sản bị đình bản. Sartre tổ chức làm tờ Nhân Đạo và trở nên nổi tiếng với tiếng nói độc lập và khuynh tả của mình. Hồ Phục Quốc, Kim Nhật Thành, Nelson và Fidel bị trục xuất. Tôi nhắn Quốc về Quảng Châu. Ở đây, đang có một số người làm cách mạng Việt Nam hoạt động. Với sự giúp đỡ của tôi và Chu Ân Lai, đảng Vô Sản Việt Nam được thành lập do Quốc làm Tổng bí thư. Để tránh tai mắt của bọn tình báo Pháp, tên Hồ Phục Quốc bị khai tử. Thay vào đó, Quốc lấy tên tôi. Tuy thế, cũng không thoát, bọn Phòng Nhì Pháp truy lùng ra dấu vết của Quốc. Một năm sau ngày thành lập đảng Vô Sản Việt Nam, cả tôi và Quốc đều bị bọn Quốc Dân Đảng Tưởng Giới Thạch bắt bỏ tù.
Rảnh, không làm thơ thì làm gì?
Nhớ Ánh Minh, tôi làm thơ tình. Những bài thơ này tôi phải giấu kín trong lòng. Những bài thơ khẩu khí khác, tôi thường đọc cho Quốc nghe. Kể từ đây, cuộc đời tôi và Quốc đã thật sự gắn liền với nhau. Không còn ai phân biệt được, khi nào là tôi, khi nào là Quốc. Cũng như ai là Quốc, ai là tôi. Ngoại trừ một người duy nhất, Tăng Ánh Minh. Có người bảo, tôi đã giết Quốc. Nhưng cũng có người cho rằng Quốc đã giết tôi.
Dẫu sao chúng tôi đã có chung một người đàn bà. Cuộc thoả thuận giữa hai phe Quốc – Cộng trong liên minh chống Nhật, tôi và Quốc được thả sau hai năm ở tù Quảng Châu. Chu Ân Lai có ý kiến, Quốc cần phải lấy vợ. Thay vì một nữ đồng chí Việt Nam, điều này hoàn toàn có thể làm được trong tình hình lúc đó, nhưng Bộ Chính trị đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định Quốc phải thành hôn với một phụ nữ Trung Hoa. Tôi hoàn toàn hiểu được ý đồ này. Tôi cũng tin rằng Quốc hiểu như vậy, nhưng Quốc chấp nhận. Chính vì thế, sau này khi về Việt Nam, Quốc đã bỏ lại Tăng Ánh Minh cho người Trung Hoa.
Ngày cưới Ánh Minh, Chu Ân Lai chuốc rượu nói: “Từ nay, hai dân tộc Trung Hoa và Việt Nam là huynh đệ một nhà”. Quốc cười cười đáp: “Môi hở răng lạnh”. Chu Ân Lai rất hài lòng. Cả Quốc và tôi đều say. Quốc biết tôi cũng yêu Ánh Minh.
Tôi rất thích nghe Ánh Minh hát, nhất là những bài dân ca vùng Thạch Lâm. Giọng của Ánh Minh không sôi nổi như những cô văn công mà êm êm như một lời ru. Tiếng hát của Ánh Minh làm cho tâm hồn tôi bình an. Quốc thì không thích lắm. Quốc bảo “tôi nhớ câu hò ví dặm xứ Nghệ.” Tôi hiểu tâm trạng Quốc. Lưu lạc từ nhỏ, không quê hương, chỉ những câu hò ví dặm mới làm Quốc bâng khuâng.
Tôi không biết Quốc có thật sự yêu Ánh Minh không. Và Ánh Minh có yêu Quốc không hay Ánh Minh chỉ làm nhiệm vụ cách mạng giao như chính Ánh Minh bày tỏ với tôi. Đó cũng là lý do tôi không thể làm tình với Ánh Minh như đã làm với Sagan. Dù sao, tôi cũng phải thừa nhận, Ánh Minh rất tận tuỵ. Tôi cảm thấy Quốc cũng hạnh phúc như tôi. Và chúng tôi không phải bận tâm việc giải quyết sinh lý như thời sống ở Paris.
Thời gian này, tôi có dịp gặp cả Nhất Linh và Nguyễn Hải Thần lưu vong ở đây. Nhưng người quốc gia ấn tượng với tôi nhất là Lý Đông A. Ông ta tỏ ra là người có tư tưởng chính trị rõ rệt và tôi biết đây mới là đối thủ của mình. Tuy nhiên, tôi cũng nhận ra ngay người thắng cuộc sẽ là tôi, bởi vì Lý Đông A quá lý thuyết.
Thế chiến thứ hai bùng nổ. Bộ Chính trị đảng Cộng sản Trung Quốc nhận thức được thời cơ đã đến. Tôi được lệnh theo Quốc sang Việt Nam trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến của đảng Vô Sản.
Đêm chia tay Ánh Minh, ba chúng tôi nằm chung với nhau và không ai ngủ. Cách mạng là không khóc. Tôi đã không nhìn thấy Ánh Minh từ đêm ấy.
Sau này, tôi nghe nói Ánh Minh có sinh một đứa con trai. Nhưng tôi đã không có dịp nhận con. Quốc cũng không bao giờ nhận mình có vợ. Dẫu rằng, chúng tôi không chỉ có một người đàn bà.
Một cô gái người Choang dẫn chúng tôi đột nhập Việt Nam và đưa đến một cái hang rất đẹp. Quốc tỏ ra lập trường khi đặt tên cho cái hang là Hang Marx và dòng suối gần đó là Suối Staline. Tôi đùa bảo, lẽ ra nên đặt tên cái hang là Hang Phình, tên của cô gái Choang, và tên suối là Suối Ánh Minh. Nhưng Quốc bảo, lịch sử sẽ ghi chép điều ấy.
Hằng ngày, Phình mang cơm cho chúng tôi. Phình leo núi nhiều nên mông to. Một vẻ đẹp hoang dã, mạnh khoẻ. Tôi hiếp Phình một trưa vắng. Cả thế giới im lặng. Phình cũng im lặng chấp nhận như dâng hiến cho cách mạng. Những ngày sau đó, Phình chủ động tìm tôi. Cô nói, tôi đã mang đến cho cô những cảm giác chưa từng biết.
Thật ra, tôi cũng là người mơ mộng. Tôi nghĩ đến ngày chiến thắng. Tôi nghĩ đến vinh quang của Staline. Tôi nghĩ đến sự bất tử trong lịch sử. Tôi nghĩ đến các vua chúa phong kiến. Và tôi tự hỏi điều gì khiến con người được tôn thờ, và sức mạnh của sự thần bái là gì? Các tôn giáo đã thành công và một tên dở hơi như Hitler cũng đã khuấy đảo cả thế giới.
Tôi bắt đầu viết sách. Tự truyện đầu tiên có nhan đề “Hành trạng cách mạng của tôi”. Xây dựng một tôi mẫu mực và thanh bạch. Dấn thân và hy sinh. Cuốn thứ hai là một tác phẩm thật sự tuyên truyền, ca tụng tài năng và phong cách làm việc theo tinh thần mới của tôi, mang tên “Dưới ánh sáng Người”, nhưng được ký bằng tên một tác giả khác. Sau đó, tôi cho phát động trong toàn đảng phong trào chiến đấu học tập theo gương tôi dựa trên nền tảng hai cuốn sách đó và tập thơ tôi làm trong tù. Chỉ trong vòng một năm, tôi đã trở thành một người khác. Hoàn hảo và đáng được tôn thờ. Điều quan trọng nhất là chính tôi cũng cảm thấy như thế.
Cùng lúc, tôi cho thành lập Đội Thanh niên Cận Vệ. Tuy mục đích gọi là bảo vệ an ninh cho tôi và các đồng chí lãnh đạo trung ương, nhưng nó còn có một nhiệm vụ quan trọng hơn là thanh toán các đối thủ chính trị. Với các lãnh tụ đệ tứ Cộng sản, tôi ra lệnh thủ tiêu hết. Còn các tên đầu sỏ của các đảng phái quốc gia, tôi mượn tay người Pháp để trừng trị bằng cách chỉ điểm cho Phòng Nhì của bọn thực dân bắt. Sau này, Mao Trạch Đông cũng lấy cảm hứng từ Đội Thanh niên Cận vệ của tôi để dựng nên bọn Hồng Vệ binh trong cuộc cách mạng văn hoá long trời lở đất.
Jean-Paul Sartre viết thư cho tôi, ca ngợi biểu tượng một anh hùng cách mạng của thế giới thứ ba vốn là bạn ông. Cho đến lúc chết, tôi vẫn nhớ lời của Sartre: “Lương tri của nhân loại chính là ông.” Sartre đã lẫn lộn lương tri của một người làm chính trị với lương tri của một triết gia không có lập trường giai cấp. Chính vì thế, cũng Sartre, đã tổ chức những chuyến tàu cứu người Việt Nam bỏ trốn tổ quốc trên Biển Đông sau khi thống nhất đất nước.
Tôi rất vui vì những người bạn cũ của mình đều thành công rực rỡ. Kim Nhật Thành trở thành nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử của người Triều Tiên, được nhân dân tung hô vạn tuế khi sống và đến lúc chết, cả nước khóc thương, mặc dù, nói cho công bằng Kim Nhật Thành và hậu duệ của ông đã để nhân dân của mình sống khổ như chó. Fidel cũng không hề thua kém, to mồm nhất thế giới, nhưng đời sống thần dân của vị thánh sống này so với các lân bang tụt hậu hàng thế kỷ. Chỉ tiếc cho Nelson, ông ta từ bỏ quyền lực quá sớm. Nelson đã không làm được điều kỳ vĩ như chúng tôi đã làm, biến sự bất hạnh thành ưu việt và làm thay đổi lương tri con người. Chỉ có một phẩm chất duy nhất được quyền tồn tại và tôn vinh trên đỉnh cao trí tuệ là trung thành và phó thác tuyệt đối cho người dẫn dắt mình.
Tôi viết thư trả lời Sartre: “Xét cho cùng, hiện sinh có phải là một ý thức sống có trách nhiệm với chính mình? Sống cái ‘đang là’ như một hàm ngụ vĩnh cửu.”
Sartre không bàn về điều này nữa. Có lẽ, đến lúc Sartre hiểu, triết gia như Marx, Nietzsche hay Khổng Tử cũng chỉ để cầm cặc cho chó đái.
Về Hà Nội sống giữa quận Ba Đình, một khu phố đẹp nhất, tôi cũng chẳng vui gì. Giống như một cây kiểng, một hòn giả sơn, tôi đã là một xác ướp ngay khi còn sống, làm bung xung cho đám âm binh lộng hành. Có người hỏi tôi, sao không về quê? Xứ Nghệ có phải là quê tôi không? Có lẽ lịch sử sẽ không bao giờ ghi chép điều này: Trước giờ về với Lénine, tôi thật sự thèm khát: “Mong nghe ai hát một bài ca Trung Quốc.”[*]

17.9.2008

[*] “Những tháng cuối cùng của năm 1969, túc trực bên giường bệnh của ông Hồ là đoàn bác sĩ Trung Quốc, cùng bác sĩ Việt Nam. 
Theo sách của Hoàng Tranh, một buổi chiều cuối tháng Tám, khi tỉnh lại, Hồ Chí Minh nói với các bác sĩ Trung Quốc: “Mong nghe ai hát một bài ca Trung Quốc.” Một y tá của bệnh viện Bắc Kinh hát, Hồ Chủ tịch nghe xong, mỉm cười, và “đấy là nụ cười chót” của ông trước khi hôn mê mãi cho đến lúc qua đời”. 





NƠI TỐI TĂM
Và đến ngày tận thế, xác loài người ta sẽ sống lại mà chịu phán xét, kẻ lành lên thiên đàng hưởng phúc đời đời, kẻ dữ sa hỏa ngục chịu phạt vô cùng.
(Kinh Nghĩa Đức Tin – Công giáo)
1.
Sẽ có ngày tất cả các hành tinh của hệ mặt trời xếp thẳng hàng. Và cũng có thể sẽ có ngày tất cả các hành tinh rơi vào những vị trí tạo thành một hình thể bí ẩn nào đó như một dạng bùa chú. Tôi tin rằng đấy là một thời điểm đặc biệt để sự sống được hoán đổi, hoặc liên thông giữa các thế giới khác nhau. Cũng có thể đó là thời điểm hủy diệt. Và tôi cảm nhận được có một lực xuyên tâm đi qua tất cả các hành tinh, các dạng vật chất và phi vật chất. Tất nhiên, cũng sẽ có một lực tương tự như thế đi qua tôi, qua K và các linh hồn.
Tôi biết rằng K cũng đã cảm nhận như tôi. Nàng nói, hôm nay Thày mới dạy em một câu chú và thêm một vài chiêu thức. Tôi bảo, thật ra những câu chú không có ý nghĩa như một lời phán truyền màu nhiệm, kiểu như “Vừng ơi, mở cửa”, mà nó chỉ giúp em tập trung hơn. K nói, Thày cũng bảo vậy. Tôi bảo, anh cũng có một vài câu chú để đọc khi nhớ em. Đừng xạo nhé, K nói. Tôi cười, không tin thì khỏi nghe. Nàng không mắc bẫy tôi.
Chúng tôi không có nhiều thời gian lắm để gặp nhau. Sẽ rất tào lao nếu tôi bảo rằng phần lớn thời gian trong ngày nàng dùng để ngủ, nhưng thật sự đó là một nhu cầu cốt tử của K hiện nay. Nàng mỏng như một tờ giấy và khí huyết chập chờn. Những ngôi sao băng luôn rơi xuống linh hồn nàng và tạo ra một ảo tượng về sự đổ vỡ trong vũ trụ làm cho nàng mất chỗ bám víu. Một người tự nhận là Thày và ông ta đến từ một trong chín cửa biển của vùng Nam bộ và ông ta nói với K, Thày đã nhìn thấy con trong tiền kiếp và Thày có bổn phận đưa con tới chỗ của con trong kiếp sau. K trả lời, vấn nạn của con là hiện tại trong cuộc sống này. Ông Thày nói, Thày biết con đang bị truy đuổi bởi những bóng ma. K thật sự kinh ngạc vì sự hiểu biết lạ lùng đó. Quả thật, nàng vẫn nhìn thấy những bóng ma. Chúng luôn luôn chạy vào nàng. Ông Thày nói tiếp, bởi vì con đang cất giữ những bí mật của sự giải thoát.
Mỗi sáng, trước khi mặt trời mọc, theo hẹn trước, họ đến một công viên trong thành phố và ông Thày dạy cho K về khí công. Ông ta bảo khí công là khởi đầu và là nền tảng của mọi chuyển hóa cơ thể cũng như tâm linh.

2.
K vốn sống ở vùng trung du. Khởi đầu nàng chỉ cảm thấy đau ở khúc sườn cuối sát vùng bụng. Sau đó, khó thở. Đầu óc đôi khi tê dại, đôi khi trống rỗng. Nàng nghĩ, cần phải vào Sài Gòn để chữa trị, sau khi đã nhiều lần khám bác sĩ ở địa phương nhưng không có kết quả.
Chưa bao giờ nàng khai với bác sĩ những ảo giác về các linh hồn chạy vào nàng. Bởi thế, khi ông Thày xuất hiện và nói với nàng về những bóng ma, K tin ngay rằng đó là người cứu độ mình.
Bất cứ khi nào K nằm xuống, cũng sẽ có ít nhất hai linh hồn đàn ông tìm cách chạy vào nàng. Điều ấy làm cho K sợ phải ngủ. Và cứ thế, mỗi ngày nàng một gầy đi cho đến khi mỏng như một tờ giấy. Trong thời gian chữa trị với ông Thày, mặc dù các linh hồn chưa buông tha nàng, ông Thày bảo con cứ ngủ thật nhiều với bình an Thày đã mang đến cho con và cũng ăn thật nhiều với năng lực Thày đã bồi đắp cho con, con sẽ từ từ dày lên. Và Thày mong một ngày con sẽ là thép.
K nói với tôi, em đâu có muốn là thép. Tôi bảo phải, em nên là bún.
Rất lâu sau khi quen biết K, nàng mới cho tôi biết các linh hồn chạy vào nàng như thế nào.

3.
Bị đè bẹp dưới một khối lớn vừa bê tông vừa đá tảng, gã Mèo là một con ma to mồm nhất vì sự kêu gào vĩnh cửu của gã. Thật ra, sức nặng của khối bê tông và đá tảng khổng lồ đè lên chưa phải là yếu tố quan trọng nhất giam giữ gã, mà chính bởi khói hương và lòng thành kính của người dương gian dành cho gã. Người dương gian có thể lầm lẫn và bị lừa bịp, nhưng ở cõi âm chỉ có sự thật. Chính vì thế, các hồn ma gọi gã là Mèo theo cách mà gã đã sống trên trần thế. Vả lại, tiếng kêu của gã cũng giống mèo đến độ mọi đẳng linh hồn đều tin rằng trong mọi kiếp của gã vẫn chỉ là mèo.
Không thể thoát. Mọi hồn ma đều bảo thế, nhưng gã Mèo vẫn luôn kêu gào như thể đấy là bản chất tồn tại của gã.
Càng ngày, sự kêu gào của gã Mèo càng tăng âm lượng theo một tỉ lệ gia bội với cảm thức bị giam giữ của gã. Từ những phiên bản bằng đá đến thạch cao, hình ảnh gã được phát tán vào đình, chùa, miếu và cả các căn nhà mới xây. Càng được tôn thờ, nghiệp chướng càng nặng. Nhưng trần gian không nghe được tiếng gã. Người sống tiếp tục vinh danh gã dưới sức nặng của sự đày ải.
Vốn được xưng tụng như một người thanh bạch, gã trở nên trong trắng với cả đàn bà. Ở nơi sự tồn tại không còn bản năng mà chỉ là những ý lực, gã lại sống một cách bản năng hơn. Đó chính là sự cứu vớt có ý nghĩa nhất cho sự tồn tại cũng như khả năng tái sinh của gã cho một kiếp sau.
Gã đã gặp K trong dịp nàng đến thánh địa.
Cả cuộc đời gần một trăm năm của gã trên trần thế được gìn giữ như một ông thánh, tất cả đàn bà con gái đều là những trái cấm. Tuy nhiên, không ít lần trong đời, gã đã vượt rào ăn trái cấm, nhưng những kẻ tôn thờ gã không thể chấp nhận sự hoen ố đó, họ đã giết sạch những phụ nữ không may được gã yêu mến. Bởi thế, phụ nữ vẫn là một khoảng trống u buồn trong đời gã. Và cũng bởi thế, mọi phụ nữ đến thắp hương trước anh linh của gã đều bị hiếp. Nhưng cảm giác của sự thất tiết ở các phụ nữ bị gã hiếp chỉ là lòng kính tín mù quáng vào sự tuyệt đối của gã.
K là một trinh nữ. Nàng sạch như một nữ tu và thơm như một cánh đồng lúa chín. Khi thấy nàng thắp hương thành kính, gã đã trốn ra sau lưng nàng. Đây là lần đầu tiên gã từ chối một lòng thành dành cho mình. Trước sự thanh sạch thật sự, gã cảm thấy mình bất xứng. Nhưng đồng thời sự thanh sạch ấy cũng là một hấp lực không thể chống đỡ, gã chui tọt vào nàng.
Khói hương và lòng thành của K bay vào vô tận. Tất cả những linh hồn u ám lạnh lẽo đều được sự thanh sạch của nàng độ trì và trở nên ấm cúng.
Ở trong K, tuy vẫn bị đè, nhưng gã Mèo cảm thấy cái đè đã mềm mại hơn. Và gã tiếp tục kêu gào. Âm thanh những tiếng kêu của gã va đập trong tử cung làm kinh nguyệt nàng bất thường. Từ đó K cảm thấy trong mình có những xáo trộn. Những cơn đau thường xuyên trong bụng. Sự mệt mỏi và u mê trong đầu. Nhưng kinh hoàng nhất là những giấc mơ kỳ quái. Những gã đàn ông trần truồng xa lạ tìm cách ôm nàng. K sợ hãi đến không dám ngủ.

4.
Mã A Sình là cô gái đầu tiên bị giết sau ba tháng ngủ với gã Mèo trong một cái hang dưới chân núi Hoàng Liên Sơn. Cô bị xô từ trên sườn núi xuống và bị thú rừng ăn mất xác. Mất luôn lý lịch.
Cô thứ hai bị xe ô tô cán chết ở Hải Phòng sau vài đêm vụng trộm với gã Mèo ở bãi biển Đồ Sơn.
Cô thứ ba bị xiết cổ trong phòng tắm sau một lần duy nhất ngủ với gã ngay tại chỗ làm việc.
Cô thứ tư bị đưa vào bệnh viện tâm thần sau khi sinh hạ một bé trai.
Những cô gái người nước ngoài thì không bao giờ nhìn thấy mặt gã. Khi làm tình các cô đều bị bịt mắt.

5.
Nhiều người tin rằng gã Mèo rất hiển linh. Những phụ nữ hiếm muộn thường đến khấn vái trước lăng mộ gã. Và ước muốn của họ được thỏa nguyện. Nhưng không một ai biết chính gã đã xuất tinh trong tử cung của họ.
Gã cũng đã xuất tinh trong tử cung của K.
K hỏi tôi, ma có sinh con đẻ cái được không? Tôi bảo ma là những người đã chết. Nhưng ma có thật, K nói, ma là một đời sống khác. Tuy nhiên, K không hề biết nàng đã thụ thai bởi con ma Mèo.
K vẫn hành kinh, nhưng nàng có dấu hiệu của sự thai nghén. Nôn mửa và thèm chua. Ngày nào K cũng ăn hết khoảng mười quả chanh dây. Đến tháng thứ ba, K thấy da bụng mình căng ra. Đi khám bệnh, bác sĩ bảo trướng bụng. Đến tháng thứ năm, K đã thật sự là một phụ nữ mang thai, nặng nề và mệt mỏi. Hai bầu vú nở nang. Nhưng không thấy tim thai đập và siêu âm chỉ thấy một khoảng trống.
Ngoài sự nhọc nhằn của một thai phụ, K còn phải đối diện với dư luận về một bầu thai vô chủ.
Đây là khoảng thời gian K cần đến tôi nhất. Tôi thuê cho K một căn phòng nhỏ. Hàng ngày tôi đến với K sau giờ làm việc. Chúng tôi cùng ăn cơm tối với nhau. Xem truyền hình và thỉnh thoảng thảo luận về một kịch bản. Lúc cần thiết, tôi cũng xoa bóp cho K, đôi khi âu yếm, nhưng tôi và K chưa bao giờ làm tình với nhau. Tôi biết K vẫn còn trinh. Điều đó không để làm gì, nhưng cả K và tôi đều biết chúng tôi không nên đi quá giới hạn của tình bạn.
Từ tháng thứ bảy, K cảm thấy một cách rõ rệt những cú quẫy đạp trong bụng. Nàng hỏi tôi, thế này là thế nào? Tôi bảo, chỉ có Chúa biết.
Đột nhiên, tôi nhớ tới các vụ thụ thai siêu nhiên của các bà mẹ của các vĩ nhân theo truyền thuyết, từ bà mẹ của Đức Phật, đến mẹ Chúa Giêsu, mẹ Đức Khổng Tử, mẹ của Thánh Gióng Phù Đổng Thiên Vương…
Tôi hỏi K, có khi nào em mơ thấy mình giao hợp với ai không? Em nghĩ là có, K nói. Tôi đùa, vậy thì trần gian lại sắp có một thần nhân xuất hiện. Hãy vui mừng lên mà đón nhận tin lành.

6.
K lên cơn đau dữ dội. Nàng gọi điện thoại cho tôi. Tôi đón Taxi đưa K vào bệnh viện Nhân dân Gia Định cấp cứu. Nàng được đưa thẳng xuống phòng sinh. Các bác sĩ bảo phải giải phẫu vì không thấy tim thai đập. Họ nghĩ đứa bé trong bụng K đã chết. Tôi từ chối ký vào biên bản đồng ý cho mổ không phải vì tôi không có trách nhiệm pháp lý nào để làm chuyện đó, mà bởi tôi biết rõ chẳng có đứa bé nào trong bụng K. Tôi cũng biết K không hề có một chút tình cảm nào như thể tình mẫu tử với cái “thai” trong bụng mình, bởi vì nàng cũng biết đó chỉ là một khoảng trống. Nhưng cơn đau thì quá thật. Nó chòi đạp và muốn nổ tung. Không kìm giữ được, nàng rên la. Hãy cho nó ra. Làm ơn giúp tôi, hãy cho nó ra. Xanh mét và mệt lả. Cơn đau làm cho K oằn lên. Cuối cùng từ trong cửa mình nàng phụt ra một làn khói mờ có mùi ẩm mốc của đất. Và bụng K từ từ xẹp xuống. Một thằng Mèo nhỏ mượn nơi nương náu đã ra đời. Nó chui xuống gầm giường và nằm ở đó rình rập cuộc sống.

7.
Mỗi khi nhắm mắt, K lại thấy ông thánh Mèo và thằng Mèo nhỏ lần lượt chui vào cửa mình nàng. Việc đó không bao giờ trở thành thói quen đối với nàng. Nỗi sợ hãi buộc K phải cầu cứu tôi đến ngủ với nàng. Tôi đùa, em cần phải cho anh gửi âm binh của anh vào trong em thì bọn quỉ đó mới hết chỗ quậy phá. K hỏi, bằng cách nào? Cho anh đụ em, tôi nói. K đấm vào ngực tôi. Bậy bạ. Tôi tiếp tục nói một cách nghiêm chỉnh, có lẽ đó là cách duy nhất giúp em thoát khỏi tình trạng này. K cũng thẳng thắn bảo, em không bị ẩn ức tình dục. Em tin rằng có những linh hồn đang cần em. Em không biết điều đó có ý nghĩa gì, nhưng em thật sự cảm thấy bị lôi kéo và van nài, mặc dù em sợ hãi. Tôi gật đầu, có thể có những linh hồn cần một nơi như thân xác con người của họ cũ để thể hiện ước muốn tồn tại. Những linh hồn vẫn còn những tập tính của dương gian và tiếc nuối quá khứ. Những linh hồn bơ vơ và không có khả năng vượt qua cảnh giới quen thuộc.
K bảo, dường như em nghe được tiếng nói của họ. Tôi hỏi, họ nói gì? Họ cười anh, K nói. Tôi cũng cười. Dẫu sao, tôi chỉ có khả năng suy đoán.

8.
Cái chết không đồng đẳng. Gã Mèo không đi tìm ma nữ bởi những con ma nữ không còn mùi vị và đã mất cảm xúc. K là một trường hợp độc nhất mà gã Mèo khao khát vươn tới, sự thanh sạch của linh hồn và mùi người thuần khiết. Gã không thể tạo nên cảm xúc giao hợp cho K, vì gã vô hình tướng, nhưng nhờ K, gã cảm nhận được bản năng của mình giao động. Trong thế giới của gã, việc giao hợp chỉ là sự chồng lấn giữa hai cảm thức và có thể thực hiện xuyên suốt với mọi linh hồn, phi giới tính và tuổi tác. Thời gian là vô nghĩa. Bởi thế, K thu hút gã. Không những thế, trong bối cảnh thân thể K, gã thấy mình hiện diện như một sự sống.
Đêm tối là thời điểm thích hợp để gã Mèo bước ra khỏi nơi trú ngụ trong lồn K. Nhưng K chỉ nhìn được khi gã chui vào cửa mình nàng với một dương vật to cứng, như một tư thế của nỗi khát khao vĩnh hằng. Tận cùng đáy lòng K, hình ảnh đó chỉ là sự xỉ nhục cái tự do lựa chọn của con người.
K hỏi, em phải làm sao? Tôi bảo có hai cách, một là em tập trung vào khí công để gìn giữ chính khí và chính niệm. Sự mạnh mẽ của tinh thần và thể chất sẽ loại trừ được mọi tà ma, quỉ chướng. Hai là em cần một người thế vai.
K cốc lên đầu tôi, anh nói lòng vòng rồi cũng chỉ để dụ em. Anh hư lắm.

9.
Tôi kể cho N nghe câu chuyện mình đang viết. N nói, cái chết chỉ là một bước chuyển sang một đời sống khác. Trong thế giới của những hồn ma, anh nên có một nhân vật thèm chết. Đó là kẻ muốn đi tìm sự thật cuối cùng. Và hắn sẽ tiếp tục chết từ cảnh giới này đến cảnh giới khác, cho đến khi có một cái chết thật sự, hoàn tất một nghiệp chướng, hay đến một cảnh giới sau cùng.
Tôi nói, có lẽ đó là cái bản lai diện mục, chân như của Phật giáo. Và cái chết sau cùng chính là sự giải thoát. Nhưng triết lý chẳng giải quyết được gì mà niềm tin thì đáng ngờ. Anh nghĩ cần phải trở lại với con ma Mèo con mới được sinh ra bởi âm dương hỗn độn kia đang tác yêu tác quái thế nào.

10.
Sau ngày ở bệnh viện về, K khỏe hơn chút đỉnh. Nàng cảm nhận được hơi thở của mình thông thoáng hơn. Ông Thày dạy khí công nói, con đã có phần tinh tiến. Khí sắc của sự sống đã rạng lên. Thày hài lòng khi nhìn thấy con tịnh niệm với một thần thái thanh thoát.
Tuy thế, con ma Mèo con không biết gì tới những cố gắng của K. Nó ganh đua với Mèo bố hãm hiếp nàng. Đối với nó, việc đó chính là sự sống và nó cần phải sống.
Người ta không thể giải thích được tại sao ma chỉ đến với người này mà không đến được với người khác. Tôi tin rằng có những kẻ được chọn để nối liền những thế giới khác nhau. Và rằng luôn có một thông điệp về sự liên thông giữa các thế giới. Tuy nhiên, tôi không tin con Ma mèo con đã được gửi đến với K như một sứ mạng của sự bí ẩn trong vũ trụ. Nó chỉ là một hệ lụy ngoại lệ của tính vĩnh hằng của lòng dục. Bởi thế nó mãi mãi chỉ làm một việc duy nhất là đụ.
Con ma Mèo con vẫn nhìn thấy những phụ nữ khác, nhưng nó là sản phẩm của sự độc tôn và không thể thay đổi với nguyên mẫu, nó sẽ chỉ biết đến K như không còn một cõi tồn tại nào khác.
Và K không thể nào xô đẩy nó ra như thể nó là một thuộc tính của sự áp chế đương nhiên trong cuộc sống. Ý thức phản kháng làm K mệt và máu ngừng trệ trong huyết quản.
Mỗi lần bị hai bố con ma Mèo cưỡng hiếp, K thường ôm choàng lấy tôi, đôi mắt thất thần. Nàng chỉ tỉnh táo sau vài giây khi cảm nhận được ánh hồi quang ấm áp của chính khí nơi tôi.

11.
Tôi tìm cách trấn áp lũ ma Mèo. Trước hết tôi tìm thuê một căn hộ khác, rộng rãi và thông thoáng. Tối ngủ mở cửa sổ và để đèn sáng trưng. Tôi nghĩ K cần phải được hít thở tốt hơn. Máu huyết phải điều hòa và đầy đủ cho não hơn. Một tình cảm được che chở và yêu thương. Và tôi cùng tập vận khí với K trước khi ngủ.
Cùng lúc, K cũng được ông Thày dạy cho những bài học mới về động công và tĩnh công. Khu vực dưới rốn của K đã có dấu hiệu ấm nóng của một ngọn lửa. Những cơn mệt định kỳ của K được kéo dãn ra và mức độ dần giảm xuống.
K nói, đêm qua em mơ thấy anh, nhưng không phải là một giấc mơ đẹp. Tôi bảo, đó là một dấu hiệu tốt, anh đã vào sâu được trong linh thức của em. Tiếc là em chưa yêu anh. Một tình yêu mãnh liệt có thể xua đuổi mọi tà khí.
K nói, Thày bảo sẽ nhận em làm đệ tử. Tôi hỏi, em có thích không? Em cũng không biết nữa, K nói, lúc này em chỉ muốn chữa bệnh. Tôi đùa, biết đâu có lúc em trở thành một giáo chủ. Để làm gì? K hỏi lại. Tôi nói, cho tương xứng với ông thánh Mèo. K sa sầm nét mặt. Tôi đã nói một câu sai lầm. Cũng như tôi đã sai lầm khi giới thiệu K với N, cho dù đó là một ý tưởng tốt đẹp, để K có thêm một người bạn chia sẻ.
Tôi nói, anh đùa thôi. Cần phải đưa con ma Mèo về thế giới của nó. Tuy nhiên, anh vẫn thích ý tưởng em sẽ đi tu. Dường như đó là điều tốt nhất để các linh hồn sống quanh em tìm được sự an lạc trong cõi chết và em tìm được ý nghĩa của mình.

12.
Tôi nói với N, K đã quyết định làm đệ tử ông Thày và về một trong chín cửa biển của Cửu Long làm trấn sơn cho các linh hồn lưu lạc. Tuy nhiên, tôi không kể cho N biết khi chia tay với K, tôi đã chắp tay cúi lạy K như một tín hữu với giáo chủ và ôm nàng rất lâu như một người yêu.

17.5.2009






THỜI CỦA NHỮNG SLOGAN

Hoa hậu là đẹp. Và người mang danh hiệu hoa hậu tất nhiên là người đẹp nhất trong một cuộc thi về sắc đẹp. Cô M đã đoạt được danh hiệu ấy khi cô vừa 18 tuổi và tốt nghiệp phổ thông. Vì thế, đẹp là toả sáng. Trong cuộc họp báo ra mắt báo chí về các hoạt động trong tương lai của đương kim hoa hậu, cô M còn chứng tỏ đẹp là tự tin khi cô phát biểu: “Đẹp là tài năng.”
Một phóng viên hỏi: “Cô có thể chứng minh tài năng của mình không?”
Cô cười rất tươi, đẹp (không phải) là cái đáng ghét, nói: “Sắc đẹp tự nó có khả năng thuyết phục, chinh phục. Vì thế, sắc đẹp (còn) là lý lẽ. Đồng thời, sắc đẹp (cũng) là chân lý. Sắc đẹp mang lại hạnh phúc (cho tôi cũng như) cho những ai được nhìn ngắm nó. Nếu sắc đẹp thiếu một ngôn ngữ tự thân, đó chưa đủ gọi là đẹp. Nói một cách khác, hoa hậu là tài năng”.
Anh phóng viên toát mồ hôi, hỏi tiếp: “Thưa cô, đây có phải là một trong các bài mà cô phải học thuộc lòng không ạ?”
Cô M tỏ ra đẹp là bản lĩnh, đốp chát: “Anh cho rằng cứ là hoa hậu thì phải ngu à”?
Mọi người cười ầm ĩ.
Anh phóng viên nói: “Xin lỗi cô. Tôi có bằng chứng về kịch bản của cuộc thi hoa hậu vừa qua, cũng như kịch bản của cuộc họp báo này.”
Cô M một lần nữa cho người ta thấy đẹp là kiêu hãnh: “Cứ cho là như thế. Việc tôi học thuộc bài không chứng tỏ đẹp là giỏi sao?”
Mọi người vỗ tay.
Ngay sau cuộc họp báo, một đại gia vào hàng sử sách (thời ra biển lớn) đã gặp cô và đề nghị không phải chức danh đại sứ thương mại mà là tổng giám đốc một công ty truyền thông. Tuy nhiên, đó không phải là sở nguyện của cô. Cô không chỉ muốn đẹp là nổi tiếng, đẹp là tiền, hay đẹp là quyền lực, mà đẹp (còn phải) là tâm hồn. Cô muốn trở thành nhà văn.

Việc các hoa hậu đi làm đại sứ thiện chí hay làm từ thiện quá tầm thường, xoàng xĩnh. Với cô, đẹp là khác biệt. Ngoài những buổi biểu diễn trên sàn catwalk, hoặc tham dự các event để duy trì một mức sống xứng đáng, cô vùi mình vào chữ nghĩa. Nhưng cô có thể viết về điều gì? Tâm hồn cô, tất nhiên đẹp và đẹp là văn chương. Kể chuyện cô đã trở thành hoa hậu như thế nào ư? Có thể gây sốc, nhưng cô không muốn đụng chạm và làm hoen ố thanh danh của mình. Kể chuyện cô đã được thương lượng mua bán ra sao sau khi đăng quang? Cũng là chuyện quá dơ bẩn. Sáng tạo là đẹp. Cô cần cho công chúng biết hoa hậu (của họ) là đỉnh cao. Cô vật lộn với chữ và cô tin rằng mình đang lao động nghiêm túc. Nhưng cô không hề biết rằng chữ nghĩa cũng giống như sắc đẹp (của cô) tự nó có thể sáng loà hay tối tăm, tự nó là quyền lực hay vô nghĩa mà cô không thể đụng chạm tới.
Cô hút thuốc. Cô uống rượu. Cô làm tình. Và cô mơ màng, cô chảy nước, cô ói mửa. Trác táng hay dấn thân, cô liều mình như tất nhiên phải thế. Chữ nghĩa vẫn giấu mình ở đâu đó. Nhà văn không phải là kẻ kể chuyện, một người nào đó đã nói. Chính vì thế cô không tìm cách để kể một câu chuyện. Có quá nhiều chuyện để kể trong cuộc sống của cô. Nhà văn phải làm chứng cho thời đại của mình, một người khác lại bảo. Làm chứng nhân thì mấy ông nhà báo không phải đã làm tốt hơn ư? Nhà văn phải là lương tâm của cuộc sống. Xin dành cho các vị tu sĩ. Nhà văn phải biết định hướng cho con người, phục vụ Đảng và tổ quốc. Việc này độc quyền của các cán bộ tuyên giáo rồi. Nhà văn là gì? Là kẻ phản kháng? Cô chẳng dại.
Cuối cùng, cô nghĩ tốt nhất mình cứ là một hoa hậu. Đẹp là vĩnh cửu. Và như Dostoievsky nói, cái đẹp cứu rỗi thế giới. Như thế, đẹp là vinh quang. Cô còn cần gì? Một vẻ đẹp hoàn hảo?
Một người bạn cô bảo: “Hãy đi học tiếng Hoa.”
Cô hỏi lại: “Để đi tắt đón đầu sự thống trị của Bắc Kinh à?”
Người bạn nói: “Nó thống trị lâu rồi. Vấn đề của mày là để hiểu thế nào là sự hoàn hảo.”
Cô bảo: “Nói xem.”
Người bạn nói: “Trong tiếng Hoa, chữ ‘Hảo’ được định nghĩa theo kiểu chiết tự là một phụ nữ có con.”
Cô cười: “Ý mày là tao phải kiếm một thằng chồng rồi đẻ con?”
Người bạn nói: “Một phụ nữ có con, không có nghĩa là phải có chồng.”
Cô lại cười: “Ô-kê. Được.”
Cô nói tiếp: “Mày dám cho tao đứa con không?”
Người bạn nói: “Nếu mày thích”.

Khi mang thai đến tháng thứ bảy, cô biết cô có thể trở thành nhà văn thật sự. Cô biết cô cần viết gì và viết như thế nào. Nhưng một câu hỏi đã khiến cô không bao giờ trở thành nhà văn: “Viết để làm gì?”
Lúc này, cô đã là một cựu hoa hậu. Và cô hiểu ra đẹp không là gì cả. Đẹp chỉ là sự an ủi. Đôi khi đẹp là hoài niệm cái đã mất.

27-5-2011





CHAI & LỌ & VÀI THỨ LINH TINH KHÁC

1.
Hắn vuông. Ở cạnh vuông phía trên, cái đầu tròn như một cái núm. Bốn góc, tay chân mọc ra trông như mấy cái đuôi diều. Hắn bảo hắn bay được. Nhưng trong thực tế, việc di chuyển của hắn giống như một con cua. Mà không phải lúc nào hắn cũng đi được. Thường thì người ta vẫn túm đầu hắn như cầm một cái núm và ném vào một chỗ nào đó. Hắn vẫn quả quyết rằng hắn bay được. Hắn giải thích, khi người ta nắm đầu hắn quẳng vào một chỗ nào đó, chẳng phải là chân hắn không còn chạm mặt đất sao? Mà chân không còn chạm mặt đất, không phải bay thì là gì?
Tuy nhiên, việc bay hay bị quăng ném đối với hắn cũng không có ý nghĩa gì lắm. Hắn bảo vấn đề là cảm giác. Mà cảm giác của hắn khi bị đè mới là tuyệt vời. Cái hình vuông của hắn lúc ấy bẹp xuống nhưng cảm giác lại bị căng hết cỡ. Sự khác thường đó hắn gọi là một nhục cảm thiêng liêng. Ngày nào hắn không bị đè, hắn bảo ngày đó không đáng sống.
Những người biết hắn đều cho rằng hắn nửa này nửa kia, nghĩa là không phải chai cũng không phải lọ.

2.
Thế nào mới là chai?
Về hình dáng, chai phải dài hoặc cao, có cổ và miệng thì nhỏ.
Ngược lại, lọ phải to ngang hoặc thấp, không có cổ nhưng miệng lại rộng.
Cái chai thì có thể đút vào cái lọ. Việc cái này đút vào cái kia, người ta gọi là sự sắp xếp. Vậy thì làm thế nào có thể đút cái hình vuông vào cái hình tam giác khi có nhu cầu?
Ở xứ sở của hắn, có một câu tục ngữ: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Cho nên việc hắn là chai hay lọ không thành vấn đề, mà điều quan trọng chính là đút một cái hình vuông vào trong một cái hình tam giác như thế nào, nó có phải là một nan đề toán học hoặc vật lý hay không? Hoặc nó thuộc phạm trù triết học hay thần học?
Thật ra đối với hắn, chỉ cần nghĩ rằng sẽ chui vào cái hình tam giác, tức thì hắn sẽ có cảm giác ở trong hình tam giác. Thậm chí hắn vẫn luôn luôn ở trong hình tam giác mà hoàn toàn không ý thức được cái sự thể bao bọc mình là gì.

3.
Hắn hình vuông. Ở cạnh phía dưới, hắn có đến hai cái chai để xả nước. Thật đáng tự hào, trong lúc mỗi người chỉ có một cái chai. Hai cái chai thì có thể đút vào cái lọ cùng lúc được không? Tất nhiên điều này còn tùy thuộc vào cái lọ cỡ nào. Hắn bảo chân trong chân ngoài là một hiện tượng phổ biến nơi xứ sở hắn. Cho nên việc sắp xếp để một cái chai bên trong, một cái chai bên ngoài không hề tạo ra một trở ngại nào trong cảm nghĩ của hắn về cuộc sống. Bởi cuộc sống luôn luôn được chấp nhận trong sự bất toàn của nó. Tuy nhiên, hắn chỉ nghĩ đến hắn mà không hề nghĩ đến cái lọ cảm thấy thế nào về sự thừa thãi đó.

4.
Cô là một cái lọ hình tròn, mặc dù miệng lọ là một hình tam giác. Cảm giác của cô lúc nào cũng no đầy. Chỉ số về hạnh phúc trong xứ sở cô được xếp hạng vào loại nhất thế giới. Vì thế việc hắn chỉ đút một cái chai vào trong cái lọ của cô không làm cô cảm thấy thiếu. Cô bảo có thằng nào ở xứ sở này mà không đi hai hàng. Tuy như thế thì không được gọn gàng lắm, nhưng cô lại cho rằng bằng chứng về một cái đuôi của con người thì không nên xóa bỏ, cứ để nó ngọ nguậy bên ngòai thênh thang cho có vẻ tự do. Cũng theo cô, về mặt triết học hay thần học thì làm quái gì có tự do. Nhưng một cảm giác về tự do dù chỉ là sự ngụy tín tự phỉnh cũng làm cho người ta bớt ngạt thở.
Một chai trong lọ, một chai ngoài lọ là một tình thế khốn nạn nhất của tính lưu đày tồn tại. Nhưng không một ai cần biết điều đó. Đôi khi để an ủi cái chai ngoài lọ, cô lấy tay cầm nó vừa vung vẩy vừa hát: “Đời người ai cũng có một cái đuôi…”

5.
Vuông và tròn vốn là một biểu tượng của sự tốt đẹp nhị nguyên. Nhưng cô và hắn đi bên cạnh nhau lại là một xô lệch lớn. Trong khi cô tỏ ra uyển chuyển bao nhiêu thì hắn lại khúc khuỷu gập ghềnh bấy nhiêu. Mặc dù xét về mặt hình học, hình vuông ở bên ngoài hay bên trong hình tròn đều mang ý nghĩa của sự trọn vẹn. Cô bảo, hắn thường làm cô đau vì những góc cạnh của hắn. Cô không phân biệt được sự thô kệch với phẩm chất của cá tính. Thật ra, cô lầm lẫn trong những trạng huống khác nhau của mối tương quan giữa cô và hắn.
Nếu hình tròn nằm trong hình vuông, mọi thứ sẽ trơn tuột như quan hệ của thú vật.
Nếu hình vuông nằm trong hình tròn, sự va chạm giữa những khác biệt đó sẽ là tình yêu con người, nhưng con người luôn tìm cách chối từ những phẩm chất của mình. Vì thế, tính biểu tượng trở nên quan trọng hơn sự thật và đáng nói hơn sự thật.

6.
Vấn đề lớn lao nhất giữa cô và hắn không phải là vuông hay tròn, mà chính là cái miệng hình tam giác.
Một cái miệng tiện dụng.
Khi nghiêng về bất cứ phía nào, ba góc của cái miệng hình tam giác đều có khả năng đáp ứng cho những tình huống khác nhau để dốc nước ra. Kiểu nào cũng sướng, cô bảo thế. Nhưng hắn lại bảo như thế thì mất quan điểm lập trường.
Không thể bịt kín được những khoảng hở do sự khác biệt tạo ra, sự rối rắm luôn phát sinh những điều phiền toái, chẳng hạn những tiếng kêu bọp bẹp như ếch nhái giữa cơn mưa. Nó lạc điệu với thần hứng tái tạo lịch sử.

7.
Lịch sử là trò bóp nặn sự thật. Trong tất cả những sự sắp xếp để tạo ra sự ngăn nắp và thông thoáng giữa các loại hình, thì cái miệng hình tam giác dường như luôn là nguyên nhân của những tình trạng phức tạp và nhạy cảm.
Một hôm cô bảo: “Không phải cái tam giác nào cũng giống nhau”.
Hắn nói: “Nhưng những cái tam giác để bên cạnh nhau sẽ rất gọn và ổn”.
Cô bảo: “Và nó sẽ tạo ra một mặt phẳng vô nghĩa”.
Hắn nói: “Không có gì vô nghĩa”.
Cô bảo: “Thế thì anh hãy đi tìm những cái hình vuông và xếp chúng lại với nhau. Anh sẽ tìm được sự tốt đẹp đấy”.
Hắn nói: “Không thể dẹp bỏ những cái chai vào trong chính nó được”.
Cô bảo: “Không hề gì, nếu những cái chai tự biết thu xếp giống như một quả bóng xì hơi”.
Hắn nói: “Cái chai không là một quả bóng. Một cái chai chỉ có thể nằm trong cái lọ”.
Họ không cãi nhau nữa. Thay vào đó, họ thực hành việc bỏ cái chai vào trong cái lọ. Nhưng miệng lọ lại có hình tam giác, vì thế trong lúc xoay xở cho thần hứng tái tạo lịch sử và cho lịch sử có sự tươm tất, chẳng may cái chai bị vỡ bởi đường gấp bất ngờ của góc hình tam giác. Những mảnh vỡ đó sau được gọi là lịch sử bởi sự tồn tại đích thực của nó. Còn chính lịch sử chỉ là sự phiền phức hay nhạy cảm mà tất cả các bên liên quan đều không ghi chép vào trong ký ức của mình.

7.7.2011


Nguồn: tienve.org

No comments:

Post a Comment