NGUYỄN VIỆN - BIÊN BẢN / VÔ TẬN & VÔ ĐỘ / NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT TRƯỚC KHI MANG BẦU / BỮA ĂN TỐI / NGHỆ THUẬT SẮP ĐẶT / HỆ THỐNG / BẮT RỒNG / QUỐC SƯ / MÙ MỜ VÁY / MA BẢN MỆNH - văn


BIÊN BẢN

Tôi có ý định viết một vở kịch theo hình thức “Chat” giữa nhiều người cùng lúc. Nghĩa là có nhiều nhân vật và nói những chuyện khác nhau, không liên quan đến nhau. Nhưng thay vì những cửa sổ trên máy vi tính để “Chat” là những cái chuồng treo trên cây. Trong mỗi chuồng là một nhân vật.
Tuy nhiên, tôi nói với ông bạn nhà thơ H, “Tôi chưa tìm được đường dây câu chuyện để bắt đầu.”
Dù thế, tôi không thể nào không viết.
Và tôi đã bắt đầu bằng câu: “Tôi có ý định viết một vở kịch...” Cũng như trước đây, tôi từng có ý định viết một feuilleton trên mạng Facebook. Tôi hy vọng sẽ nhận được các comments mỗi ngày như một sự tương tác, giống như tôi đã từng viết một tiểu thuyết mở “Em có gì bí mật, hãy mail cho anh” trên Tienve.org. Tôi cũng có ý định sau đó sẽ in lại thành sách với tất cả các comments như nó đã diễn ra. Đấy cũng sẽ là một tác phẩm tương tác. Nhưng rồi tôi buộc phải bỏ ngang dự án đó, dù đã công bố trên trang Facebook của mình.
Tôi không có ý định giải thích lý do sự bỏ ngang đó.
Và tôi cũng đã bỏ, không viết gì thêm trên Facebook nữa.
Dù thế, tôi không thể nào không viết một cái gì khác.

B nói với A:
- Em không muốn gặp anh nữa.
A nói với B:
- Trong tình cảnh này thì chúng ta có gặp nhau hay không cũng không khác gì nhau.
B nói với E:
- Tối nay mình ngủ với nhau nhé.
E nói với B:
- Ừ, mình sẽ nghĩ về nhau thật nhiều.
B nói với E:
- Không chỉ nghĩ thôi mà mình sẽ làm tình với nhau.
E nói với B:
- Em sẽ luôn ngước mắt về phía chị.
A nói với C:
- Tôi cam kết với các anh là tôi sẽ không viết gì nhạy cảm.
A nói với D:
— Tôi với ông đi rửa mắt chứ?
D nói với A:
- Chẳng được tích sự gì. Chỉ tức dái thêm. Nhưng không đi theo ông thì cũng chẳng biết làm gì.
A nói với B:
- Thời gian hoang vu trên mặt đất.
B nói với A:
- Vớ vẩn.
A nói với D:
- Đó là tất cả những gì chúng ta phải làm. Cái đẹp tàn sát thế giới.
B nói với E:
- Chị sẽ cho em uống nước của chị.
E nói với B:
- Em muốn hôn chị quá.
A nói với C:
- Tôi cam kết với các anh là sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu còn tiếp tục chống Trung Quốc xâm lược.
D nói với A:
- Chúng ta không có gì để làm ngoài việc kiếm tiền và đi tìm gái?
A nói với D:
- Dường như vấn đề của mỗi người là những trải nghiệm cá nhân. Tôi không tin vào các giá trị phổ quát.
D nói với C:
- Tôi không tin các anh, bởi vì các anh chỉ là nhãn hiệu của một sản phẩm đã hết hạn sử dụng.
E nói với B:
- Em vừa mới viết xong kịch bản event ra mắt công cụ diệt chuột của bọn Đài Loan. Thú vị lắm.
B nói với E:
- Ừ. Cứ tàn sát là vui.
D nói với A:
- Thật ra, mọi niềm tin đều có tính áp đặt.
E nói với B:
- Hôm qua chị đã giết em đến hai lần. Cạn cả linh hồn.
B nói với E:
- Nhưng chị đã không thể nào uống được nước nguồn của em. Dường như cảm xúc cũng chỉ là tưởng tượng.
A nói với B:
- Chỉ có cái cũi này là thật. Và nó ngăn cách chúng ta với thế giới. Mọi cái nhìn ra bên ngoài luôn mang tính điều kiện và nó biến chúng ta thành thừa thãi, vô nghĩa.
D nói với A:
- Thật ra, tôi vẫn cảm nhận được mưa gió. Và mưa gió làm cho chúng ta trở nên trần truồng, cô độc.
A nói với D:
- Tôi vẫn luôn luôn trần truồng. Và mưa gió làm cho tôi thấy rõ hơn sự trần truồng của mình.
E nói với B:
- Chị ơi, em nhớ chị.
B nói với E:
- Chị cũng nhớ em.
B nói với C:
- Ông đừng nhìn chúng tôi được không?
E nói với B:
- Em không quan tâm đến người lạ. Em chỉ muốn kiếm được nhiều tiền và nuôi chị. Em sẽ nuôi chị.
D nói với A:
- Thật ra, tôi muốn nói tới cảm thức khánh tận. Cảm giác mất sự che chắn an toàn.
A nói với D:
- Chúng ta bị lột hết áo quần và làm rỗng linh hồn.
E nói với B:
- Chị đã mang đến cho em niềm hy vọng và biết sống để làm gì. Em yêu chị và chỉ yêu chị mà thôi.
B nói với E:
- Vì thế cần phải diệt chuột, đúng không?
E nói với B:
- Kìa chị? Chị coi thường em.
B nói với E:
- Chị đùa mà.
D nói với A:
- Đó là vấn đề quan điểm.

Huế, năm 1968. Khi ấy ông H làm cán bộ đội tuyên truyền, nhìn thấy người bạn bị trói cùng với một đám “nguỵ quân, nguỵ quyền”, H hỏi T: “Sao ông lại ở đây?” T bảo: “Tôi cũng không biết tại sao.” H nói với người chỉ huy: “Anh này là người của chúng tôi.” T được thả ra và sung vào nhóm đào công sự cho bộ đội Thanh Hoá. Mồ hôi chưa đổ bao nhiêu, một quả pháo rơi xuống, T bị thương và được chuyển về hậu phương chữa trị, nghiễm nhiên trở thành một chú thương binh bộ đội Cụ Hồ, thuộc tỉnh đội Thanh Hoá.
Cuộc tổng nổi dậy và tấn công Mậu Thân thất bại, H cũng phải bỏ Huế chạy ra miền Bắc.
Đấy là một chiến trường khác, không súng đạn nhưng cũng không kém phần máu me của thân phận trí thức.
Họ đã thoát chết. Bây giờ cả hai đều là bạn tôi.
Tôi hỏi H này và một H khác cũng từng là sinh viên tranh đấu ở các đô thị miền Nam: “Theo chỗ tôi thấy, hình như đám tranh đấu các ông không được mấy trọng dụng sau ngày chiến thắng?”
H bảo: “Đó là vấn đề quan điểm.”
Nhưng H khác kể tôi nghe câu chuyện này: “Sau ngày giải phóng, ông Lê Đức Thọ vào Sài Gòn, ông nói với các đồng chí của mình về những người trí thức miền Nam theo Cộng sản, đại ý: ‘Bọn tiểu tư sản trí thức này không tin được. Rồi cũng sẽ có ngày chúng nó quay lại chống mình’.”
H bảo: “Khi tôi ở miền Bắc, tôi đã chứng kiến cái cảnh kiêu binh của bọn bần cố nông, tức cái đám bần cùng dốt nát nhưng được xem là cốt cán của chế độ. Cũng như tôi đã thấm đòn thân phận trí thức và nhận ra sự đểu cáng tột cùng của cái cơ chế bần cố nông kiêu hùng làm chủ đó.”
Tôi nói: “Và rồi đúng theo quan điểm lý luận về giai cấp. Thằng tiểu tư sản trí thức như ông đã quay lại chống đảng?”
H trầm buồn: “Dường như nhuệ khí trong đời của mỗi người cũng chỉ có cơn thôi.”
Một H khác cũng nói: “Cái thời của chúng tôi đã qua rồi.”
Tuy nhiên, một lần H khác lại nói: “Không thể im lặng.”
Thời gian T ở miền Bắc sống thoải mái nhờ vẽ minh hoạ cho các báo nhưng cũng có lúc khốn đốn vì bị nghi ngờ làm gián điệp. May mắn được Tố Hữu khen tài nên thoát nạn. Sau ngày giải phóng, cả T và H đều bị cấm không cho vào Nam. Nhưng T trốn qua ngả chiến trường Campuchia. Còn H trốn bằng cách bỏ việc. Sau đó T chạy tiếp đến nước Mỹ. H trở thành con người tự do với những tác phẩm không được định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những con người của tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa cũng đã đang biến đổi theo chiều hướng tư sản hoá.
T viết: “Tôi đã đi trên mặt đất bằng những giấc mơ, nhưng đôi khi tôi cũng bị giấc mơ lừa dối. Tuy nhiên, tôi vẫn yêu những giấc mơ và đi theo nó. Dù tôi biết có thể tôi tiếp tục bị lừa dối.”
Giấc mơ của T chỉ là những người đàn bà. Và T vẽ chân dung họ qua hình tượng những con mắt.

A nói với D:
- Con người vẫn tự vẽ bùa cho mình.
B nói với A:
- Em không tin anh.
A nói với B:
- Vì thế em đã không yêu anh. Điều ấy cũng chẳng hề gì. Vấn đề của anh là em đang tồn tại và anh yêu sự tồn tại đó. Đó là điều duy nhất có ý nghĩa.
E nói với B:
- Những giấc mơ của em là đôi chân. Nhưng làm sao chúng ta có thể đi?
B nói với E:
- Hãy giấu đôi chân vào trong hĩm.
E nói với B:
- Ôi chị, em còn giấu khối thứ trong đó nữa.
D nói với A:
- Ông định nói đến những con người trí thức?
A nói với D:
- Xã hội này không đào tạo ra con người trí thức. Nó chỉ tạo ra các công cụ sản xuất.
D nói với A:
- Vậy thì cái bùa mà ông nói là cái gì?
A nói với D:
- Đó là sự huyễn hoặc, ảo tưởng...
E nói với B:
- Đôi khi, những giấc mơ cũng làm em ngạt thở.
B nói với E:
- Chị chỉ thấy cái hĩm nghẹt thở.
E nói với B:
- Chúng ta tự do mà.
B nói với E:
- Không phải vì chúng ta có quá nhiều tham vọng, mà vì cái chúng ta tưởng là tự do kia thật ra chỉ là sự sa đoạ của trí tưởng tượng.
D nói với A:
- Cái mà qua đó chúng ta có thể sống được, phải chăng chính là sự huyễn hoặc?
A nói với D:
- Cái mà chúng ta quen gọi chủ nghĩa hiện thực, chính là nó.
E nói với B:
- Chị đừng nhìn lên trời. Hãy quay nhìn em nè.
B nói với E:
- Chị vẫn nhìn em và tự hỏi, liệu chúng ta có thật sự hạnh phúc?
E nói với B:
- Em sung sướng, hạnh phúc. Chẳng phải chị cũng vậy sao?
B nói với E:
- Chị không biết.
E nói với B:
- Sao chị lại không biết?
B nói với E:
- Chị không biết thật mà.
E nói với B:
- Hay chị yêu A?
B nói với E:
- Không, chị yêu em.
E nói với C:
- Tôi chọc mù mắt ông bây giờ đó.

Văn phòng làm việc của H khác bị ném hai quả bom xăng theo đúng kiểu bom tự chế mà H này khi xưa đã từng sử dụng để “chống Mỹ cứu nước.” Tôi cười khà khà khi nghe H khác kể. Ai biểu ông “chống Tàu cứu dân” làm chi? H bảo: “Thật ra, tôi không lo bọn Tàu xâm lăng bằng việc trang bị tư tưởng gì cho thanh niên ngày nay.”
H cũng cười. Đã có Đảng và Chính phủ lo. Bộ Giáo dục đã soạn dự án phổ cập tiếng Hoa cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở.

D nói với A:
- “Thôi rồi Lượm ơi.”
A nói với D:
- Thôi rồi đồng chí Lê Duẩn kính mến.
B nói với A:
- Thôi rồi cái hĩm của em.
E nói với B:
- Bác Mao chỉ thích hĩm teen chị ạ.
B nói với E:
- Bác ấy tin vào thuật trường sinh.
D nói với A:
- Tôi cảm thấy tuyệt vọng.
A nói với D:
- Tôi không tin vào điều gì, sự diệt vong nếu có cũng sẽ là tất yếu khi mầm mống suy tàn mọc lên.
D nói với A:
- Suy tàn là vấn đề nội tại.

Bộ Giáo dục đã tự điều chỉnh dự án phổ cập tiếng Hoa thành môn tự chọn sau một ngày được công bố chính thức trên báo chí. H bảo: “Người Trung Quốc duy vật và thực dụng, vì thế Khổng Tử vẫn là người thày muôn đời của họ. Người Việt Nam theo chủ nghĩa cơ hội vì thế không có bản sắc và văn hoá luôn bị đứt quãng bởi những biến cố lịch sử.” H khác nói, “Và lịch sử để lại những khoảng trống chết người, vì thế tôi lo.” H bảo: “Chẳng có quái gì phải lo, lịch sử sẽ lại cho chúng ta một cơ hội khác để tiếp tục tồn tại.” H khác nói, “Tôi sợ rằng chúng ta không còn cơ may đó nữa.” H bảo, “Đã qua cái thời chỉ có cái loa trên ngọn cây hay cột điện và nghe đọc báo Đảng trong cơ quan đầu giờ làm việc.”

A nói với C:
- Tôi cam kết không vi phạm thuần phong mỹ tục.
D nói với A:
- Ông mắc cái chứng gì mà cam kết hoài vậy?
A nói với D:
- Đấy là hội chứng ung thư tiền liệt tuyến.
E nói với B:
- Hôm qua C tấn công em.
B nói với E:
- Nó làm gì em?
E nói với B:
- Nó dí cái ấy vào mặt em.
B nói với E:
- Nó bắt em bú à?
E nói với B:
- Đại khái vậy.
B nói với E:
- Sao em không cắn cho nó hết đường đái?
E nói với B:
- Làm sao em cắn được nó?
B nói với E:
- Ừ, mình chẳng làm gì được nó.
D nói với A:
- Cơ thể ông bị liệt kháng.
A nói với D:
- Hết thuốc chữa rồi.
D nói với A:
- Ông nên gặp các H.
A nói với D:
- Không. Đây là vấn đề nội tại.

Dường như thời kỳ hậu cách mạng xã hội chủ nghĩa này đang tạo ra một tầng lớp con người mới với tất cả mọi khí chất của giai cấp tiểu tư sản trí thức, đồng thời tạo ra một thứ giai cấp mới của các nhóm lợi ích. Trong khi tầng lớp trí thức mới vẫn còn đậm chất lãng mạn tiểu tư sản cũ với những lý tưởng mang tính cộng đồng và phản tỉnh về sự độc lập của mình, thì giai cấp mới của các nhóm lợi ích lại càng phản động hơn với chính ngọn cờ của bọn chúng. Bọn giai cấp mới này duy trì bảo vệ đặc quyền đặc lợi của chúng bất chấp nhân tính và quyền lợi dân tộc.
H khác bảo: “Cái bản chất vô tổ quốc và phi nhân tính của bọn chúng thì đã rõ rồi. Hãy để đấy. Điều tôi quan tâm bây giờ là đường đi của thế hệ tự thức. Họ không có gì ngoài một trái tim nóng và họ không ngừng bị khủng bố, bắt bớ.”
H nói: “Xem ra tiếng nói của các tổ chức nhân quyền và các chính phủ Tây phương không bằng cái bánh vẽ của con cháu Khổng Tử.”

B nhắn tin cho A:
- Haizza.
A nhắn lại cho B:
- Anh đã tiến gần tới ngôi mộ của mình rồi.
B nhắn cho A:
- Đừng tự kỷ như thế. Trong chúng ta đều có sẵn một ngôi mộ.
A nhắn cho B:
- Hơi bị sến.
B nhắn cho A:
- Không phải là anh đã nói đó là vấn đề nội tại?
A nhắn cho B:
- Tất nhiên. Nhưng anh cũng đang nhìn thấy nó ở phía trước.
D nhắn cho A:
- Tôi cũng đang nhìn thấy nó.
A nhắn cho D:
- Hùng vĩ và nhỏ nhoi.
D nhắn cho A:
- Tôi có cảm giác đó là bữa tiệc một mình. Thịnh soạn và lẻ loi.
E nói với B:
- Em không nhìn thấy gì cả.
B nói với E:
- Đó là sự thấu thị.
E nói với B:
- Ờ, mà thấu thị hay không thì đó cũng là điểm đến cuối cùng.
B nói với E:
- Chính vì thế mà chúng ta không cần phải bận tâm.
E nói với B:
- Ờ, vấn đề của chúng ta là làm sao ôm được nhau.
B nói với E:
- Cho đến khi tới chỗ đó.
E nói với B:
- Chị thật đáng yêu. Em yêu chị.
B nói với E:
- Chị cũng yêu em.

Khi người Trung Quốc phục hồi nhân phẩm cho Khổng Tử và tôn vinh các giá trị Nho giáo cũng có nghĩa họ cổ xuý cho niềm tự hào dân tộc và một trật tự xã hội theo đạo quân thần. Nó hoàn toàn phù hợp với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán và chế độ độc tài toàn trị đương thời. “Thế nhưng, hậu cách mạng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam có gì ngoài cái loè loẹt nhố nhăng của các lễ hội nhân danh truyền thống và sự mê tín tràn lan?” H khác đặt câu hỏi. H bảo: “Tư tưởng là hố thẳm. Không có tư tưởng cũng là hố thẳm.” H khác nói: “Những quả bom xăng hay đạn hoa cải không giải quyết được vấn đề.” H bảo: “Cuộc cách mạng hiện đại nằm trên không gian ảo. Không có học thuyết hay lãnh tụ, nó chỉ cần một mồi lửa.” H khác nói: “Tôi đồng ý với ông điều ấy có thể xảy ra. Nhưng nếu không có tư tưởng, sự việc sẽ rơi vào khủng hoảng.” H bảo: “Tư tưởng là xiềng xích như ông đã biết.” H khác nói: “Dù thế nào, người ta cũng cần niềm tin.” H bảo: “Điều cần nhất đối với toàn thể chúng ta là thái độ tự trọng. Đó là căn gốc cho mọi thay đổi và phát triển.”

D nói với A:
- Ông còn bay được không?
A nói với D:
- Tôi cũng không biết nữa.
D nói với A:
- Những đôi cánh đã rũ liệt trong khi cơn mưa đang tới.
B nói với A:
- Mấy anh làm văn chương tức cười quá.
A nói với B:
- Thực tế là chúng ta vẫn sống trong lồng.
B nói với A:
- Nhưng có nhất thiết phải như thế không?
E nói với B:
- Con chó của chị nó kêu be be...
B nói với E:
- Hình như đấy là văn chương.
E nói với B:
- Kịch bản của em phải thuyết phục được khách hàng.
B nói với E:
- Tất nhiên. Văn chương là tiền. Ngôn ngữ là đĩ điếm.
E nói với B:
- Nhưng em của chị là thiên thần.
D nói với C:
- Đừng tán tỉnh tôi.

Gặp lại T trong một quán nhậu ở Sài Gòn, H nói: “Đàn bà đã mở đường cho tôi đi. Và có thể là cả ông nữa.” T bảo: “Vì thế tôi đã luôn vẽ họ như một con mắt và thường để nó nằm dọc. Tôi luôn nghĩ đến một cái gì thấu suốt và tử nạn trong hình thức giống như bị treo.” H lại nói: “Đàn bà đã làm cho chúng ta tỉnh thức.” T bảo: “Đúng vậy, nếu không tôi đã chết chìm ở ngoài Bắc dạo ấy.” H khác nói: “Nhưng cuối cùng, chúng ta đều là những kẻ bị bỏ rơi.” T bảo: “Tất cả những gì tôi vẽ chỉ là hoài niệm.” H nói: “Tôi vẫn tiếp tục hướng về họ. Nguồn cứu rỗi duy nhất.” H khác nói: “Đàn bà đã chết.” H hỏi: “Vậy thì ông sống bằng cách nào?.” H khác nói: “Tôi sống bằng niềm tin. Đã qua cái thời tin vào người khác. Tôi chỉ tin vào chính mình.” H nói: “Dẫu sao, đó cũng là một cách khác của lòng tự trọng.” T nói: “Dường như bây giờ, ngay cả giới tạm gọi là trí thức cũng thiếu tự trọng?.” H bảo: “Đây là một vấn nạn văn hoá của thời đại.” H khác nói: “Gọi nó là sản phẩm của thời đại thì chính xác hơn.”

A nói với D:
- Tôi có một giấc mơ... tháo cũi sổ lồng.
D nói với A:
- Đó là ảo ảnh.
B nói với E:
- Cứ tin vào sự tốt lành của mình.
E nói với B:
- Chị luôn tin và yêu em đúng không?
B nói với E:
- Ừ. Chỉ còn em và chị...
A nói với D:
- Làm sao có thể sống được nếu chúng ta không được nuôi bằng những giấc mơ?

Một H khác nữa hỏi tôi: “Sao anh không viết về những buổi làm việc với công an?” Tôi cũng tự hỏi, mình có cần phải làm biên bản lại một lần nữa, sau cái biên bản của công an? Và tôi tìm được câu trả lời: Dù tôi viết kiểu gì, mỗi tác phẩm tự nó đã là một biên bản khác cho chế độ, cũng như cho chính mình.

22.3.2012





VÔ TẬN & VÔ ĐỘ

Sau các việc đó, Thiên Chúa thử lòng ông Áp-ra-ham. Người gọi ông: “Áp-ra-ham!” Ông thưa: “Dạ, con đây!” Người phán: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ác, hãy đi đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi mà ta sẽ chỉ cho.”
Sáng hôm sau, ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa bảo. Sang ngày thứ ba, ông Áp-ra-ham ngước mắt lên, thấy nơi đó ở đàng xa. Ông Áp-ra-ham bảo đầy tớ: “Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia; chúng tôi làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh.”
Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi. I-xa-ác thưa với cha là ông Áp-ra-ham: “Cha!” Ông Áp-ra-ham đáp: “Cha đây con!” Cậu nói: “Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu?” Ông Áp-ra-ham đáp: “Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ.” Rồi cả hai cùng đi.
Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói I-xa-ác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình.
Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông: “Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!” Ông thưa: “Dạ, con đây.” Người nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!” Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Áp-ra-ham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình...
(St 22, 1-13)

1.
Khi tính tiền, cô nói với chủ quán phở: “Cho tôi đặt một con gà cúng. Khoảng gần trưa mai đến lấy.”
Giỗ mẹ. Cô mời một người duy nhất là hắn đến phòng trọ. Sau khi cúng xong, họ xẻ thịt con gà và uống vài chai bia.
Cô kể, “ngày xưa mẹ em thích nhất gà luộc, nhưng bà không thích chấm muối tiêu chanh, mà thay vào đó là nước mắm với tiêu ớt, như thế này, cô chỉ tay vào chén mắm, hình như nó có vẻ Bắc hơn thì phải.” Hắn nói: “Anh cũng không chắc, nhưng anh cũng đã từng được một người bạn ở Hà Nội cho ăn gà luộc kiểu chấm nước mắm với tiêu này.”
Cô bảo: “Thịt hơi bị dai. Em thích mọi thứ phải được nấu chín. Thật chín.”
Hắn nói: “Anh lại thích ăn tái. Thậm chí tươi sống như kiểu người Nhật ăn sushi.” Cô nghĩ, cũng chẳng có gì trở ngại. Tuy nhiên, cô tiếp tục suy nghĩ, ở mình có cái gì giống như sự “nung nấu”, trong khi hắn chỉ là thứ “mì ăn liền”, hoặc “ăn xổi ở thì.” Quả thật, hắn là một thằng cơ hội và dường như việc “ăn tươi nuốt sống” các cô gái là tối thượng. Haizza, thế thì cô phải là cái tối hậu.
Cô bảo: “Em muốn nhìn thấy anh ngủ. Vì thế, lúc nào muốn ngủ cứ nằm xuống. Vô tư nhé.”
Hắn cười: “Anh cũng chỉ thích nằm.”
Cô hỏi: “Uống nữa không, em đi mua?”
Hắn nói: “Chắc cũng cần vài chai nữa để nằm xuống không thắc mắc.”
Cô qua hàng xóm nhặt thêm mấy chai bia. Cô muốn hắn say.
Rót bia cho hắn, cô bảo: “Nếu không muốn thắc mắc, em sẽ mua thêm cho anh mấy viên thuốc ngủ. Dám uống không?”
Hắn nói: “Không cần. Ngủ thì không bao giờ thắc mắc.”
Thật sự, cô muốn nhìn thấy hắn như một xác chết. Không biết gì.

2.
Chúng tôi đi theo dòng người vào trong Bảo tàng Hồ Chí Minh, đã có rất nhiều các cụ già đang chăm chú lần xem những tấm ảnh Bác Hồ. “Cứ nhìn thấy Bác là già lại rưng rưng xúc động,” cụ Thuận (nhà ở Quảng Ninh) tâm sự. Cụ Thuận đã hơn 70 tuổi. Quốc khánh năm nay, gia đình cụ thuê xe về thủ đô thăm Bác theo mong ước của cụ. “Bà tôi trằn trọc, dậy từ 3 giờ sáng, dù 5 giờ xe mới xuất phát. Bà bảo cứ nghĩ đến được thăm Lăng Bác Hồ là chỉ muốn dậy sớm để đi ngay,” chị Phương, cháu gái cụ Thuận đứng cạnh vui vẻ kể.
Không chỉ riêng cụ Thuận, mà những người từng được sống trong thời Bác còn sống, cho dù lúc ấy chỉ là một đứa trẻ, nhưng những tình cảm với Bác thì cứ được nuôi lớn dần theo năm tháng. Bác Thi, nhà ở Thường Xuân, Thanh Hoá, kể: “Hồi Bác mất, tui còn bé lắm chưa biết gì cả, nhưng thấy mọi người khóc dữ quá, thế là cứ khóc theo.” Còn bà Yên (Hạ Hoà, Phú Thọ) thì rưng rưng: “Hai lăm năm rồi, hôm nay mới lại về thăm Bác. Đến thấy Bác nằm, đi xung quanh Bác, mà nước mắt cứ tự nhiên chảy ra. Ngày Bác mất tôi vừa sinh đứa thứ 5, ở nhà trông con mà cứ vừa ru con vừa khóc. Chẳng hiểu sao con bé nhà tôi cũng cứ khóc mãi không thôi.”

3.
Rồi hắn cũng lăn đùng ra nền nhà ngủ, không hẳn vì say. Cô dọn dẹp cho sạch sẽ và nằm xuống cạnh hắn. Hơi thở hắn hôi nặng mùi bia. Cô lắng nghe thời gian. Cô không biết mình yêu sự tàn huỷ hay tiếc nuối những khoảnh khắc. Nhưng cô thích cái bất động. Nó cho phép cô làm chủ tình thế và cô nghĩ mình có thể thoả mãn đến sâu thẳm cái khát khao thầm kín của mình.
Cô nghiêng người ôm lấy hắn. Người hắn ấm và rất nồng. Cô hít hà trên cổ hắn. Hắn hơi ngọ nguậy. Cô bảo: “Ngủ đi” trong lúc cô vẫn ôm và ngửi mùi thân thể hắn. Nhưng hắn không phải là một xác chết.

4.
“Ngày 3/2/2003, khi đang làm ăn ở Tây Nguyên, nhận được tin vợ mất, tui tức tốc về để lo chôn cất vợ. Hồi mới chôn vợ xong, đêm mô tui cũng lên mộ của bả để ngủ. Gần 20 tháng sau ngày bả mất, ngủ trên mộ sợ gió, mưa, sương lạnh nên tui quyết định đào một đường hầm vào sâu huyệt mộ để ngủ cùng bả. Nhưng mấy đứa con phát hiện và không cho tui lên mộ bả nữa.
Dù mấy đứa con tui cấm, nhưng giữa khuya là tui lên mộ của bả để ngủ, sáng ra tui về sớm. Thấy sống với bả như vậy khổ quá, vào khuya ngày 16/11/2004, một mình tui lên mộ và quyết định đào mộ để đưa xác bả đưa về nhà cho tiện, cho ấm cúng.
Tui đào từ 22 giờ đêm đến 3 giờ sáng, cuối cùng tui cũng đưa được quan tài lên ngang mặt đất. Tôi phủ đất lấp lại để chờ có điều kiện là đưa xác bả về nhà. Vợ mình thì có gì mà sợ?...”
Hơn 4 tháng sau kể từ ngày đưa được quan tài của vợ lên, ông Vân đã tìm mua thạch cao và tìm đất sét về nặn tượng vợ cất trong nhà.
Ông bảo: “Tui nặn kỳ công lắm, hơn 1 tháng mới hoàn thành. Bức tượng có chiều cao bằng vợ tui lúc sống. Khi làm xong tượng, một mình tui giữa khuya âm thầm đào mộ vợ lên, bốc toàn bộ hài cốt đem về bỏ vô bức tượng. Sau đó tui bận quần áo và để nằm trên giường. Từ đó đến nay, tôi ôm tượng vợ ngủ ngon lành... Đã 5 năm trôi qua rồi.”

5.
Đóng vai một người đi tìm xác thân nhân, cô gặp hắn trong nhà xác bệnh viện X. Rồi đóng vai một người yêu tận tụy, cô thường tìm cách ở lại rất khuya với hắn khi hắn trực đêm. Có khi cô ở nhà xác với hắn đến hết ca trực.
Cô thường tự nguyện thay hắn kéo hộc tủ cho thân nhân người chết nhìn mặt, để mặc cho hắn lén lút nốc rượu đế một mình.
Người ta thấy cô thân thiện và dễ thương. Còn cô lại thấy những xác chết mới đáng yêu làm sao. Nín lặng và không xoi mói. Chúng không có khả năng phản kháng lại bất kỳ một hành động nào của cô. Đấy là vẻ đẹp cô mong muốn.
Trước khi đẩy ngăn tủ vào trong, bao giờ cô cũng tìm cách vuốt tay trên mặt người chết với lời thầm thì “ngủ ngon.”
Thường thì hắn đóng cửa nhà xác sau 12 giờ đêm. Một lần, cô nói với hắn: “Cho em ngủ lại nhé.” Hắn bảo: “Không, về đi. Anh lên văn phòng ngủ.”
Nhưng rồi cô cũng lấy được chìa khoá của hắn. Cô vào nhà xác một mình.
Cô nhìn tất cả 5 cái xác, hầu hết đều bị bầm dập vì tai nạn giao thông. Một cô gái khuôn mặt còn nguyên vẹn và đầy thảng thốt làm cô chú ý. Những gã trai còn lại không hấp dẫn cô.
Khi cô vừa cúi xuống hôn khuôn mặt cô gái vẫn còn đang thảng thốt đó, hắn xuất hiện. Túm tóc cô kéo lên, hắn tát thẳng vào mặt cô.

6.
Hắn đã thật sự ngủ. Với hai viên Valium, ít nhất hắn cũng sẽ ngủ hai ngày, cô đoán thế. Rồi cô cởi quần áo hắn.
Liếm láp người hắn, cô vừa cảm thấy mình như nô tì phục vụ hắn, vừa làm chủ thân xác hắn. Tuy nhiên, việc cô thích nhất vẫn là ngồi trên người hắn, lắc mông đến vô tận.

7.
Hãm hiếp sự liệt kháng cho phép cô bộc lộ cái bản thể mù mờ của mình, đồng thời mang đến cho cô niềm thống khoái tột cùng của những hành vi bị kìm nén. Như một chủ thể tự do, đấy là tất cả trải nghiệm của cô. Và cô nghĩ, mình vẫn còn thời gian để chơi cho đến cạn linh hồn, cho dù cách chơi của cô cũng không khác gì thủ dâm. Vô độ.

16.4.2012





NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT TRƯỚC KHI MANG BẦU

Không thể chịu đựng nổi cái tình trạng phẳng lì khô khốc, hắn muốn thoát ra bằng cách nhảy từ ban-công tầng bảy xuống bãi cỏ bên dưới. Hắn không nghĩ rằng bãi cỏ mượt sẽ làm hắn thoải mái hơn hay bớt tẻ nhạt hơn, mà đơn giản chỉ vì hắn muốn thay đổi. Kiểu gì cũng được, miễn là khác đi. Hắn chán cái việc phải đi làm mỗi ngày. Chán những bữa cơm trưa. Chán những buổi cà phê sáng. Chán những chầu nhậu. Chán phải nói năng. Chán phải có thái độ. Chán những viên thuốc hạ huyết áp và tăng tuần hoàn não. Chán bọn trơ tráo. Chán bọn ồn ào. Chán bọn trình diễn. Chán màu mè. Chán hiện tại và chán cả tương lai. Chán muốn nôn mửa.

L nói với hắn: “Em muốn xuống nghĩa trang quân đội cũ.”
Hắn hỏi: “Em cũng muốn làm tử sĩ à?”
L nói: “Không. Có cái gì đó thôi thúc em phải xuống đó. Anh biết nghĩa trang quân đội cũ không?”
Hắn bảo: “Biết. Ngày xưa đi trên xa lộ Hà Nội có thể nhìn thấy nó. Gần ngã ba Tân Vạn.”
L hỏi: “Anh dẫn em xuống đó được không?”
Hắn nói: “Được.”
L bảo: “Vậy khoảng 7 giờ sáng mai. Anh đón em ở chùa Từ Phước nhé.”
Hắn hỏi: “Em làm gì ở chùa Từ Phước?”
L nói: “Tụng kinh.”

Hắn nghĩ, L đã đi xuyên qua thế giới.

Bây giờ, đi trên xa lộ Hà Nội chỉ nhìn thấy nghĩa trang liệt sĩ của chế độ đương thời.
Xa khuất về phía bên kia đường là nghĩa trang quân đội chế độ cũ, có lẽ đây là nghĩa trang quân đội duy nhất còn lại của một chế độ đã bị xoá sổ.
Không còn nhìn thấy tượng chiến sĩ vô danh ngồi an nghỉ bên đường, toàn bộ khuôn viên rộng lớn và hoàn chỉnh của nghĩa trang này đã bị chia cắt và lấn chiếm xây dựng các công trình quân sự lẫn dân sự khác. Phong thuỷ địa lý hình thế con ong của nghĩa trang bị phá vỡ.
Phần còn lại của nghĩa trang là những ngôi mộ hoang tàn được cư dân địa phương tự nguyện chăm sóc, ngoài một số ít được thân nhân thuê trông coi, nhang khói.

L mua một bó hoa, ít bánh và hai bó nhang lớn.
Hắn phải đoán chừng mới tìm được đường vào nghĩa trang vì những dấu vết oai hùng và tôn nghiêm cũ đã bị huỷ hoại.
Một anh bảo vệ của một xưởng sản xuất gần đó nhận biết họ muốn gì. Anh ta vẫy họ lại và chỉ lối vào Đền Tử sĩ. Giống như một cái miếu hoang, cây cỏ mọc um tùm che kín phía trước. Họ phải leo lên các bậc cấp phía sau, nơi có một số thanh niên đang đốt rác. Những người này chỉ họ chỗ để cúng và họ nói theo “nhớ cúng gà.”
L nói: “Đất nước khốn nạn vì những linh hồn không được siêu thoát.”
L bày ít bánh lên cái dĩa. Cắm hoa vào bình. Và thắp nhang. Hắn không biết L khấn vái như thế nào. Nhưng hắn biết cô thành kính.
Hắn ra ngoài nhìn quanh.
U uất. Hắn nghĩ, L bước vào cõi oan khiên.
Cúng xong, họ quay trở lại chỗ gởi xe và hỏi người bảo vệ khu nghĩa trang ở đâu. Anh ta chỉ đường.

Hắn chạy xe qua cổng “Nghĩa trang Bình An.” Những người bảo vệ nghĩa trang chặn lại, hỏi: “Đi đâu?”
Hắn đáp: “Đi thăm mộ.”
Hỏi: “Mộ ai?”
Đáp: “Tất cả các mộ.”
Bảo vệ: “Vô văn phòng khai tên tuổi, địa chỉ.”
Hắn kiếm chỗ dựng xe. L vào văn phòng, cô ghi vào sổ: “Trần Thị Mít. Địa chỉ: số 1 Lê Duẩn. Tp. HCM.”
Hắn hỏi: “Chạy xe vào trong được không?”
Bảo vệ: “Được.”
L leo lên xe, hắn từ từ chạy vào khu vực trung tâm. Một bảo vệ chạy theo, bảo cấm chụp hình, quay phim. Sau đó anh ta quay lại.
Cây kiếm thiêng của Nghĩa Dũng đài đã mất ngọn. L đứng vái ba lần.
Một cậu bé đi tới tỏ ý muốn hướng dẫn họ tham quan. Họ đến bàn thờ cúng ở khu dành cho binh lính. L đốt tất cả số nhang mang theo, rồi họ cùng cắm từng cây nhang dưới chân mỗi ngôi mộ.
L hỏi cậu bé: “Ai trồng những cây tràm này?.”
Cậu bé nói: “Bộ đội.”

L đi sâu xuống từng nấm mộ.
Rễ cây tràm đâm xuyên qua những xác chết và trói chặt các linh hồn. Thân xác thì đau đớn. Linh hồn thì ngục tù.

Cậu bé dẫn họ lại khu mộ mấy ông tướng và mộ của người đã làm mẫu cho bức tượng chiến sĩ vô danh. Một người bảo vệ nghĩa trang lượn xe gần chỗ họ. Cậu bé bảo nếu muốn chụp hình thì cậu trông chừng cho.

L đã bay lên ngọn cây.
Cô nhìn thấy một đám đông đi vào nghĩa trang. Họ mang theo hoa và những bịch cháo. Trong một thoáng rất nhanh, trên mỗi ngôi mộ đều có một bông hoa và một bịch cháo.
Cô nói: “Hãy an nghỉ.”
Trong lúc đó, hắn nghe được tiếng hát như lời sông núi và đám đông biến mất. Cùng lúc hắn thấy nhiều người “bảo vệ” xuất hiện.

L về chùa.
Cô lấy cái dùi gõ mõ gõ vào đầu gối Phật, nói: “Ngồi mãi không chán à?.” Phật im lặng. Ông ‘Thày dùi’, L gọi thế vì ông lúc nào cũng cầm cái dùi, đang đứng gần đó nghe thấy, nói: “Thày thì rất chán, nên lúc nào cũng phải tập cái đầu gối.” L bảo: “Đừng xưng Thày với tôi. Tôi là con Phật, nhưng không phải đệ tử ông.” Ông ‘Thày dùi’ nói: “Cũng chẳng sao. Cái áo không làm nên thày tu.” L đáp: “Đúng vậy. Ông mặc cà sa nhưng không phải thày tu.” Ông ‘Thày dùi’ bảo: “Lại càng đúng. Tu tại tâm mà.” L nói: “Ông trơ tráo không khác gì đồng bọn.” Ông ‘Thày dùi’ cười đểu: “Cô nói đồng bọn nào?” L bảo: “Đồng bọn nào thì ông tự biết.”

Sư phụ của L đã già. Không biết có phải là chân tu hay không, nhưng cụ phó mặc mọi sự cho ông ‘Thày dùi’ khi ông thày giả hiệu này được điều từ ở đâu đó về trụ trì và đòi quyền điều hành.
Sư phụ dạy L về khí công. Cô không mưu cầu sự giải thoát mà chỉ muốn thân xác được khoẻ mạnh và tĩnh tại tinh thần. Tuy nhiên, sư phụ thường bắt L phải tụng kinh trong tư thế kiết già mỗi sáng một tiếng đồng hồ. Cụ muốn đưa L lên một cảnh giới cao hơn.

Ông ‘Thày dùi’ cũng tụng kinh sáng chiều, nhưng ông thích uống rượu. Và ông thường uống rượu trong phòng riêng với một số thiện nam, tín nữ.

Bạn hắn bảo: “Những người tu hành thường có nội lực rất mạnh. Đàn bà mê lắm. Cái sức mạnh được coi là ‘siêu nhiên’ và ‘tinh tuyền’ đó dễ dàng đưa tâm tình hiến dâng của các bà tới cõi cực lạc.”
Hắn nghĩ, sự hàm dưỡng nào cũng tốt.
Bạn hắn nói: “Hồi trước 1975, tôi đã từng ở trong chùa 3 năm, khi có nguy cơ bị lộ tông tích.”
Hắn nói: “Có nghĩa là ông cũng từng là một nhà tu giả hiệu?”
Bạn hắn bảo: “Không. Tôi ở trong chùa, nhưng rất ghét sư sãi. Vì thế, tôi không phải là một nhà tu giả hiệu.”
Hắn hỏi: “Ông ăn cơm chay, có tinh tiến không?”
Bạn hắn nói: “Tôi chay mà không tịnh, nên có cái tinh tiến, có cái giật lùi. Tuy nhiên, tôi có một kinh nghiệm là cái gì được tập trung cao cũng tạo nên một sức mạnh đáng kể.”
Hắn hỏi: “Theo ông, cái gì bây giờ cần được tập trung nhất?”
Bạn hắn nói: “Về phương diện cá nhân, tôi muốn tập trung vào cái chết.”
Hắn lại hỏi: “Thế còn không phải cá nhân?”
Bạn hắn nói: “Cũng thế thôi. Khi bạn muốn thay đổi, cần phải có cái gì đó chết đi.”
Hắn hỏi lại: “Cái gì phải chết đi?”
Bạn hắn nói: “Một trở lực nào đó.”
Hắn bảo: “Chán nhất là cứ phải nói vòng vo.”
Bạn hắn cười: “Ông không biết là bọn cựu trào chúng tôi lúc này đang được chăm sóc kỹ à?”
Hắn nói: “Tôi không rõ lắm. Nhưng tôi nghĩ chính các ông phải là những người đầu tiên phản tỉnh. Các ông không thể nhắm mắt mãi. Không thể ngậm miệng ăn tiền mãi.”
Bạn hắn cười: “Dường như sự chai lì của cuộc sống đã làm cho người ta không còn bận tâm đến việc mình còn có lương tri hay không. Xét cho cùng cũng là vì hèn. Cũng đành phải nói theo kiểu AQ Nguyễn Tuân, nhờ hèn mới sống được. Trong khi tất cả chúng ta đều tỉnh, từ thằng dân đen đến thằng cai trị. Chỉ vì tham thành ra ác. Cũng vì tham mà bọn cai trị sẽ không bao giờ thay đổi thể chế. Độc tài là thành trì vững chắc của đặc quyền và đặc lợi. Vì thế, quyền lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng sẽ vẫn cứ muôn năm. Trừ ra, khi những áp lực xã hội đủ mạnh để nó tự diễn biến.”
Hắn nói: “Tôi nghĩ đã đến lúc Tiếng hát những người đi tới [*] phải biến thành tiếng khóc của sự sám hối. Nếu cả đến sự sám hối cũng không thể được bày tỏ, vì bất cứ lý do gì, thì đấy là sự mạt vận.”
Bạn hắn hỏi: “Ông có biết vụ anh em cựu trào vừa rồi có dự định tổ chức một cuộc họp mặt không?”
Hắn nói: “Tôi có nghe loáng thoáng mấy ông định tổ chức ở Sài Gòn, nhưng không được, rồi phải mang ra Đà Nẵng, cũng không biết có thành không?”
Bạn hắn bảo: “Đảng sợ tất cả mọi cuộc tụ tập biểu hiện những khuynh hướng tự do. Cái vòng kim cô đang siết lại. Một loạt các hoạt động tư tưởng văn hoá độc lập vừa rồi đã bị cấm...”
Hắn nói: “Đến mấy thằng ‘No U’ tụ tập đi đá bóng cũng bị làm khó dễ, thì những người tự cho rằng mình là ‘những người đi tới’ nên tự đâm đầu xuống lỗ.”
Bạn hắn cười: “Thì tôi đã tự chôn mình rồi đó thôi.”

L đang ngồi dưới chân tượng Phật. Cô sợ sự vọng động của mình. Nhưng cô không sợ những bóng ma lảng vảng.
Ông ‘Thày dùi’ ngồi xuống cạnh cô. Ông cầm dùi gõ vào chiếc mõ và nói: “Cô ngồi mãi mà không mỏi chân à?.” Cô nói: “Tôi chỉ mỏi đít thôi.” Ông ‘Thày dùi’ bảo: “Vào phòng tôi, đít cô sẽ bay bổng.”

L nghĩ, cô cần đi tìm hắn.
Hắn nghĩ, đít bay bổng hay đầu bay bổng cũng không khác nhau mấy.

11.5.2012

[*]“Tiếng hát những người đi tới”, tuyển tập “giới thiệu các hoạt động đấu tranh của phong trào sinh viên học sinh thời chống Mỹ của thành phố Hồ Chí Minh cùng một số tỉnh thành ở miền Nam.” NXB Trẻ, 1990.






BỮA ĂN TỐI
Và linh hồn tôi là những bước chân
Cô nói ngón út của anh khi cầm đũa lúc nào cũng chĩa ra như thể ngăn cản người khác cùng ăn với mình. Nhưng em lại có cảm giác ngón út của anh thừa, bởi vì anh không bao giờ dùng nó trong việc gõ bàn phím. Đồng thời em lại có một cảm giác khác nữa là nó rất ngon. Em muốn cắn nó.
Anh bỏ đôi đũa xuống bàn. Rồi đưa ngón tay út vào miệng cô. Cho em đó, anh nói.
Đầu tiên cô dùng những chiếc răng cửa cắn nhè nhẹ. Cô nói, em thật sự muốn ăn nó.
Anh bảo, tuỳ em. Anh đã cho em rồi.
Cô giữ bàn tay anh và đưa ngón út phải vào giữa những chiếc răng hàm. Hai hàm răng cô từ từ cắn khít lại. Máu tứa ra. Không một tiếng kêu. Cô bắt đầu nhai. Từng đốt một.
Hết ngón tay út. Có một chút máu tràn ra mép cô. Cô hỏi, em xinh không?
Rất xinh, anh nói.
Ở phía cuối phòng, cô gái chơi dương cầm dập xuống cả mười ngón một hợp âm trầm.
Cô nói, em chưa hết thèm.
Anh đưa ngón tay út còn lại vào miệng cô.
Bây giờ thì cô không cần phải thử sức chịu đựng của anh nữa. Cô nhai rất nhanh như ăn một cái bánh quế.
Cả hai bàn tay anh chỉ còn bốn ngón. Anh bảo, như vầy cũng đủ xài. Lái xe, cầm đũa hay gõ chữ.
Nhưng em muốn ăn hết bàn tay anh thì sao? Cô hỏi.
Thì anh sẽ chiều em. Anh nói. Rồi anh đưa bàn tay trái về phía cô. Cô không nhai từng đốt mà từng ngón một nát nhanh trong miệng cô.
Khi anh chàng nhạc sĩ chơi vĩ cầm nhấc cây vĩ ra khỏi mặt đàn thì cả hai bàn tay anh đều cụt hết các ngón. Cô bảo, nhìn bàn tay anh giống như một rừng thu trụi lá. Nhưng mạnh mẽ như bàn tay gấu.
Anh nói, bàn tay này chỉ còn có thể vả hoặc tát vào một ai đó và nó không thể bấu víu vào bất cứ cái gì.
Cô bảo, có khi như thế lại tốt cho anh hơn.
Anh nói, cũng có thể.
Cô nhìn anh và đặt câu hỏi, không biết ngón chân anh có ngon hơn không?
Anh cũng không biết nữa, nhưng chắc chắn có mùi hôi của giày vớ. Anh bảo.
Cô nói, chắc nó cũng không hôi hơn mùi thịt dê hay thịt chó.
Anh bảo, nếu muốn thì cứ thử xem. Nói xong anh lột giày ra khỏi chân và đặt bàn chân anh lên đùi cô.
Cô bóp nhẹ bàn chân đó và nói, em không muốn gây sự chú ý của mọi người.
Anh bảo, thế giới này chẳng có gì quan trọng, cứ làm những gì em muốn.
Thế là, cứ mỗi lần nhấc chân anh lên, cô cắn đứt một ngón và đặt chân anh xuống đùi trở lại, rồi cô nhai từ từ thẩm thấu cái mùi vị của nó. Cô bảo, rất đặc trưng.
Anh hỏi, đặc trưng là sao?
Cô bảo, hình như mùi này là dân tộc tính.
Anh cười, dân tộc tính gì mấy cái ngón chân.
Cô bảo, em không đùa đâu. Nó giống như có linh hồn và cái mùi của nó kỳ dị lắm. Chắc chắn không phải mùi hôi của giày vớ.
Anh nói, có thể vì những ngón chân của anh luôn bấu vào đất.
Ok, em nghĩ ra rồi, cô nói, linh hồn của chúng ta nằm trong các ngón chân. Vì thế em luôn muốn ra đi và mang theo các ngón chân của anh.
Anh lại cười, câu này nên để dành cho nghệ sĩ các loại của chúng ta.
Cô bảo, anh không yêu em. Tại sao anh lại để linh hồn anh bay mất?
Anh nói, anh không chắc mình có linh hồn. Nhưng giống như một cái cây, anh có cảm giác rõ rệt là đã bị chặt mất hết rễ.
Cô bảo, chính vì không còn gốc rễ, linh hồn anh đã bay đi. Anh chỉ yêu em bằng thể xác.
Anh hỏi, vậy thì chính xác, các ngón chân mùi gì?
Cô bảo, đó là sự vô hồn.
Anh nói, như thế anh không còn thể bám vào đất. Anh sẽ bám vào em.
Cô bảo, không được. Làm sao em lấy chồng?
Ừ nhỉ, anh nói, con gái lấy chồng là hết chuyện.
Tưởng vậy thôi, cô nói, nhưng em không lấy chồng. Em muốn ăn thịt anh cho đến hết.
Anh vẫn điềm đạm, em cứ ăn đi.
Cô tiếp tục cắn bàn chân của anh. Càng lúc khuôn mặt của cô càng trở nên hồng hào rực rỡ hơn.
Vì bàn chân anh to nên khi cô ngoạm từng miếng, bàn chân trông giống như một miếng bánh nham nhở. Cô dùng lưỡi liếm cho máu khỏi chảy xuống đất.
Anh hỏi, có ngon hơn không?
Cô gật đầu. Nó là cái để con người đứng vững, vì thế thịt nó chắc, vả lại nó nằm gần linh hồn nên cũng có nhiều khí chất. Cô sửa lại, ý em nói là dưỡng chất ấy.
Anh nói, có thể sau khi hai bàn chân anh không còn thì anh cũng sẽ mất hết bản sắc.
Cô bảo, bản sắc chỉ là cái mùi hôi của đất. Em sẽ ăn cái phần ngon nhất sau cùng.
Anh hỏi, em nghĩ cái phần ngon nhất sẽ nằm ở đâu?
Cô hỏi lại, theo anh thì nó nằm ở đâu?
Anh cười, có thể là cái người ta gọi là “của quí” hay trái tim.
Cô nói, sến - em không nghĩ vậy. Em sẽ ăn đôi mắt của anh sau cùng. Đó cũng là cái cuối cùng để anh thấy việc em đang làm.
Anh bảo, anh sợ rằng đến lúc đó em đã quá no, không thể ăn được nữa.
Thì anh sẽ có cơ hội được thấy em lâu hơn. Cô nói.
Anh bảo, “thấy” là một khái niệm triết học. Và trong phạm trù đó, anh không biết anh đã “thấy” hay không.
Đừng quan trọng việc đó. Nó không làm cho anh được cứu rỗi hay giác ngộ. Cô nói.
Cô nhạc sĩ chơi dương cầm và anh chơi violon đang song tấu tác phẩm ”Hòn vọng phu” của Lê Thương. Mùi trận mạc đã lan đến hai bắp chân của anh.
Khúc xương dài của ống chân khiến cho cô buộc phải gặm thịt anh một cách khác. Cô nói, khúc xương này cứng không thể nhai được.
Như vậy sẽ có một nguy cơ sau bữa ăn, những khúc xương thừa của anh sẽ bị vất cho chó, hoặc quăng vào thùng rác.
Anh xoay ghế ngồi để cô có thể ôm ngang chân anh đưa lên miệng. Từ vị thế đối diện, bây giờ anh đã sát lại gần cô hơn và hoàn toàn có thể quàng tay qua vai cô. Nhưng thay vì thế, anh dùng bàn tay của mình như một tấm gương soi và nhìn vào đó. Những đường chỉ tay hằn rõ. Anh không tin số phận. Nhưng anh lại tin có sự tác động không thể giải thích từ bên ngoài vào các quyết định hay kết quả của con người. Vì thế anh không biện giải cho sự hiến tế của mình cho cô, trong bữa ăn tối này.
Cô nói, em phải bẻ chân anh ra từng khúc cho dễ ăn.
Anh gật đầu.
Cô dùng một tay giữ đầu gối, tay kia cô nắm cổ chân anh giật ngược lên. Khúc chân rời khỏi thân thể. Cô bảo, ít ra nhìn vào trông cũng dễ coi hơn. Tuy nhiên, chỉ sau một lần gặm, cô lại nói, một khúc thịt rời của anh có thể gây ra cảm giác lẫn lộn với thịt heo hay thịt bò. Vì thế, cô bỏ khúc chân đang ăn dở xuống bàn và tiếp tục ăn theo cách cũ. Cô nói, em luôn muốn biết chắc nó là của anh. Vả lại, em thích nhìn thấy máu anh tứa ra.
Anh bảo, anh thích nhìn thấy em sung sướng.
Ăn đến khúc thịt bẹn, cô nói, thịt ở đây mềm và thơm.
Anh chỉ cười nghĩ đến lúc cái “pín” của mình nằm trong miệng cô. Nhưng anh không thể tưởng tượng được, ngay cả khi cái “pín” đã được nhai nát và nuốt hẳn vào trong bụng cô, anh vẫn còn cảm giác về nó. Khởi đầu là một cảm giác cực sướng đi sâu vào từng tận tế bào, tuy rất đau, nhưng liền sau đó là một nỗi mất mát sâu thẳm từ bản thể. Nó biến anh thành một vật thể không xác định.
Quả thật, cô cũng nhận thấy thịt anh trở nên nhạt nhẽo. Cô nói, em không muốn ăn nữa.
Anh cảm thấy có một điều gì đó tương hợp và mỹ mãn như một nhạc kịch khi hai tay nhạc công cũng vừa kết thúc tác phẩm “Serenade” của Schubert .

25.9.2010





NGHỆ THUẬT SẮP ĐẶT
Tặng Trần Lương
Triển lãm được đặt tên “Từ trong ra ngoài” do một nhà văn thực hiện. Ý tưởng này đến từ một cuộc tiếp xúc giữa ông nhà văn và một curator chuyên nghiệp về nghệ thuật thị giác. Ông nhà văn muốn “đôi khi cũng cần nói bằng một thứ ngôn ngữ khác”. Và ông curator cho rằng việc một ông nhà văn làm nghệ thuật sắp đặt cũng chẳng phải mới mẻ gì, tuy nhiên việc “đá lộn sân” có thể tạo ra những bất ngờ thú vị, vả lại cũng chả ai cấm. Vấn đề ông curator quan tâm là một ông nhà văn có thể do những thói quen nghề nghiệp của mình sẽ phải vượt qua “sự kể lể” như thế nào. Liệu ông nhà văn có thoát được cái tư duy ngôn ngữ để nhảy vào cái tư duy thị giác hay không. Ông nhà văn bảo, thật ra biên giới giữa các thể loại nghệ thuật đã đang được xoá nhoà và dẫu sao thì không thể nói điều gì trước khi tác phẩm được tương tác với người thưởng ngoạn của nó. Cuối cùng ông nhà văn nói “Có hai vấn đề mà tôi cho rằng bất cứ loại hình nghệ thuật nào cũng phải đối mặt. Một là cách tác giả kể câu chuyện của mình. Hai là bản thân tác phẩm hay chất liệu nghệ thuật có tự nói được tiếng nói của nó hay không, sau khi tác giả đã đi ra khỏi nó”. Về cái điều thứ hai này, ông curator nói “vâng, cái còn lại là vật thụ tạo phải sống được đời sống của nó sau khi Thượng đế đã chết”. Ông nhà văn nói thêm “nhất thiết Thượng đế phải chết và chính tôi sẽ giết ông ta”. Ông curator cười, “chỉ khi nào chúng ta ý thức được tính phù du của nghệ thuật hay cuộc đời, chúng ta mới có thể chơi cái trò chơi hủy diệt này”. Ông nhà văn bảo, “thật ra tôi chỉ muốn đái vào mọi thứ”.
Thì cứ xem ông ta đái thế nào.

Phòng triển lãm.
Ô giữa là một sảnh vuông màu đen trống trải dành làm điểm trung gian cho 4 ô còn lại ở 4 góc. Đây là chỗ người thưởng ngoạn phải bước vào đầu tiên, cũng là chỗ cửa ra sau cùng.

Ô màu đỏ: Một kẻ vô gia cư đang nướng một con thỏ.
Tôi không phải là kẻ hồng hoang như bạn thấy. Tôi cũng không nhớ từ bao giờ tôi trở thành một kẻ không nhà như thế này. Bạn bảo tôi là một kẻ bị lưu đày ư? Thật ra, tôi chỉ là một thằng chồng khốn kiếp bị một con vợ khốn nạn tống ra khỏi nhà. Nó bảo tôi là một thằng điên, một người ngoài hành tinh, một kẻ vô trách nhiệm, một đứa lắm mồm. Sự thật thế nào? Bố khỉ, tôi là một nghệ sĩ của cái gọi là nghệ thuật thị giác. Mà cái thứ này có bán được không? Cả cái thân trai đẹp đẽ này cho không cũng chẳng có con mẹ nào muốn ôm vào, huống gì phải bỏ tiền ra mua. Hoạ chăng có con nào hứng tình muốn xài đỡ một đêm hoặc một con điên say mê nghệ thuật nào đó đem tôi về trưng trên bệ như tượng một David. Hà... hà… Tôi là một David. Nghe cũng được đấy. Nhưng David thì cũng cần có cái bỏ vào mồm. Làm nghệ thuật thì cũng phải ăn như mọi con người. Chẳng những thế, cái thằng nghệ thuật lại còn muốn có bia rượu cà phê thuốc lá và mọi thú vui trên đời. Ăn thịt thỏ mà không có rượu vang và mấy điếu thuốc tráng miệng thì có gì vô duyên bằng. Hãy ném cho tôi chai rượu và mấy điếu thuốc đi các bạn. Các bạn sẽ có dịp suy tư về cuộc sống này. Hay là các bạn bước vào cùng nhậu chung với tôi. Không phải tất cả chúng ta là một giuộc hay sao? Chúng ta thích màu mè và sành điệu. Chúng ta thích được nổi tiếng và ngưỡng mộ từ đám đông. Chúng ta thích quyền lực và tự do. Chúng ta thích mọi thứ không tốn tiền như bọn cộng sản mơ ước. Nhưng chúng ta cũng thích sự hoang dã của thú rừng. Tôi bảo các bạn và tôi cũng một giuộc, đúng không? Bạn hãy nếm thử miếng thịt này đi. Vui mà. Được lúc nào hay lúc ấy, chẳng cần đến một vài trống canh đâu. Mà chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài đấy. Có tâm là được rồi, cần đếch gì tài. Thế giới hoà bình mới là điều chúng ta mong ước phải không nào? Hãy cầm lấy một miếng và hỏi thằng curator rượu ở đâu. Nó là thằng đầu nậu đi xin tài trợ đấy. Nhưng nó không đến nỗi phải xin đểu như thằng bắc hàn mang bom hạt nhân ra doạ đâu. Nó chỉ thuyết phục người ta rằng cái này có ý nghĩa, cái kia có tầm, cái nọ là nghệ thuật đích thực. Nhưng tôi nói thật nhé, chẳng có cái mẹ gì là đích thực. Người ta chỉ lừa đảo lẫn nhau. Thượng đế có đích thực không? Hoà bình có đích thực không? Đảng cộng sản có đích thực không? Curator cũng chỉ là thằng buôn thần bán thánh. Lẽ ra nó nên được bầu làm tổng bí thư hay chủ tịch nước. Sao, các bạn sợ? Nói động đến đảng cộng sản à? Các bạn không dám nghe nữa? Sợ thì thôi. Tớ ăn một mình vậy.

Ô màu xanh: Một chai nước biển nhỏ giọt đều đặn trên một cuốn sách.
Một quyển sách có cần phải cấp cứu như một bệnh nhân không? Tôi hoàn toàn phản đối cách hành xử của ông nhà văn với chính tác phẩm của mình. Một quyển sách dù dở hay tệ đến đâu vẫn là một quyển sách và có vị trí của nó trong thế giới sách. Có thể ông nhà văn cho rằng văn chương bây giờ cũng là một thứ bệnh hoạn chăng? Quyển sách thì có tội tình gì ngoài sự hiện hữu như một văn bản? Bệnh hoạn hay không là ở ông tác giả chứ không phải quyển sách, tại sao ông ta không đi chữa bệnh hay vào nhà thương điên mà lại là tôi? Cứ cái đà này, chẳng mấy chốc tôi sẽ bị rã ra. Ông nhà văn muốn mượn tôi để tuyên ngôn? Hay ông ta tưởng tôi cũng có thể triết lý? Thật khôi hài, bọn nghệ sĩ các kiểu lúc nào cũng làm ra vẻ. Cứ như là họ có thể cứu rỗi thế gian. Tôi luôn cho rằng chính họ là một thứ ung nhọt của xã hội loài người. Một xã hội không có các đấng văn nghệ có phải giản dị hơn không? Một quyển sách chỉ nên là một cái thực đơn cho hôm nay hoặc những lời cầu kinh cho đời sau. Tất cả những gì khác cần phải vất vào sọt rác. Quả thật, nếu có thể nổi loạn thì chính những quyển sách phải cuồng nộ chứ không phải ông nhà văn, cho dù ông nhà văn muốn biện giải rằng chính ông ta mới là người làm ra quyển sách. Có một điều hết sức quan trọng rằng, ông nhà văn luôn luôn quên tôi chẳng bao giờ muốn có mặt trên cõi đời này. Ông ta tưởng tôi có thể tải đạo à? Vớ vẩn. Bọn nhà văn hay nghệ sĩ các kiểu lúc nào cũng tự huyễn. Bọn họ luôn cho rằng thông qua các tác phẩm, họ có thể trường cửu. Họ biết gì về thời gian? Có ai trong các bạn đã đến đây muốn đặt câu hỏi với tôi không? Mà thôi, tôi cũng chỉ là đồ ngốc.

Ô màu vàng: Một laptop với một bản thảo dang dở trên màn hình có tựa đề: “Từ trong ra ngoài”, một máy in, một máy chiếu và lời mời gọi: “Hãy viết tiếp vào câu chuyện này và in nó ra như là câu chuyện của chính bạn”.
Thật là một cú lừa đảo vĩ đại. Bạn tưởng mình là ai? Bạn muốn làm trò cười cho thiên hạ? Viết văn là một nghề không phải trò chơi. Nhưng cũng chẳng phải vì thế mà nó cao quý hơn những nghề khác. Bọn nhà văn chỉ thích tự bốc thơm mình thôi. Một bọn dởm đời. Thế mà ai cũng thích mang câu chuyện của mình ra khoe. Chỉ có bọn phát hành sách và bọn gallery là vớ bở. Hoa hồng từ 40 đến 50% đấy. Cái phần trăm hoa hồng đó đủ để các anh nghệ sĩ thơm như mít. Anh thử có tài một tí đi, có khối thứ lộc đời dâng hiến cho anh. Anh thích gái hay thích tiền? Cả hai phải không? Hay là anh muốn làm thày? Văn chương là sự đày ải à? Anh muốn làm một kẻ lữ hành cô độc? Ok, cũng ra vẻ đấy. Nhưng anh có biết cuộc lữ hành đó là gì không? Tốt nhất là nên đi buôn anh ạ. Thằng curator buôn thần bán thánh thì anh buôn quỉ bán ma. Một vốn bốn lời. Ở đời này không biết buôn là hỏng. Anh tưởng văn chương là thuần khiết? Quên đi. Bọn đi tu có thuần khiết không? Bọn nhà giáo có thuần khiết không? Bọn làm chính trị có vì dân vì nước không? Một kẻ lữ hành cô độc chỉ là một thằng ngu nhất trong số những thằng ngu. Nhưng nếu anh chỉ là người mơ mộng thì cũng vất đi. Dẫu sao cũng phải lên đường, dù có thể lầm lạc. Nhưng trước khi anh gõ vào tôi để ra những con chữ, anh hãy gõ vào đầu anh. Gõ vào mọi thứ trên cơ thể anh. Chữ nó ở trong anh chứ không phải tôi. Ồ, sao tôi lại thuyết giáo thế nhỉ? Nghệ thuật sắp đặt là một thứ ngôn ngữ khác với văn chương và không biên giới? Gớm, có muốn ói không? Thế mà nó còn có tham vọng tương tác với những con người khác nhau. Để làm gì? Thế giới này chưa đủ phiền phức hay sao? Họ còn muốn xiềng xích chung với nhau cho đỡ cô đơn à? Ừ mà nỗi cô đơn là gì, sao ai cũng thích than thở? Tôi không phải là kẻ cô đơn hằng cửu sao? Cuộc lữ hành của tôi chỉ là sự tan rữa hay một phế tích? Nếu không có ai nhìn đến tôi thì tôi có là tôi không? Nếu ông nhà văn muốn tôi lên tiếng thì tôi đã lên tiếng rồi đó.

Ô màu trắng: Một phòng trống chỉ có một cái bóng còn lại của một ai đó đã bỏ đi.
Tôi chỉ còn là cái bóng. Cuộc lữ hành hay cuộc truy tìm tôi rốt cuộc là gì? Thật ra, một cái bóng cũng đủ vẽ nên một nhân dáng. Nhưng cái bóng không bao giờ là chính nhân vật tạo ra cái bóng đó. Tôi và những cái tưởng như thuộc về tôi là hai thực thể khác nhau. Trách nhiệm luật pháp hay tinh thần cũng không thể qui kết hai thực thể đó là một. Đó là lý do tại sao ở ô trưng bày này đã vắng mặt tôi. Các bạn cứ nhìn đi, đâu phải chỉ có một cái bóng của tôi được in trên đó. Bóng của các bạn không phải đã đang đè lên bóng tôi sao? Cuộc lữ hành của các bạn rốt cuộc là gì? Thật ra, tôi không bao giờ muốn đặt ra các câu hỏi. Bởi các câu hỏi tự nó hàm sẵn câu trả lời. Tôi chỉ muốn nói rằng niềm vui trong cuộc đời này chính là ở chỗ chúng ta luôn luôn đánh lừa lẫn nhau.

Ngày khai mạc và kết thúc triển lãm.
Ông nhà văn đã vắng mặt không lý do và không một giải thích. Ông curator buộc phải đứng ra khai mạc phòng triển lãm. Theo lịch, phòng triển lãm kéo dài trong 10 ngày và ngày cuối cùng sẽ có một hội thảo dự kiến tổ chức trong khán phòng màu đen ở giữa. Người ta chờ đợi cả ông curator và ông nhà văn sẽ có mặt trên bàn chủ toạ cùng với ông chủ gallery, một nhà sưu tập có tiếng. Tuy cả ba đều có mặt, nhưng ông nhà văn chọn cho mình một chỗ đứng trong số khách mời bên dưới. Trước câu hỏi “Tại sao ông lại từ chối vai trò tác giả của mình?” ông nói: “Cũng như Thượng đế, tác giả đã chết ngay khi tác phẩm hoàn thành, hoặc nói một cách khác, tác giả đã bị giết bởi độc giả hay người thưởng ngoạn nghệ thuật”. Và đấy lại là một cuộc đánh lừa khác.
Trong lúc dọn dẹp, ông nhà văn nói với ông curator: “Thật ra, tôi chỉ muốn giết chết độc giả”.

31.10.2010





HỆ THỐNG

Bất chợt tôi cảm thấy mình rơi vào trong một “hệ thống” cùng với hai người khác.
Ba chúng tôi cùng xếp một hàng chéo nhau như những quân cờ và được sai khiến ngồi xuống một chiếc ghế như trong lớp học. Có một điều gì đấy giống như ký ức nói với tôi rằng từ nay tôi không còn là một cá thể nữa, mà chỉ là một đơn vị, cho dù tôi vẫn mang một cái tên. Nghĩa là những cái như ý thức, tự do, tư tưởng và hành động của tôi sẽ không phải do chính tôi mà do cái không phải tôi hành xử. Tôi thuộc về một hệ thống.
Tôi hỏi người ngồi xéo phía bên trái tôi: “Anh từ đâu đến?” Anh ta nói: “Tôi là người rao giảng tin lành. Và tôi đến từ người đã sai tôi.”
Tôi hỏi người phía bên phải: “Anh đến từ đâu?” Hắn bảo: “Tôi không đến cũng không đi. Tôi được đặt vào.”
Còn tôi, liệu tôi phải trả lời thế nào về trường hợp của mình?
Quả thực, đây là một điều khó. Như tôi đã nói bên trên, tôi bất chợt cảm thấy sự hiện diện của mình, ở đây. Tôi không thể biết được cái nguyên ủy cũng như cái tương lai. Nếu có thể gọi là ý thức, cái giúp tôi định vị mình, tôi cũng không chắc cái ý thức đó có thật từ tôi hay không. Vậy thì làm sao tôi có thể nói về tôi như chính tôi là?
Tuy nhiên, tôi vẫn phải nói với hai người kia một điều gì về sự có mặt của mình chứ. Tôi thú thật: “Tôi không biết tại sao tôi lại ở đây và làm gì.” Và tôi hỏi tiếp họ: “Các anh sẽ làm gì?” Cả hai đồng thanh nói: “Chúng tôi chờ được sai bảo.”
Đã rõ. Chẳng lẽ tôi cũng sẽ phải chờ như họ?

Người rao giảng có lẽ thương cảm tình cảnh của tôi. Anh ta kể:
“Trước đây, cũng có lúc tôi không thật sự biết mình là ai. Tôi lang thang và làm đủ mọi thứ nghề chỉ để tìm câu trả lời: Sống để làm gì? Sự thay đổi không soi sáng cho tôi được gì. Những cái mà người ta hay nói như chứng nhân của sự hiện diện của Thượng đế chẳng làm tôi thêm hy vọng. Đôi khi, tôi tự hỏi tra vấn như thế có ích gì. Mọi thứ tồn sinh trên mặt đất này, trong bầu trời này có cần gì tra vấn để tồn tại. Và tôi tự nhủ rằng cứ như cây cỏ. Đúng lúc ấy, Ngài đến và nói: ‘Cây cỏ cũng không phải tự nhiên đến và đi được. Ngươi thuộc về ta và hãy theo ta.’ Từ đó, tôi thuộc về Ngài.”
Tôi nghĩ, anh ta cũng chỉ là một con chó giữ nhà hoặc một con vẹt.
Người đàn ông còn lại không biết có cảm thấy thú vị với câu chuyện của người rao giảng hay không, nhưng cũng góp chuyện: “Tôi biết rõ tôi thuộc về một tổ chức và nhiệm vụ tôi được giao là xâm nhập vào các hệ thống để phá vỡ các hệ thống đó, đặc biệt là với các hệ thống dựa trên niềm tin.”
Thật sự đáng ngạc nhiên. Tại sao hắn công nhiên nói về điều có thể gây nguy hiểm cho chính hắn? Nhưng tôi chỉ buồn cười, rốt cuộc hắn cũng tôn sùng một hệ thống.

Người rao giảng được đưa tới một chuồng bò cũ. Đã lâu lắm rồi không còn ai nuôi bò trong chuồng để mỗi ngày vắt lấy ít sữa. Miếng đất nào cũng được qui hoạch để nó trở nên hiện đại hơn và có lợi ích kinh tế lớn hơn. Nhưng cũng như phần lớn những miếng đất khác, các ý tưởng được treo vào nó và người ta chờ đợi cơ hội kiếm tiền nhờ vào các cuộc đầu tư. Khi cơ hội chưa tới, người chủ miếng đất vẫn được giữ nó nhưng không được xây dựng bất cứ cái gì. Ông ta gọi người rao giảng đến và bảo: “Tôi cho anh mượn khu đất này. Anh có thể dùng nó để vinh danh đấng đã sai anh đến.”
Người rao giảng cảm tạ Chúa và ông chủ đất. “Ông sẽ được trả công bội hậu”, anh ta nói. Và ông chủ đất tin vào điều đó như tin vào bất cứ cơ may nào.
Người rao giảng vào chuồng bò. Anh ta bắt đầu cầu nguyện.
Đầu tiên là những người hàng xóm, họ tò mò đến với anh. Người rao giảng nói: “Chẳng phải là chúng ta đang bị quỉ dữ cướp đi của cải và cuộc sống của chúng ta sao?”
Những người hàng xóm nói: “Phải.” Người rao giảng nói tiếp: “Nhưng chúng ta còn có những của cải và cuộc sống không ai trên thế gian này có thể cướp đi được. Tôi đến để cho anh em biết điều đó.” Rồi những người hàng xóm mang cho anh ta thực phẩm và dựng cho anh ta cái mái che. Hằng ngày anh ta cầu nguyện. Những người hàng xóm cùng cầu nguyện với anh ta. Họ hy vọng có một thứ của cải và cuộc sống không bao giờ mất.

Chính lúc đó, người được tổ chức của anh ta sai đi xâm nhập vào các hệ thống phát hiện ra mục tiêu của mình. Hắn ta đến gặp người rao giảng.
“Nếu tôi cùng ngồi xuống và cầu nguyện với anh, anh có phản đối không?” Hắn hỏi người rao giảng.
“Vì tình yêu, tôi không phản đối.” Người rao giảng trả lời.
“Mặc dù anh biết chắc rằng tôi là người phá hoại, thậm chí sẽ bắt bớ anh?” Hắn hỏi tiếp.
“Vì đấng đã sai tôi, tôi vui mừng đón nhận anh.” Người rao giảng vẫn bình tĩnh.
“Anh tin rằng sẽ cải hóa được tôi ư?” Hắn lại hỏi.
“Việc cải hóa anh hay không, không phải do tôi mà do đấng đã sai tôi.” Người rao giảng nói.
“Thế thì anh sẽ phải chịu thử thách với tôi đến chết.” Hắn nói.

Từ đó, mỗi ngày đều có thêm người đến cầu nguyện với người rao giảng. Cũng từ đó, cái chuồng bò đã biến thành một nguyện đường và nhóm người của anh ta được gọi là một hội thánh.
Vốn là người tin vào tổ chức của mình, hắn ta cũng luôn tin rằng không một hành động nào của bất cứ ai lại không do một thế lực nào đó điều khiển. Bởi vậy, hắn muốn tìm biết thế lực nào cụ thể đứng sau lưng người rao giảng mà không phải là một đấng Thượng đế mơ hồ.
Tôi lại nghĩ, một thế lực cụ thể trần gian thì cũng chẳng khác gì một đấng Thượng đế mơ hồ.
Trong khi hội thánh của người rao giảng vẫn tiếp tục lớn mạnh thì người đặc nhiệm kia vẫn chưa tìm ra cái thế lực cụ thể đứng sau lưng giật dây người rao giảng. Hắn ta bắt đầu nghĩ đến các chiêu hạ sách.

Một buổi tối, trong lúc mọi người trong hội thánh tụ tập cầu nguyện thì bọn giám sát đến.
Một giám sát hỏi: “Các người đang làm gì ở đây?”
Người rao giảng: “Chúng tôi cầu nguyện.”
Viên giám sát: “Ai cho phép mấy người tụ tập?”
Người rao giảng: “Không ai cho phép. Chúng tôi tự nguyện đến đây.”
Viên giám sát: “Tụ tập phải xin phép. Âm mưu cái gì?”
Người rao giảng: “Chúng tôi không âm mưu gì. Chúng tôi chỉ cầu nguyện.”
Viên giám sát: “Sao không cầu nguyện một mình mà lại tụ tập?”
Người rao giảng: “Chúng tôi vinh danh Thiên chúa.”
Viên giám sát: “Chỉ có Đảng của chúng tao mới đáng được vinh danh, biết không?”
Người rao giảng: “Các anh có thể vinh danh Đảng của các anh, chúng tôi cũng có thể vinh danh Thiên chúa của chúng tôi.”
Một giám sát khác xen vào: “Không lý sự với thằng này. Bắt nó về địa ngục.”
Một biên bản được lập tại chỗ. Nhưng người rao giảng không chịu ký với lý do anh ta không nhìn nhận việc mình làm là bất hợp pháp.
Người rao giảng bị dẫn giải về trụ sở đội giám sát. Một giám sát đưa cho anh mấy tờ giấy và yêu cầu viết tờ khai lý lịch.
Nửa đêm, bọn giám sát tha anh về và yêu cầu sáng hôm sau lên làm việc.

Viên giám sát: “Ai xúi giục anh làm việc này?”
Người rao giảng: “Chúa của tôi.”
Viên giám sát: “Không có Chúa ở trần gian. Ai xúi giục anh?”
Người rao giảng: “Chỉ có Chúa.”
Viên giám sát: “Tao cho mày biết, chỉ có chúng tao mới có quyền cho chúng mày giảng đạo, làm tu sĩ hay không. Chúng mày âm mưu cái gì?”
Người rao giảng: “Chúng tôi mang tin lành đến cho mọi người.”
Viên giám sát: “Còn đây là tin lành của tao.” Viên giám sát đấm vào mặt người rao giảng. “Bây giờ mày có ký vào biên bản hay không?”
Người rao giảng: “Tôi chỉ ký vào cái gì đúng.”
Viên giám sát: “Còn đây là cái đúng của tao.” Viên giám sát đấm một cái nữa. “Thế nào?”
Người rao giảng: “Cứ giết tôi đi.”
Viên giám sát: “Tao sẽ không giết mày, nhưng làm cho mày đau khổ.”
Nói xong viên giám sát đứng lên đánh người rao giảng bằng cả tay và chân cho đến khi anh này bất tỉnh.

Tôi thật sự không biết khả năng chi phối của hệ thống đối với một đơn vị của nó như thế nào, khi đơn vị đó là một con người. Và liệu chỉ có một hệ thống hay nhiều hệ thống khác nhau cùng lúc tác động lên một sinh vật? Phần tôi, có những lúc tôi tưởng mình tự do khi cô đơn. Nhưng ngay lập tức tôi nhận ra cái cô đơn cũng có tính hệ thống của nó. Một phản ứng nào đó cũng gần như được qui định. Vậy thì suy tưởng về số phận như một sự phản tỉnh về vị thế của mình có giải phóng con người ra khỏi cái định phận của nó là một đơn vị của hệ thống?

Khi người rao giảng tỉnh dậy, anh cảm thấy một sự bình an tràn đầy trong linh hồn, trong khi thân xác anh rã rời như thể chúng được ráp nối một cách vụng về. Anh nghĩ mọi chuyện cũng chỉ đến thế. Anh được tha về với lời hăm dọa không được trả lời phỏng vấn của báo đài nước ngoài hay bất cứ một phát ngôn nào tố cáo sự hành hung của nhân viên giám sát.
Người rao giảng tiếp tục sứ vụ của mình. Các tín hữu tiếp tục đến với anh. Trong tận cùng, anh cảm thấy sự hiện diện của đấng đã sai anh và điều đó cho anh thêm sức mạnh.
Tuy nhiên, một tháng sau anh lại bị lập biên bản vì tụ tập trái phép. Anh bị nhốt gần một tuần lễ, bị tra khảo bằng nhiều hình thức khác nhau chỉ với một mục đích tìm cho ra thế lực nào đã đứng sau lưng anh.
Viên giám sát: “Mày có nhận tiền của bọn phản động nước ngoài không?”
Người rao giảng: “Tôi không biết một tổ chức nào.”
Viên giám sát: “Thế cái tổ chức tôn giáo của mày là gì?”
Người rao giảng: “Tôn giáo chúng tôi được lập ra để thực hành lời Chúa.”
Viên giám sát: “Tại sao mày không theo mấy cái đạo đã được chúng tao cho phép mà lại theo cái đạo này?”
Người rao giảng: “Đấy là ý Chúa.”
Viên giám sát: “Và mày sẽ biết ý của chúng tao còn hơn cả ý Chúa.”
Viên giám sát treo ngược người rao giảng dưới một cái xà. Và hắn dùng lửa đốt dương vật của người rao giảng.
Viên giám sát: “Tao cho mày cơ hội trung thành với chủ mày đến chết.”

Gã đặc nhiệm nói với người rao giảng: “Anh có thể hình dung được những tình huống xấu phải không?”
“Vâng. Tôi biết sẽ phải trả giá cho niềm tin của mình”. Người rao giảng nói.
Tôi nghĩ, con người luôn phải chết vì niềm tin của mình và điều đó tạo ra những vẻ đẹp rực rỡ của cuộc sống, đồng thời nó cũng tạo ra cái bi kịch u tối mang tính bản chất.
“Anh sẽ không phản bội lại chính anh chứ?” Gã đặc nhiệm hỏi.
“Hy vọng thế. Vì tôi không sống cho chính tôi.” Người rao giảng trả lời.
“Sự hy vọng là một con quỉ, nó không phải là ơn cứu rỗi.” Gã đặc nhiệm nói.

Chỉ trong vòng 3 năm, người rao giảng đã bị xét nhà hơn một trăm lần, bị giam gần một năm, bị đánh đập 79 lần.

Gã đặc nhiệm hỏi người rao giảng: “Thời gian có ý nghĩa gì với anh?”
“Không có ý nghĩa gì cả. Anh biết chúng tôi coi đây là cõi tạm mà.” Người rao giảng nói.
Gã đặc nhiệm cười đểu: “Đánh đổi sự đau khổ cõi tạm với hạnh phúc vĩnh cửu đời sau, được đấy.”
Tôi lại nghĩ, trong một hệ thống thì khái niệm trước hay sau, tạm bợ hay vĩnh cửu cũng không khác gì nhau.
Gã đặc nhiệm nói: “Anh cũng biết tình hình xã hội hiện nay rất phức tạp, mà một trong những cái phức tạp đó là anh, hội thánh Ánh Sáng Đức Tin, những mầm mống thế lực từ bên ngoài. Anh muốn làm thánh, hoặc cứu tinh dân tộc chăng?”
“Không. Chỉ có một đấng thánh là Chúa. Và vì thế vị cứu tinh của chúng ta cũng là Chúa.” Người rao giảng nói.
“Anh nói máy móc và sách vở còn hơn người cộng sản.” Gã đặc nhiệm nói.
“Vì tôi thuộc về Chúa.” Người rao giảng vẫn một giọng cố hữu.
“Chúng tôi muốn anh cộng tác.” Gã đặc nhiệm đột nhiên đổi giọng.
“Tôi không hiểu ý anh.” Người rao giảng nói.
“Chúng tôi sẽ để anh xuất hiện như một anh hùng.” Gã đặc nhiệm nói.
“Một nhân vật phản kháng tầm cỡ?” Người rao giảng hỏi.
“Đúng vậy.” Gã đặc nhiệm xác nhận.
“Để làm gì?” Người rao giảng hỏi lại.
“Để làm gì thì anh biết hơn tôi.” Gã đặc nhiệm nói.
“Tôi không làm chính trị.” Người rao giảng nói.
“Nhưng chính trị sẽ điều khiển anh.” Gã đặc nhiệm nói.
“Không ai điều khiển được tôi, ngoài Chúa.” Người rao giảng nói.
“Anh tưởng vậy thôi. Anh suy nghĩ kỹ đi. Chúng tôi sẽ thu xếp cho anh mọi chuyện cần thiết, kể cả tiền bạc và những gì anh muốn.” Gã đặc nhiệm nói.

Dường như có một xáo trộn nào đó trong hệ thống làm cho tôi lẫn lộn quá khứ với hiện tại và tương lai. Và vì thế tôi cũng không cảm thấy chắc mình thuộc về một nơi nào. Có những hồi ức làm cho cái hiện thể trở nên rõ ràng hơn, nhưng đồng thời lại cho tôi cảm giác của một dự cảm tương lai hơn là hoài niệm quá khứ. Và đến lúc cái dự cảm này biến thực tại thành một hiện thể mơ hồ.
Tôi hỏi người rao giảng: “Anh vẫn xác định thời gian là cõi tạm chứ?”
Người rao giảng: “Vâng. Chính vì thế tôi sẽ không nhượng bộ trước mọi áp lực trần gian.”
Tôi nói: “Thật ra vấn đề là cái vĩnh cửu kia có thật không?”
Người rao giảng nói: “Đối với riêng tôi, vĩnh cửu là một thực tại hay ý niệm cũng không quan trọng.”
Tôi nói: “Đấy là một hạnh thánh.”
Người rao giảng: “Anh quá khen. Tôi chỉ sống như người được sai bảo.”
Tôi nói: “Tôi không biết một nhận thức như thế thì tốt hay xấu, sai hay đúng.”
Người rao giảng: “Tôi thành thật nghĩ rằng không có tốt xấu, đúng sai trong phạm vi lý luận. Vấn đề là thái độ, đó cũng là vấn đề của đức tin.”
Tôi nói: “Và tất cả những hệ lụy của nó.”
Người rao giảng nói: “Vâng. Trong một hệ thống.”

30.7.2010





BẮT RỒNG

Những vòi nước bất ngờ đồng loạt phun tung toé đầy khắp trên mặt cỏ. Cô gái không thể từ chối cơn cám dỗ lao mình vào làn nước ngọt ngào đó và cô chạy vào đám cỏ mặc cho nước phun tràn lên người cô. Một cơn cám dỗ khác tiếp theo và cô cũng không thể từ chối. Cô cởi phăng quần áo vất dưới gốc cây. Người cô tràn trề nước. Cô cũng tràn trề sự hưng phấn mà cô không biết rõ nó là gì và cô chạy lăng quăng dưới làn nước giống như một đứa bé tắm mưa.
Phải có một đôi mắt rất tinh người ta mới nhìn thấy ngay giữa khe đít cô có hình xăm một con rồng. Khi cô chạy, con rồng oằn oại cử động.
Một con rồng chỉ có thể bay lên từ lỗ đít.
Đó là sự khả ngộ về cái hữu hạn khi người ta thực chứng được nó cũng chính là cái vô hạn. Tôi không biết khoa học có chứng minh được vô cực thì bằng không (∞ = 0) hay không, nhưng tôi biết huyền thoại thì vừa có thể là tất cả, vừa có thể là không gì hết.
Như con rồng.
Và tôi không thể nào từ chối được cơn cám dỗ đi bắt rồng. Tôi chạy đến chỗ cô gái chạy vào trong làn nước. Tôi ôm lấy cô và nói: “Tôi đã bắt được rồng.” Cô gái bảo: “Buông tôi ra. Tôi không phải là rồng.” Tôi nói: “Cô là rồng.” Cô gái cãi: “Không phải. Tôi không là rồng.” Tôi vẫn nói: “Cô là rồng” và tiếp tục ôm lấy cô.
Một con rồng không bay thì không phải là rồng.
Tôi hỏi cô gái: “Tại sao cô lại xăm hình con rồng mà không phải cái gì khác?” Cô gái nói: “Tôi thích.” Một câu trả lời không trả lời gì cả. “Tại sao cô thích?” Cô gái bảo: “Đi mà hỏi rồng.” Tôi muốn banh đít cô ra để hỏi, nhưng cô đang đối diện với tôi. Có nghĩa là tôi đang đối diện với cái điều “hữu hạn thì hư ảo mà cái vô hạn thì bất khả tri.”
Khi cô quay lưng và bước đi, con rồng ở khe đít cô nhúc nhích. Tôi bị kích động kịch liệt. Nếu tôi đâm vào lỗ đít cô thì hẳn nhiên con rồng sẽ bay. Thế là tôi chạy đến và đè sấp cô xuống. Tôi nói: “Tôi muốn bắt rồng.” Cô bảo: “Anh không thể bắt được rồng.” “Nhưng ít ra tôi có thể nhìn thấy nó bay,” tôi nói. Cô bảo: “Điều đó không dành cho anh.” Tôi nói: “Tôi muốn nhìn thấy rồng bay”, và cô không thể cưỡng được sức mạnh và lòng ham muốn của tôi. Tôi ấn lưng cô xuống và đút con đại bàng vào đít cô. Con đại bàng vỗ cánh mặt trời thực chứng cho sự huy hoàng của mặt đất. Cô nhổng mông lên. Tôi đã ở tư thế quì và thúc cho con đại bàng bay về phía vô hạn.
Và cũng tới lúc sự hữu hạn đã bằng với sự vô hạn. Tôi nhìn thấy con rồng bay.
Sự sống hay sự chết và ý nghĩa của cuộc tồn sinh này chỉ là sự hãm hiếp của cái hữu hạn với vô hạn. Đôi khi dồn dập đôi khi buông lơi như một cơn gió thoảng.
Người ướt đẫm.
Đấy là một số phận nhưng làm thế nào để có thể chấp nhận số phận? Chẳng phải là chúng ta vẫn luôn luôn cúi đầu đi vào địa ngục? Chúng ta vẫn để cho người khác quất lên lưng mình?
Triết lý không đi đến đâu và cũng không giải quyết được bất cứ điều gì cho con người. Cô gái vẫn ngồi trên hai chân dưới làn nước. Tôi không thể biết được cô đã hài lòng với ân sủng của trời đất hay cô đang khóc. Nhưng dù cô đang khóc hay cô đang nhận mưa ân sủng thì hình ảnh cô ướt đẫm dưới làn nước đang phun tung toé vẫn là một cái đẹp vĩnh cửu.
Cái vô hạn hãm hiếp cái hữu hạn.
Tôi muốn nhìn ngắm cô mãi. Nhìn ngắm sự xung đột trong cô. Nhìn thấy cô vỡ nát đau đớn. Tôi nói: “Cô không thể dùng con rồng để bay ra khỏi mặt đất này.” Cô gái bảo: “Tôi không có ý định bay đi đâu. Mà thực ra làm gì có chỗ nào khác.”
Cuộc sống chỉ là sự triển hạn.
Cô gái nói: “Tôi chỉ là cái căn nguyên của chính tôi, bởi thế tôi không thể ra đi cũng như không thể quay về.”
Nước đầm đìa.
“Đừng tìm cách gặp lại tôi nhé,” cô gái bảo. Tôi gật đầu. Cô nói tiếp: “Vả lại, tôi chưa bao giờ hiện hữu.” Và khi bước đi, cô nói lời cuối cùng: “Chỉ là những ước muốn của tôi lởn vởn trên mặt đất này.”

13.4.2011





QUỐC SƯ

1.
Cơn mưa từ chiều đến giữa đêm vẫn chưa chấm dứt. Những cuộc hành hình liên tiếp bằng cách quấn rơm chung quanh kẻ bạo loạn rồi đốt giống như thui chó mấy ngày trước thịt vẫn còn khét. Sư bần thần đi lại trong thư phòng. Bất chợt một tiếng sét lớn sáng loà đánh ngang cây gạo trước cổng chùa. Sư nghe thấy tiếng cây đổ vang dội trong tâm khảm. Điềm báo đến. Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng, sư ngồi xuống, xếp bằng hai chân. Tịnh.

2.
Dân làng Diên Uẩn, châu Cổ Pháp nằm ở phía đông kinh đô Hoa Lư thầm thì với nhau về một bài sấm được khắc trên phần còn lại của cây gạo cổ thụ mới bị sét đánh đêm qua. Không ai hiểu bài sấm có ý nghĩa gì. Họ đem nghi vấn của mình đến gặp sư.

3.
“Thụ căn diểu diểu, mộc biểu thanh thanh, hoà đao mộc lạc, thập bát tử thành, Đông A nhập địa, mộc dị tái sinh, chấn cung hiện nhật, đoài cung ẩn tinh, lục thất niên gian, thiên hạ thái bình.” [*] Sư nói: Ý tứ của bài sấm này ám chỉ nhà Lê sắp mất, nhà Lý sẽ lên ngôi và thiên hạ thái bình.
Người ta hỏi: Nhà Lý là ai?
Sư chỉ im lặng.
Việc này đến tai Lê Long Đĩnh, vua cho giết sạch bọn trẻ con nhà Lý.

4.
Lý Công Uẩn khi đó đang làm quan Thân vệ trong triều, tuy binh quyền trong tay nhưng cũng sợ tai hoạ. Ông mang giấu sư ở Tiên Sơn vì biết sư là tác giả bài sấm trên cây gạo.

5.
Lê Long Đĩnh chết vì kiệt sức giữa lúc tuổi trai tráng và chỉ làm vua được 4 năm. Con nối dõi quá nhỏ không thể tranh chấp ngôi thiên tử. Sư cho vời quan Chi hậu Đào Cam Mộc đến, nói: “Ông là người hiểu lòng bách tính và cũng biết thời thế. Việc phế lập nằm trong tay ông”.

6.
Họp bàn với các quan, Đào Cam Mộc nói: “Nay (đối với nhà Lê) ức triệu người đã khác lòng, thần dân đều lìa ý, mọi người chán ghét sự hà khắc bạo ngược của tiên đế, không muốn theo về vua nối dòng và đều có ý suy tôn Thân vệ. Nếu không nhân dịp nầy cùng suy tôn Thân vệ làm thiên tử, phút chốc xảy ra tai biến thì liệu chúng ta có giữ được đầu không.” [*] Bá quan len lén nhìn Lý Công Uẩn hiên ngang tì đốc kiếm, im lặng.

7.
Giữa triều, thái hậu phán: Thái tử Sạ còn nhỏ, một ngày nước không thể không có vua, ta thuận theo ý của quần thần, thay mặt tiên đế trao vương quyền lại cho Thân vệ Lý Công Uẩn.
Thái hậu biết cách bảo toàn bản thân và khúc ruột của mình.

8.
Lý Công Uẩn làm vua, phong cho sư chức quốc sư. Phật giáo trở thành quốc giáo. Mọi việc quốc gia đại sự đều thỉnh ý sư.

9.
Một ngàn năm sau.
Sư và thày Quảng Đức bách bộ trong chùa Thiên Mụ.
Sư nói: Cần có một ngọn lửa bùng lên đưa phong trào đấu tranh đến sự quyết thắng.
Thày Quảng Đức hỏi: Thày muốn tôi là một ngọn lửa?
Sư nói: Vâng, cho đạo pháp được hoằng dương.
Thày Quảng Đức lại hỏi: Ở đâu?
Sư nói: Ngay trung tâm Sài Gòn. Mọi việc chúng tôi sẽ chuẩn bị hết.
Thày Quảng Đức: Vì đạo pháp, tôi hy sinh.
Sư và thày cúi chào nhau.
Thày Quảng Đức vào chùa và phủ phục trước tượng Phật.

10.
Giám mục Ngô Đình Thục từ Vĩnh Long được Vatican phong chức Tổng Giám mục và điều về phụ trách tổng giáo phận Huế. Cả Tổng thống Ngô Đình Diệm và Tổng Giám mục Ngô Đình Thục đều muốn Công giáo phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam, ngoài ý nghĩa tông đồ còn để làm chỗ dựa lưng và củng cố thành trì chống Cộng. Phật giáo cũng không muốn mất vai trò truyền thống của mình, họ đã tranh đấu cho sự tồn tại một cách công bằng cũng như khẳng định chỗ đứng trong lòng dân tộc. Cuộc đấu tranh giữa Phật giáo và chính quyền trở thành cuộc đối đầu một mất một còn, đặc biệt ở Huế.

11.
Cả người Mỹ và người Cộng sản miền Bắc đều muốn thu lợi trong cuộc tương tranh giữa những người theo đuổi lý tưởng tự do ở miền Nam.

12.
Khi người Mỹ phát hiện ra chính quyền Sài Gòn của Tổng thống Diệm mất khả năng đoàn kết các lực lượng chống Cộng và có ý muốn lật đổ ông Diệm, cũng là lúc chính quyền ông Diệm nhận thấy ý đồ của người Mỹ muốn giành quyền điều hành cuộc chiến thực hiện chiến lược toàn cầu. Ông Diệm đã chủ động liên lạc với miền Bắc nhằm tìm một giải pháp nội bộ cho người Việt Nam tránh sự can thiệp của Mỹ, nhưng thất bại.

13.
Thày Quảng Đức được đưa đến ngã tư Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng trên một chiếc xe hơi. Một số phóng viên quốc tế được cho biết trước sự việc cũng đã có mặt. Thày Quảng Đức ngồi thiền dưới đất. Hai người đổ xăng vào người thày, châm lửa đốt.

14.
Sự kiện thày Quảng Đức tự thiêu với sự hỗ trợ của các phóng viên quốc tế đã làm bầu khí chính trị miền Nam trở nên nóng bỏng.
Chính quyền cho tấn công chùa Xá Lợi, bắt tất cả các tăng ni trong đó.
Mỹ đưa sư vào toà đại sứ của họ ẩn trốn. Họ mua cho sư một bàn cờ tướng giải khuây.

15.
Cùng với sự xâm nhập của các chiến binh Cộng sản miền Bắc, Mặt trận Giải phóng Dân tộc Miền Nam gia tăng hoạt động và nhanh chóng chiếm lĩnh được nhiều khu vực rộng lớn khắp nông thôn.
Các tướng lĩnh miền Nam sốt ruột trước tình hình chiến sự và được thúc đẩy bởi phong trào tranh đấu của Phật giáo, họ thoả hiệp với Mỹ làm cuộc cách mạng 1.11.1963. Hai anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị giết. Tổng Giám mục Ngô Đình Thục đã được thu xếp rời Việt Nam trước khi có chính biến. Người em út của họ, ông Ngô Đình Cẩn sau đó cũng bị giết ở Huế.
Người Phật giáo coi việc lật đổ chính quyền Diệm – Nhu là công lao của mình. Và họ đã tận hưởng công lao đó một cách xứng đáng. Các cơ sở và tổ chức của Phật giáo lần lượt ra đời và tạo ra một ảnh hưởng bao trùm đời sống xã hội.

16.
Tin tức về cái chết của anh em ông Diệm được đích thân tướng Minh, chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng báo trực tiếp cho sư qua điện thoại. Sư chỉ nói “thế à” rồi cúp máy.
Trong trai phòng, toàn thể tăng chúng đứng bật dậy khi sư xuất hiện và họ nồng nhiệt vỗ tay chào đón sư. Sư cúi đầu tạ lễ rồi ngồi xuống bàn ăn. Không bàn luận điều gì.

17.
Chỉ ba tháng sau ngày lật đổ ông Diệm, tướng Nguyễn Khánh đã làm cuộc chỉnh lý. Phật giáo bị phản bội. Các cuộc đảo chánh liên tiếp xảy ra để tranh giành quyền lực. Chính quyền quốc gia bị bao vây cùng lúc bởi cả Công giáo, Phật giáo và giới sinh viên học sinh.
Nhưng chỉ có Mỹ và Việt Cộng thu lợi.

18.
Mỹ đổ quân ồ ạt vào miền Nam.
Chiêu bài hoà bình và dân tộc được Cộng sản phát động đã thành công trong việc đồng nhất nó với phong trào tranh đấu của sinh viên học sinh và Phật giáo.

19.
Người Mỹ cho rằng, chính họ mới là chủ của thành quả cách mạng. Họ dựng một người Công giáo khác: tướng Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống của nền đệ nhị cộng hoà.

20.
Các cuộc tranh đấu chống Mỹ - Thiệu và đòi chấm dứt chiến tranh càng lúc càng lên cao. Nước Mỹ rung rinh. Hình ảnh của sư tràn ngập báo chí phương Tây. Các chính trị gia và các tướng lĩnh bu quanh sư. Bàn cờ chính trị do sư điều khiển, nhưng chưa bao giờ sư là người toàn thắng. Các cuộc tự thiêu của giới tăng lữ vẫn tiếp tục. Chính quyền Huế và Đà Nẵng tê liệt bởi các cuộc bãi công bãi thị. Bàn thờ Phật được đưa xuống đường cả ngay tại Sài Gòn. Toà đại sứ Mỹ buộc phải điều đình với sư. Họ đón sư bằng trực thăng đưa vào căn cứ Chu Lai.
Ông Đại sứ nói: Chúng tôi muốn ngài chấm dứt mọi cuộc xuống đường bãi công bãi thị.
Sư nói: Có thể được.
Ông Đại sứ hỏi: Ngài muốn thế nào?
Sư rút từ trong tay áo ra một tờ giấy đưa cho ông Đại sứ. Đó là danh sách nội các, kể cả chức tổng thống do sư đề nghị.
Ông Đại sứ xem qua, bảo: Chúng tôi sẽ nghiên cứu đề xuất của ngài một cách nghiêm túc.
Trước khi chia tay, ông Đại sứ tặng sư một bộ cờ tướng bằng ngà voi.
Như thói quen thanh bạch của sư, tất cả mọi thứ quà cáp chúng sinh dâng tặng, sư đều tặng lại cho tăng chúng. Bộ cờ tướng, sư tặng cho một tăng sinh trẻ.

21.
Trước chùa Diệu Đế, sư nói với đám đông cuồng nhiệt: Đồng bào hãy nghe tôi. Tôi nói đồng bào đứng thì đồng bào đứng. Tôi bảo đồng bào đi thì đồng bào đi. Nay tình hình đang biến chuyển tốt, cuộc tranh đấu của chúng ta đã gần đến thắng lợi, đồng bào hãy về nhà…

22.
Cơn mưa đổ xuống đám cháy. Cuộc sống trở lại bình thường.

23.
Chính quyền Sài Gòn đem lính nhảy dù ra dẹp loạn, lần lượt từ Đà Lạt, đến Qui Nhơn, Đà Nẵng rồi Huế. Tướng tư lệnh vùng I mất chức. Một số lãnh tụ sinh viên tranh đấu buộc phải nhảy núi chạy theo Mặt trận Giải phóng. Sư bị phản bội một lần nữa. Những cuộc tự thiêu của tăng chúng không làm quân đội chùn tay. Việc sư tuyệt thực cũng không làm cho “cuộc biến động miền Trung” bốc lửa trở lại.

24.
Trong khi người Mỹ thất bát trong cuộc chiến, Việt Cộng tiếp tục thu lợi và họ quyết tâm chiến thắng bằng cuộc tổng nổi dậy Mậu Thân 1968. Người miền Nam không tuyên truyền và giáo dục lòng căm thù sâu sắc như người miền Bắc, nhân dân đã không hưởng ứng cuộc tổng nổi dậy như Việt Cộng mong đợi. Cuộc tổng nổi dậy thất bại ở miền Nam. Nhưng với chiêu bài hoà bình, Cộng sản Bắc Việt đã thắng ngay trong lòng nước Mỹ.
Mỹ bỏ cuộc và bỏ rơi đồng minh. Hiệp ước Paris 1973 chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Mỹ cắt giảm viện trợ cho miền Nam. Đầu tháng 1.1975, Ngũ Giác Đài kèo nài thêm 300 triệu USD chiến phí cho Tổng thống Thiệu, nhưng quốc hội Mỹ không duyệt.
Hết đạn, hết tiền, quân đội Việt Nam Cộng Hoà tan hàng vào tháng 4.1975.

25.
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh uỷ nhiệm, sư đã thành công trong việc đưa tướng Minh vào chức vụ Tổng thống của miền Nam chuẩn bị cho một kết thúc ít đổ máu nhất. Nhưng dường như vai trò lịch sử đó vượt quá tầm vóc của Tổng thống Minh, ông bồn chồn nhấp nhổm giữa chùa Ấn Quang và dinh Độc Lập.
Sư trấn an tướng Minh: Tôi đã liên lạc và lo liệu hết mọi việc, họ sẽ đến với Tổng thống, Tổng thống cứ bình tĩnh chờ…
Tổng thống Minh chờ một cuộc bàn giao, nhưng trưa 30.4.1975, ông đã phải lên đài phát thanh đọc lời đầu hàng do một người lính Cộng sản soạn ngay tại chỗ sau khi tiếp quản chính quyền Sài Gòn.

26.
Sư bị buộc phải rời chùa Ấn Quang, vốn là cứ địa tranh đấu của sư, ra ngoại thành ẩn tu. Những năm cuối đời, sư về chùa ở Gò Vấp biên soạn kinh sách.

27.
Nhìn xuống hồ nước tĩnh lặng, sư không thấy bóng mình. Nước đục. Cũng như lịch sử của dân tộc này vốn đã là một huyền thoại mù mờ ngay từ khi lập quốc, việc sư đến và đi khỏi một giai đoạn lịch sử khốc liệt tang thương cũng rất mù mờ như huyền thoại của cái lý sự vô thường.

[*]Theo Trương Hoàng Minh.
14.5.2011






MÙ MỚ VÁY

Người đàn bà mặt lạnh như tiền nhưng không kềm chế được đôi tay hơi run khi đốt một bó nhang lớn. Bà cúi đầu trước bàn thờ tổ không biết khấn vái điều gì. Cũng không phải để xin lỗi ông bà ông vải. Có lẽ bà chỉ muốn tổ tiên chứng giám việc bà làm. Ông cố chồng trong lễ phục quan lại triều đình phong kiến trợn trừng đôi mắt, còn ông nội chồng mặc áo dài khăn đóng với thẻ bài trước ngực thì dường như lại mỉm cười, sau cùng là ông bố chồng mặc áo vest với một vẻ mặt nghiêm trang nhưng yếu đuối. Bà lạy từng người và cắm nhang vào bát trước mỗi tấm ảnh.

Người chồng cúi mình qua cửa sổ nhả khói vào đám lá cây me già. Ông không muốn nghĩ ngợi điều gì. Nhưng bà vợ đã xông tới xé áo, lột quần ông, hét lớn:

“Anh quì xuống. Anh phải quì xuống xin lỗi tôi.”

Người chồng, cho đến lúc này ông ta vẫn thật sự nghĩ mình là một người đàn ông và là chồng của người đàn bà này, vì thế ông ta không quì tuy vẫn nói lời xin lỗi vợ. Bà vợ cương quyết:

“Anh phải quì xuống vì tất cả sự xúc phạm của anh đối với tôi.”

Người đàn ông trong ông ta lắc đầu còn người chồng là chính ông ta thì ngồi xuống ghế thở dài.

“Nếu anh không quì xuống xin lỗi và để cho tôi đánh thì tôi sẽ nhảy lầu chết trước mắt anh.”

Bà vợ tiếp tục yêu cầu. Mắt bà ta đỏ ngầu và da thịt bà ta rần rật giận dữ.

Trong một vài giây, người đàn ông tưởng tượng cảnh người vợ sẽ nhảy ra khỏi cửa sổ nơi ông vừa đứng hút thuốc và rơi xuống đất. Một thân thể bẹp dúm và máu me. Cái chết sẽ được báo chí loan tin. Ông sẽ phải đến đồn công an. Một scandal ghen tuông lá cải sẽ vùi ông xuống bùn. Ông ta biết tính vợ. Bà ta sẽ làm bất cứ điều gì bà ta muốn cho dù đấy là điều điên rồ nhất.

“Thôi được.” Ông ta nói rồi quì xuống.

Bà vợ lấy chiếc roi ngựa trong bộ sưu tập của ông treo trên tường, nói:

“Cái thứ ngựa thì phải trị bằng roi ngựa.”

Vừa quất bừa bãi lên người ông, bà vừa chửi:

“Nhục nhã này. Nhục nhã này…”

Ánh nắng len qua vòm lá cây me tạt ngang vào cửa sổ. Lốm đốm. Cô gái bảo nắng đi ở trọ. Mưa hôm nay vắng nhà. Những cây cột cây kèo chèo queo mái lá. Quán vắng. Con ve sầu cũng buồn im tiếng. Con chó nhà hàng xóm không sủa. Cô gái nghĩ ông địa hôm nay say xỉn, ông thần tài bị phong long hãm. Còn anh, anh đang chui vào váy ai? Anh tưởng đã hoàn tất nghĩa vụ khi bố thí cái quán này cho tôi? Thật ra, anh tống tôi vào quán thì đúng hơn, cũng như anh tống tôi vào cái vũng bầy hầy của cuộc chia chác tình cảm của anh. Đừng tưởng anh là người hùng khi đặt tôi lên ghế bà chủ. Tôi không cảm thấy được cứu vớt hay tự do hơn một tiếp viên. Ngược lại, tôi cảm thấy bị lệ thuộc, bởi tôi không tìm thấy ở anh một tình yêu. Con rồng và con chim đã giao cấu với nhau đẻ ra một cái bọc trứng cả gà và vịt tổng cộng được một trăm con. Năm mươi con gà lên núi bới giun. Năm mươi con vịt xuống ao vớt bèo. Gà vịt đồng sàng dị mộng. Tôi thủ dâm con rồng trên mái chùa có thai sáu tháng, đúng từ ngày anh sính lễ tôi cái quán. Siêu âm bác sĩ bảo không xác định được giới tính, có thể là quái thai. Tôi nghĩ, tôi đẻ ra trứng chứ có đẻ ra người đâu mà thấy hình hài. Hôm đầu tiên đưa tôi vào khách sạn, anh đã rút ra để tinh trùng bắn vung vãi trên người tôi. Những lần sau anh vẫn làm thế và bảo không muốn có con nữa. Tôi hỏi: Anh nghĩ rằng tôi không đáng là mẹ của con anh sao? Anh bảo không phải thế, điều ấy chỉ có một lý do đơn giản là anh không muốn tạo ra thêm hệ lụy. Nhưng tôi yêu con, tôi cần con. Anh nhất định không cho tôi có con, tôi đã phải bú anh và ngậm trong miệng một bụm tinh trùng tanh tưởi của anh mang đến bệnh viện xin cấy. Số tôi cô quả chỉ là công cụ cho anh giải quyết sinh lý. Dù sao tôi cũng đã từng yêu anh, tôn thờ anh. Nhưng anh yêu cái khác, tôn thờ cái khác, cái mà vì nó anh có thể giết người, có thể hèn hạ. Tôi yêu anh nhưng không thể hèn hạ. Thế mà tôi cũng đã trở nên hèn hạ. Tôi căm thù anh mà vẫn phải cần anh.

“Anh là cái thứ chó chạy rông…” Bà vợ tiếp tục mắng nhiếc.

Người chồng bất chợt vùng lên nói: “Có lẽ ta nên ly dị.”

“Anh muốn tôi thả anh ra để anh tự do đi lại với mấy con đĩ à? Không, tôi không ngu. Tôi cũng không để anh cắm sừng lên đầu tôi nữa đâu. Từ nay tôi yêu cầu anh đi đâu phải có tôi.”

Người ta bảo tôi đeo bám anh vì tiền. Anh cũng cho rằng tôi cần anh vì tiền. Nếu vì tiền, tôi có thể ngủ với những người đàn ông giàu hơn anh, quyền thế hơn anh. Tôi chọn anh vì tôi tin rằng anh là con nợ của tôi. Tôi muốn sống cho trọn cái số kiếp làm lẽ làm vợ bé của tôi. Tôi muốn làm con đĩ của riêng anh. Tôi muốn được giải thoát tại ngay cái thân phận khốn nạn bệ rạc của tôi. Nhưng cả cái điều thấp hèn đến thế mà anh cũng không cho tôi được thỏa nguyện. Hay là anh cũng muốn tôi trở thành một con đĩ thập phương. Một con đĩ thập phương thì không phải là không có chỗ kiêu hãnh đâu. Hãy cứ nhìn ngược vấn đề lại xem. Mười năm tôi nằm dạng háng ca vọng cổ thì sẽ có ít nhất hàng ngàn thằng đàn ông bò xuống chui vào. Mỗi con đĩ là một bà chúa. Mỗi lần chơi là một lần cứu rỗi. Thật ra tôi chỉ muốn cứu rỗi một mình anh. Tôi muốn giải phóng anh khỏi sự trói buộc của lễ giáo vớ vẩn và sự lầm lạc của bổn phận ích kỷ. Tôi muốn cho anh được sống như chính anh mong muốn. Nhưng anh cũng chỉ là một thằng hèn.

Bà vợ vất cái roi xuống đất, bước ra khỏi phòng thờ tổ tiên. Mười phút sau bà đã ngồi nghiêm chỉnh trước bàn ăn nói với người hầu: “Lên mời ông xuống ăn cơm, nói tôi chờ.”

Cái sức mạnh sau cùng của ông là chống lại lệnh ăn cơm của bà. Ông nằm lì trên sàn nhà. Tổ tiên ông đang nhìn ông và dường như cùng chia nỗi chán chường với ông. Ông cố và ông nội của ông đều có ba vợ. Bố ông tuy chỉ có một vợ chính thức nhưng cũng có một người con được sinh ra bởi sự lang chạ với cô hầu. Mẹ ông không chấp nhận sự ô danh ấy, đuổi cô hầu ra khỏi nhà khi biết cô có thai. Sau này khi sinh đẻ xong, cô hầu mang con lại trả cho bố ông, nhưng mẹ ông không cho nhận. Cái cô em khác mẹ chưa bao giờ ông được gặp, chẳng biết xấu đẹp thế nào.

Tôi đã đạp lên từng phân vuông đất của một trăm cái trứng nửa gà nửa vịt, gặp đủ hào kiệt mán mường kinh thượng, chưa thấy ai hèn như anh, nhưng cũng chưa thấy ai mà tôi muốn cần phải cứu vớt như anh. Anh là cái thứ tôi thổ tả. Nhưng anh cũng là dưỡng chất trần gian của tôi. Nếu ngày hôm nay anh không tới, tôi thề sẽ đày anh xuống địa ngục lòng hờn ghen của tôi. Suốt đời tôi đã phải sống trong sự hờn ghen của số phận, tôi cũng sẽ cho anh sự hờn ghen của hờn ghen. Mẹ tôi đã phải ra đi với hòn máu đắng cay vô thừa nhận trong lòng bà. Tôi lớn lên cùng với mèo hoang chó dại, ăn cơm thừa canh cặn dưới gầm bàn và bị hiếp trên ghế đá công viên thơ mộng cỏ và hoa. Mẹ tôi bảo tôi có giòng máu của người lịch lãm. Tôi nhìn ngắm mọi người đến quán không thấy ai lịch lãm hơn tôi. Tôi chửi thề văng tục như con sơn ca hót. Bọn đàn ông bảo tôi hùng hồn như một chính khách. Nhưng tôi ca cải lương lại ai oán đoạn trường mà không phải dạng háng. Cảm giác bị hiếp vẫn còn ở lại mãi trong âm hộ tôi. Kỳ lạ và đau thốn. Ngay cả với cách dịu dàng của anh, tôi cũng không thể quen được dù nhiều khi tôi vẫn nứng. Tôi nhìn thấy rõ một khoảng cách giữa tinh thần với cái bộ phận làm ra cảm giác phấn khích và cái cảm giác tê mê biệt lập. Khoảng cách của một cõi người chia ba ấy là chỗ tôi ca cải lương. Anh bảo tôi xa vắng. Khi anh thụt ra thụt vào, tôi mù mờ thấy một cái gì đã mất, càng cố nhìn càng thấy xa. Tôi bảo chính tôi cũng không hiểu điều gì đã làm cho tôi xa vắng. Tôi muốn diễn đạt một cách trực tiếp nhất bằng những từ ngữ cụ thể chính xác, như cô Đoàn Cầm Thi uống cà phê đá nói về bút pháp đương đại. Như thế là đã có một cuộc chia lìa giữa cái gọi là văn hóa với bút pháp. Cũng có nghĩa bút pháp là cái thằng cha vô văn hóa. Nhưng dù tôi vốn là con đĩ văn hóa đồi trụy cũng vô phương diễn giải.

Ông muốn đi tìm cô nhưng không đủ dũng cảm rời khỏi căn nhà. Bà vợ nói với người hầu: “Nếu ông không xuống, tao cấm chúng mày dọn cơm cho ông, cứ để cho ông nhịn.”

Tôi nói rằng có một thứ văn hóa gọi là văn hoá vú. Anh chỉ cười nghĩ rằng tôi là con điên. Nhưng tôi đã nhìn thấy những khuôn mặt đàn ông bú tôi và tôi biết rằng cặp vú của tôi có văn hóa. Lịch sự biết bao. Độ lượng biết bao. Nó mang đến sự ngây ngất và trừu tượng, biến cải người đàn ông thành con trẻ, biến sự dâm đãng thành nơi nương náu. Dưới bầu vú tươi non của tôi, anh được an nghỉ và no đầy. Anh cũng đã nói thế. Nhưng tại sao trong lòng tôi vẫn bất an? Tôi chẳng sợ gì mụ vợ nhà anh. Sự công chính tôi có được không phải vì giữa tôi và anh đã rất sòng phẳng, thuận mua vừa bán, mà chính là tôi nghĩ tôi đang gìn giữ anh cho anh. Hơn thế, tôi cảm thấy có trách nhiệm cưu mang cái sinh thể của anh, dù rằng tôi chỉ được gọi là gái bao.

Ông nằm nghĩ lan man đến những người đàn bà. Mẹ ông đã chết. Cô hầu của bố ông ngày xưa không biết thế nào. Và cái cô em cùng cha khác mẹ bây giờ ở đâu. Bà vợ của ông chắc giờ này đã đi kiểm tra các cơ sở làm ăn. Ông chợt nhớ, chưa bao giờ ông hỏi thăm về cha mẹ cô gái. Ông vẫn thấy có một tình cảm kỳ lạ quyến luyến với cô ta. Tất nhiên cô ta làm tình thì tuyệt vời rồi, nhưng điều ấy không giải thích nỗi lo lắng ông dành cho cô.

Trên thân thể trần truồng của ông những vết roi ngựa vẫn còn ứa máu. Không cảm thấy đau nhưng nỗi ê chề của ông dường như quá sức chịu đựng. Ông muốn mụ vợ chết đi, không phải là mong được sống trọn vẹn với cô gái, mà để tháo gỡ sự ràng buộc. Nhưng ông hoàn toàn biết rằng, nếu ly dị vợ thì sự nghiệp chính trị của ông cũng sẽ chấm hết. Bà ta có đủ tài giỏi và thế lực nâng ông lên cũng như hạ ông xuống. Ngay cả việc làm tình, nó chỉ được phép diễn ra khi bà ta muốn. Ông chỉ là con chó cảnh trong cuộc đời bà. Con chó muốn chạy rông và nó phải chịu đánh đòn. Ông sờ vào những vết roi. Ít nhất một tuần lễ mới có thể lành lặn. Trong một tuần ấy ông không thể gặp cô gái. Cô ta có thể giết người để bảo vệ ông. Nghĩ tới cô, lòng ông vơi đi phiền muộn. Ông mường tượng cô sẽ nhỏ những giọt nước mắt trên người ông và chùi sạch vết máu bằng cái lưỡi mềm. Cũng có thể cô sẽ chửi rủa cả thế giới. Bởi cả thế giới chèn ép cô, tìm cách tước đoạt hạnh phúc của cô. Cô chưa từng biết tha thứ. Lòng cô đầy oán thù. Cô bước qua những xác chết và vò xé chính mình. Đôi khi ông hoảng sợ nhưng có một điều gì đấy ông không thể nhận biết nối kết ông và cô. Ông nghĩ, sự mù mờ về số phận cũng như tâm hồn con người không hẳn là bi kịch. Nó cũng cần thiết như sự mù mờ về cảm xúc tình dục.

22.7.2004







MA BẢN MỆNH

“Người ở giữa thế gian
và thế gian đã nhờ Người mà có
nhưng lại không nhận biết Người.”
Gioan (1:10)

Khi Giêsu hạ sinh trên đất Israel, địa ngục triệu tập đại hội toàn quân. Lucifer, vua của xứ quỉ phát biểu: “Ánh sáng đã đến thế gian, và ánh sáng có thể đẩy lùi bóng tối, chúng ta cần phải khẩn cấp chiến đấu. Ngay từ bây giờ, mỗi đồng chí phải quản lý một con người, kiểm soát mọi hành động, mọi giấc mơ, không cho nó nhận biết ánh sáng, không cho nó đến gần ánh sáng. Bóng tối vĩnh cửu thuộc về chúng ta.” Mười tỷ con quỉ đồng loạt hô vang: “Bóng tối vĩnh cửu.”

Vào đầu thế kỷ 21, dân số thế giới có hơn 6 tỷ người. Mỗi người bị một con quỉ quản lý trực tiếp gọi là “ma bản mệnh”, ngoài ra mỗi người cũng còn bị 3 con quỉ khác giám sát theo chức năng như tư duy, mơ ước và hành động. Hai phần ba nhân loại mất khả năng ý thức về tự do. Thậm chí, ở nhiều xứ sở, tự do đồng nghĩa với tội lỗi.

Năm 1979, Bình Định. Xe lửa nằm đợi trong ga Bồng Lai, Tam Quan. Tôi nghe tiếng quân reo từ cuối thế kỷ 18. Nguyễn Huệ nói oang oang bằng giọng “nẫu” hịch tướng sĩ tiến quân ra Bắc. Nhiều người lính Đàng Trong nghe không hiểu. Có những từ người bây giờ nghe cũng không hiểu. Nhưng khí thế thì ngàn người như một.

Quản lý thị trường, công an lên xét tàu và lục soát những người khả nghi. Nhà thơ họ Nguyễn bị bắt không phải vì mấy gói thuốc lá trong người, mà do mấy câu thơ chép trong sổ ghi hàng tả cảnh mùa thu hiu hắt. Từ sau 1945 ở miền Bắc và sau 1975 trên toàn cõi Việt Nam, “mùa thu” chỉ có một “nghĩa” duy nhất là “Cách mạng tháng Tám.” Mùa thu chết của Apollinaire và tất cả những mùa thu khác đều là phản động. Nhà thơ họ Nguyễn bị hai công an áp tải xuống tàu. Tôi ngồi im re một chỗ. Trong người tôi chỉ có một tờ giấy đi đường tự in Ronéo với cái mộc giả làm bằng củ khoai lang. Khi tàu chạy, nhà thơ họ Nguyễn vẫn chưa trở lại.

Nguyễn Huệ bách chiến bách thắng.

Bị nhốt một tháng, nhà thơ họ Nguyễn được thả. Tôi gặp lại bạn ở Sài Gòn. Hắn nói với tôi về những phong trào nổi dậy và bảo nhất thiết phải có một lý thuyết mới để đối đầu với chủ nghĩa Cộng sản. Tôi bảo tất cả những phương cách cũ để lật đổ chế độ Cộng sản đều lạc hậu, kể cả đấu tranh vũ trang. Hắn nói, chẳng lẽ cam tâm chấp nhận để cái ngu ác tồn tại và phá hủy phẩm cách con người? Tôi bảo không có một lý tưởng hay cứu cánh nào có thể biện minh cho sự đau khổ và cái chết của con người. Hắn đọc sách của Lý Đông A và tiếp xúc với những người thuộc hệ phái mới của đảng Duy Dân. Một năm sau, dù chưa kịp làm gì, hắn lại bị bắt và chết trong tù.

Năm 2001, mẹ của nhà thơ họ Nguyễn tình cờ gặp tôi, bà nói: “Điều đau khổ nhất là con chết mà không biết mồ mả ở đâu.”

Trận đánh quyết tử năm 1946 giữa Duy Dân và Việt Minh chấm dứt tất cả những huyền thoại về Lý Đông A cũng như các đảng phái Quốc gia khác trong lịch sử giành độc lập của Việt Nam.

Một người lạ nói: “Bi kịch lớn nhất của trí thức Việt Nam là không tìm thấy con đường thứ ba. Kinh Kha có thể giết Tần Thủy Hoàng, cũng như người ta có thể giết Ngô Đình Diệm hay Hồ Chí Minh, nhưng người ta không biết làm gì để thay thế họ.” Tôi đi uống cà phê với anh ta và không biết gì về anh ta. Có lẽ cũng không nên biết về anh ta làm gì. Năm 1980, anh ta nói: “Tôi chỉ cần mỗi ngày một quả trứng, đủ chất để sống, anh có thể lo cho tôi vài tháng không?” Tôi đưa anh về nhà bạn gái tôi. Chúng tôi có hơn một quả trứng cho anh mỗi bữa trưa và gọi anh là Bình. Anh ngồi viết từ sáng đến chiều. Tôi không hỏi anh viết gì. Cũng không hỏi buổi tối anh về đâu. Một vài lần, anh xin ngủ lại. Tôi đoán chừng Bình là người đang trốn tránh.

Năm 1940. Cúi xuống cô cháu gái mười sáu tuổi tên Duyên, con ông anh cả, đẹp như mơ, Thận nói: “Có phải đày xuống chín tầng địa ngục, anh cũng lấy em.” Cô ôm ghì ông chú: “Không có anh, em không sống nổi.” Cuộc tình loạn luân của Thận và cô cháu gái ruột bị bà chị dâu phát hiện. Chàng vội trốn khỏi nhà và lên tàu vào Sài Gòn. Thận được giới thiệu vào làm sư gia dạy tiếng Pháp cho mấy đứa nhỏ nhà Chú Hoả, người giàu nhất Sài Gòn – Chợ Lớn. Chàng cũng được chỉ vẽ để biết buôn bán kiếm tiền. Nhưng Thận không phải là người kiên nhẫn theo kiểu “kiến tha lâu đầy tổ.” Chàng tổ chức làm tiền giả. Quay lại Hà Nội, Thận mua một chiếc xe hơi và lái thẳng đến chỗ Duyên đang làm việc, đón cô đi theo mình, không cho gia đình biết. Họ lên Thái Nguyên lập tổ ấm. Tại đây, Thận gặp Lý Đông A.

Năm 1946. Sau khi thất trận ở Yên Bái, Thận may mắn sống sót nhờ giả làm nông dân trong vùng. Ông đưa vợ về Hà Nội để trốn cuộc truy sát của Việt Minh. Được các chiến hữu bố trí phụ trách một nhà in, ông tiếp tục làm tiền giả gây quĩ hoạt động cho đảng. Bình được sinh ra trong thời gian này. Đứa con đồng huyết có củ giống rất to nhưng tinh dịch chỉ toàn nước, không có tinh trùng.

Năm 1980. Một hôm Bình nói với tôi: “Điều quan trọng nhất để có thể chống được Cộng sản là không sợ Cộng sản. Nhưng một triệu binh lính Việt Nam Cộng Hoà và quân đội Đồng minh đã không thắng được Cộng sản, thì không một lực lượng vũ trang nào có thể thắng được Cộng sản. Bởi vậy chỉ còn một cách duy nhất có thể thắng là chống Cộng… một cách hợp pháp. Anh có thấy khôi hài không?” Tôi bảo không. Tội ác lớn nhất của Cộng sản là làm cho người ta sợ mình đến độ không còn phẩm cách, nhân tính. Và người ta đã quen sợ Cộng sản, chấp nhận hèn hạ như sự bình thường.

Sau buổi nói chuyện đó, hơn ba năm sau tôi mới gặp lại Bình.

Năm 1978. Tôi về sống với Lan. Chúng tôi làm tình buổi trưa, buổi chiều, đêm và sáng sớm, trừ tám giờ làm việc ở cơ quan. Đó là cách duy nhất để cảm thấy mình chưa bị hủy diệt.

Năm 1944. Thận nói với Lý Đông A: “Vấn đề lâu dài của Việt Nam là vấn đề cách mạng dân trí. Giải quyết được vấn đề này là giải quyết được tất cả các vấn nạn thực dân, đế quốc và chủ nghĩa Cộng sản.” Lý Đông A bảo: “Chúng ta không thể chờ được. Hồ Chí Minh đã được Cộng sản Trung Hoa yểm trợ. Người Mỹ nóng ruột muốn chấm dứt chiến tranh sớm với người Nhật nên cũng muốn ủng hộ Hồ Chí Minh. Sai lầm này sẽ không sửa chữa được. Chúng ta cần có vũ khí.” Thận nói: “Vũ khí thì có thể mua được của quân Tưởng.” Lý Đông A bảo: “Chú lo việc này nhé.” Thận gật đầu không nói gì.

Năm 1979. Lan nói: “Em không thể chịu nổi cảm giác về cái ngu muội trong cuộc sống này. Tại sao chúng ta phải chịu đựng nó?” Tôi nói đó là sự sợ hãi. “Dân tộc này hèn hết rồi cả sao?” Lan lại đặt câu hỏi. Tôi đùa bảo: “Sao xung thế? Cho anh xung với.” Tôi đưa Lan ra khỏi quán ăn. Lan bảo: “Em sẽ đi.” Tôi nói tôi không muốn là người thua cuộc. Nhưng tôi biết rồi tôi sẽ mất Lan. Nhìn làn sóng người bỏ nước ra đi, tôi cảm thấy một nỗi nhục.

Năm 1939. Duyên 15 tuổi bắt đầu trổ mã. Thận nhìn cặp vú vừa nhô lên của cô cháu gái, bảo: “Cháu không được yêu ai.” “Tại sao?” Cô hỏi lại. “Vì không muốn mất cháu”, Thận nói. “Chú ích kỷ”, cô bảo. Thận bồng bế Duyên từ bé. Và chàng cảm thấy Duyên thuộc về mình một cách tự nhiên. Duyên nói: “Cháu ế chồng chú phải đền.” Thận nháy mắt bảo: “Đền cả đời nhé.” Duyên nói: “Nhớ giữ lời.” Năm 2007, tôi bảo: “Chuyện nhỏ.” Con gái Lan theo mẹ về nước thăm tôi. Cô nói: “Chú Minh rất cool. Cháu ghen với mẹ.” Lan bảo con bé: “Ăn nói cẩn thận.” Tôi cười: “Chú yêu sự phóng túng.” Cô bé nói: “Ở Việt Nam, người ta nói là chuyện nhỏ, phải không?” Ừ, nhỏ như con thỏ. Cô hôn tôi khi từ biệt. Email cho tôi, cô viết: “Cháu nhớ mùi đàn ông của chú. Hè sang năm cháu lại về. Hy vọng mùi đàn ông của chú vẫn còn hấp dẫn cháu.” Năm 1943, Thận mang Duyên đi và đền cho cô một tình yêu mà Duyên mô tả là “anh luôn làm cho em nghẹt thở.”

Năm 1984. Tôi gặp lại Bình. Anh cho biết mới trốn tù về. Hơn một năm trong nhà tù Đại Lợi, hơn một năm trong trại cải tạo ở Sông Bé. Anh em trong trại đã tạo điều kiện cho anh trốn bằng cách phân công anh đi lao động hơi xa trại mà không có quản giáo đi kèm. Bình cho tôi xem mấy bài thơ anh làm. Thơ đầy lửa và ai oán, tôi bảo để tôi giữ giùm. Anh hỏi thăm Lan, tôi nói “đi rồi.” Bình bần thần. Ít lâu sau, Bình cũng vượt biên. Anh tìm được Lan. Tôi không biết khi Bình ở chung với tôi và Lan, giữa họ có gì không. Cũng là “chuyện nhỏ.”

Năm 1954, Thận mang vợ con vào Nam. Ông Ngô Đình Diệm cho thanh toán những người đối lập như cách ông Hồ Chí Minh đã làm, Thận bị bắt bỏ tù năm 1957. Sau cuộc đảo chánh của quân đội năm 1963, Thận mới được tự do. Ông trở thành một thượng nghị sĩ sáng giá và tiếp tục con đường của Lý Đông A. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa ông với Lý Đông A vẫn là ở chỗ theo đuổi lý tưởng nâng cao dân trí. Điều này gây ảnh hưởng sâu đậm với Bình. Sau năm 1975, cùng với những chính trị gia khác, ông Thận bị chính quyền mới bỏ tù đồng loạt. Bình đi con đường riêng của mình. Anh hiểu không thể sử dụng vũ lực ở một nơi mà người ta đã quá chán ngán chiến tranh. Anh nghĩ đã đến lúc phải biết và dám đấu tranh hợp pháp. Nhưng với Cộng sản thì cái mầm mống bất đồng đã là tội phạm. Bình bị bắt khi cùng một người bạn trao đổi về một phương thức chống Cộng kiểu mới mà sau này được gọi là “diễn biến hoà bình.” Năm 2006, gặp Bình ở Mỹ, tôi hỏi anh còn nhớ những bài thơ gửi tôi không? Bình bảo không.

Tôi hỏi Lan: “Con gái em có phải con của Bình không?” Lan nói: “Bình không có tinh trùng. Nó là đứa con cầu tự.”

Cuối thế kỷ 20, bọn quỉ họp tổng kết. Lucifer ngồi trong lửa, hắn gào lên: “Tại sao càng ngày càng có nhiều linh hồn thoát khỏi sự kiểm soát của chúng ta?” Không có con quỉ nào dám đứng lên trả lời hắn. Lucifer hầm hè: “Con người không đạo đức lên, nhưng tại sao chúng luôn hướng đến tự do?” Tất cả các con quỉ đều cúi mặt. Lucifer lại gầm lên: “Tại sao các ngươi lại im lặng?” Vẫn không có con quỉ nào nhúc nhích. Lucifer xuống giọng: “Phải chăng chính các ngươi cũng muốn thoát khỏi sự kiểm soát của ta?” Lúc ấy bọn quỉ con mới lên tiếng: “Quỉ vương sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta, không có bất cứ một con người nào mà thân xác còn đang sống thoát khỏi sự chi phối của quỉ. Sự tự do mà chúng có được chỉ là một ảo tưởng do chúng ta tạo ra, vì mọi ước muốn của con người là ước muốn của quỉ. Quỉ vương bất diệt. Chủ nghĩa nô lệ muôn năm.”

Năm 1989, ông Thận được thả ra khỏi khám Chí Hoà. Hai người bạn tù dìu ông. Không có ai đón ông ở ngoài. Căn nhà cũ của ông đã thuộc về một người khác. Ông đứng nhìn bầu trời bao la, tự nhủ: “Đây là tự do.” Rồi ông phát điên, hàng ngày lang thang từ sáng đến tối, miệng lúc nào cũng lẩm bẩm “đây là tự do”, và vạ vật ngủ ở bất cứ đâu khi thân thể của ông đổ xuống. Điều kỳ lạ là ông mãi vẫn không chết.


10.6.2007


Nguồn: tienve.org

No comments:

Post a Comment