NGUYỄN VIỆN - DI.COM - văn


DI.COM

Một nửa trái đất bị bao phủ trong bóng tối sợ hãi. Mỗi ngày lại có một tin đồn mới về sự xuất hiện của “ĐI.COM”. Chưa ai dám khẳng định là mình đã nhìn thấy “ĐI.COM”, nhưng tất cả các chính phủ, các phương tiện thông tin đều không thể trấn an dân chúng thoát khỏi sự hoang mang. Không ai giải thích được hiện tượng có những nhóm người tự quây quần với nhau vào ban đêm dưới một lá cờ màu đen vuông vức, gào rú như những kẻ lên đồng, khi chính những người này cũng không biết họ đã làm gì vào đêm hôm trước. Lúc đầu, người ta cho rằng đó chỉ là sinh hoạt của một nhóm người dị giáo. Nhưng tiếng gào rú của họ mỗi ngày một lớn, đến khi không một ai không nghe thấy tiếng gào rú ma quái ấy, thì người ta tin rằng một thời kỳ mới của con người đã thật sự bắt đầu. Hiện tượng này khởi phát từ Hồng Kông, sau đó lan nhanh vào lục địa Trung Hoa, rồi toả ra tất cả các cộng đồng người da vàng trên thế giới, tạo thành một ma trận chuyển động bất tận từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam. Đó là năm 2055.
Quán cà phê là một cái lồng kính trong suốt được xây trên mặt hồ và quay vòng theo chiều kim đồng hồ. Cảnh quan thay đổi từ một gốc cây si chằng chịt rễ đến một cao ốc lừng lững xám xịt chắn ngang tầm mắt, tiếp theo lại là một dòng chuyển động của những xe cộ đầy sắc màu. Tốc độ quay của quán chậm vừa đủ để người ta nhận thấy sự dịch chuyển mà không bị chóng mặt. Người đàn ông đầu trọc nhưng có bộ râu rậm trắng phơ cất tiếng hỏi bà lão ngồi đối diện:
- Em nhận được thông tin lúc 8 giờ chưa?
- Rồi.
- Anh có cảm giác đêm nay tới lượt mình.
- Em sẽ ở với anh cho đến lúc đó nhé.
- Ừ.
Nhắp một ngụm cà phê không đường, mùi cà phê thơm ngát, người đàn ông bảo:
- Anh sợ mình cũng không tự kiểm soát được.
- Dường như các nhà khoa học đang nghiên cứu một phương pháp phân thân để con người có thể tự quản lý theo nguyên tắc đối kháng. Bà lão nói.
Người đàn ông thầm nghĩ không ai có thể giúp được mình.
- Cái tai hoạ lớn nhất của con người là đã tin vào khoa học.
Bà lão cười:
- Chẳng lẽ anh lại muốn đến Himalaya vào trong các hang động của mấy ông đạo sĩ?
- Tất nhiên là không. Điều mà chúng ta đã đánh mất là niềm tin vào chính mình.
Cảnh quan vẫn không có gì thay đổi, từ một dòng xe cộ đầy màu sắc đang chuyển động đến một cây si già rễ chằng chịt, tiếp theo là một cao ốc xám xịt lừng lững, một dãy phố có mặt tiền giống hệt nhau bán dưỡng khí. Người đàn ông chăm chú nhìn khuôn mặt bà lão dưới một lớp kem chống ô nhiễm. Tuy không có một vết nám nào, nhưng đôi má béo phị của bà đang xệ xuống. Đa số khách trong quán đều im lặng. Người đàn ông hỏi:
- Tại sao em không căng da mặt?
- Anh vẫn quen với khuôn mặt tròn trĩnh của em mà phải không?
- Ừ.
- Em không có ý định sẽ thay đổi bất cứ điều gì trên thân thể mình.
- Cũng không nên cố chấp vậy.
- Thật ra em vẫn hài lòng với mình, cả với sự thay đổi của thời gian.
Người đàn ông cầm tay bà lão như thể ông ta vẫn cầm như thế từ mấy chục năm trước.
Năm 2005. Trong một phòng riêng của quán cà phê nhìn ra vòng xoay giao thông, tôi nói với N chưa bao giờ anh lại muốn hôn em như lúc này. Mắt của N cười và đôi môi của N dẩu ra. Tôi ngậm đôi môi ấy trong miệng. Tôi nhớ có lần đã nói với N rằng hãy cho anh hôn em, và em hãy lắng nghe, đấy có phải là điều em chờ đợi không. Lúc ấy N bảo đừng có xúi dại, lỡ tôi ghiền ông rồi sao. Thì cứ để cho anh hôn em suốt ngày đêm, tôi bảo. Đừng có xạo, ông hôn được tôi rồi ông chán, ông lại tìm người khác bảo anh muốn hôn em suốt ngày đêm. Có mà tai hoạ. Tôi cầm tay N và nói anh mắc đoạ trần gian vì em, em không biết điều ấy sao? N cười bảo để tôi đi xem tử vi đã nhé.
Thày tử vi bảo cung Phu của cô có sao Riêu, Y, lại thêm Hồng Loan xung chiếu chắc chắn anh ta sẽ là người trăng hoa, nhưng nhờ có tứ Đức cho nên không đến nỗi mất nết. Đàn ông như thế là quí rồi. Tôi cũng cho cô biết, cung Phu này có Thất Sát triều đẩu là cách của một người đàn ông anh hùng. Số cô có Vũ Khúc, Quả Tú trong Mệnh nên có thể cô không lấy chồng nhưng sẽ luôn có một người đàn ông bên cạnh vì cô có Đào Hoa, Tả phù, Hữu Bật, Khôi, Việt, Thiên Hỉ, Hỉ Thần… quần tụ.
Nhưng người đàn ông trong tử vi của N không phải là tôi, bởi đơn giản là tôi chưa bao giờ là chồng N, kể cả cho tới năm 2055. Tuy nhiên tôi tin rằng không có một người đàn ông nào thân thiết với N hơn tôi, cũng như không có một người đàn bà nào tôi yêu hơn N.
Tôi nói với N, ngày mai anh đi Châu Đốc với Tiến, em có muốn cùng đi với bọn anh không? N nói em còn một số việc phải làm, trót hẹn với người ta rồi. Hình như lúc nào tôi cũng thấy N trót hẹn với một ai đó.
Có chuyện gì vậy? N hỏi. Tôi bảo anh chỉ muốn đi chơi thôi.
Dưới ấy có gì mà chơi, N bảo. Tôi nghĩ là có, bởi tôi không có ý định của một người du lịch đi xem thắng cảnh hay hành hương Miếu Bà Chúa Xứ vay tiền làm giàu. Cho khỏi phí công, N bảo, nhân tiện anh nên tìm mua một em về cho nó phục vụ. Tôi cười, để thử xem.
Trên xe chỉ có năm hành khách. Tôi ngồi cạnh cửa sổ. Tiến ngồi cạnh một cô gái. Tôi nghĩ thế nào Tiến cũng có cách để bắt chuyện với cô ta. Và đây là chuyện cô ta nói:
“Từ hồi nào đến giờ em chỉ biết có một mình anh ấy, nhưng anh ấy đã bỏ em đi Mỹ cùng với gia đình. Em không muốn nhìn thấy những kỷ niệm cũ nên bỏ về quê sống với má. Một đêm buồn kinh khủng, em lén mở cửa sau ra đi, không cho má biết. Mà em cũng không biết đi đâu. Trời tối thui chỉ có bóng cây u dù ủ dũ hai bên con đường đất . Không biết bao lâu, em đến trước một cái cốc của một ni sư già. Thật ra, đó là một cái chòi lá. Em xin vào tá túc. Ni sư biết ngay là em thất tình. Ni sư bảo nếu em muốn dứt bỏ nghiệp chướng quyết chí tu hành thì cũng nên về báo cho gia đình biết để gia đình khỏi lo lắng. Ở trong cốc ba ngày, má em tìm được. Má ôm em khóc. Em về với má và bắt đầu từ đó ngày nào em cũng tụng kinh, một tháng ăn chay hai lần. Mà cũng lạ lắm, tháng nào em không ăn chay, lên chùa thì thế nào cũng bịnh. Không có một cái chùa nào trong Thất Sơn mà em chưa đến. Anh biết không, trên núi Cấm có một cái hang gọi là hang Mẹ Đẻ linh thiêng lắm. Ai đi qua cái hang ấy một lần thì giống như là được trời sinh lần thứ hai, vì thế người ta gọi là hang Mẹ Đẻ. Nhưng không phải ai cũng đi qua được cái hang ấy đâu. Có khi người mập đi lọt mà người ốm đi không lọt. Nếu các anh không biết đường, em sẽ dẫn các anh đi.”
Còn đây là chuyện cô gái nghĩ:
“Có thể các anh không tin những điều em nói. Cũng như các anh không thể hiểu tại sao em đến nỗi muốn bỏ nhà đi tu. Người ta chỉ có thể nghĩ tại em muốn trốn tránh nỗi buồn, hoặc muốn trả thù cuộc tình ngay trên nhan sắc của mình. Thật ra, em cũng không hề đốn ngộ vì sự phù phiếm của cái sân hận tình đời mà chỉ vì em muốn thay đổi. Em muốn sống một cuộc sống khác. Bởi vì em không thể yêu một ai khác nữa. Em không tin có một người đàn ông nào khác có thể làm cho em sung sướng hạnh phúc đến thế. Em sợ sự trống không vì mỗi khi trống không em lại nhớ đến ảnh. Và luôn luôn nhớ những lúc chúng em làm tình với nhau. Ảnh thích hôn chim em. Em cũng thích hôn cái của ảnh. Em không biết nước tiểu có chữa được bịnh không, nhưng ảnh thường bảo em đái vào mồm cho ảnh uống. Lúc đầu em cũng thấy kỳ, sau thấy vui vì em cảm thấy mình được yêu và tôn thờ. Không biết các anh có thích như vậy không. Nhưng ảnh chỉ thờ em có mấy tháng rồi ảnh đi mất. Không biết bao giờ mới lại có một người đàn ông yêu em như thế.”
Chiếc xe tắp vào quán cơm dọc đường. Tôi mời cô gái ăn chung với bọn tôi. Tôi hỏi: “Em về Châu Đốc hay Long Xuyên?” “Dạ, em về Phú Tân. Nhà em ngay trong vùng thánh địa Hoà Hảo.” Quả là may, tôi nghĩ là nên theo cô gái đến thắp một nén nhang cho người lập đạo. Chúng tôi xuống xe ở bến phà Năng Gù. Chiếc phà nhỏ vắng người sang sông. Nước mênh mông mùa lũ. Ở phía bên kia sông, những người đàn ông chạy xe ôm bám lấy chúng tôi như đỉa. Để họ cắn, cô gái ngồi chung xe với tôi chỉ vào một nhà máy xay lúa nói cái đó là của đứa em gái em và thằng chồng Singapore của nó. Tôi bảo thế có nghĩa em là chị vợ thằng Singapore, má em là má vợ thằng Singapore. Bả còn muốn làm má vợ thằng Đài Loan nữa đó, cô gái thản nhiên nói thêm.
Thánh địa Hoà Hảo dù có tiệm chụp hình kiểu Hàn Quốc và cửa hàng Internet tốc độ cao vẫn có vẻ trầm lắng và tiềm ẩn sự bất an từ năm Kỷ Mão, khi sứ mạng của Đức Thày bắt đầu được thực hiện.
Ở trong An Hoà Tự, trong lúc cô gái tín tâm khoác chiếc áo dài nâu vái lạy các bàn thờ, tôi chỉ quan tâm đến tướng mạo của đấng khai sáng và đặc biệt chú ý tới bức hình chân dung Đức Thày với đôi mắt và cặp lông mày xếch ngược, mái tóc hất ra phía sau và dài cặp mang tai. Đó là một tấm ảnh dị thường. Sau này, khi đọc sấm giảng của Đức Thày và biết ngài tự xưng là “Điên”, tôi nhận ra một bi kịch hùng tráng trong số phận của những ai xướng ngôn thần thánh.
Những kẻ điên không bao giờ chết. Đức Thày vẫn sống và làm phép lạ trong niềm tin của tín đồ. Niềm tin của con người tạo thành phép lạ. Không một tôn giáo nào không có phép lạ và con người vẫn sống nhờ phép lạ.
Năm 2055, ông lão ngồi trong quán cà phê xoay chờ đợi tới lượt mình lên đường. Chưa một ai cưỡng lại được tiếng gọi bí ẩn ấy. Không biết ai là người đầu tiên loan truyền có một ĐI.COM. Và tiếng gọi bí ẩn bắt con người phải lên đường và lên đồng chính là ĐI.COM. Nhưng chưa một ai biết thật sự ĐI.COM là gì. Những người sử dụng Anh ngữ thì bảo “ĐI” là phát âm của “D”. “D” có thể là Dragon (con rồng), Driver (người lái xe), Dreamer (người mơ mộng), Druid (đạo sĩ), Drunkard (người nghiện rượu), Drummer (người đánh trống), Dredger (người đánh lưới vét), Dread (sự khiếp đảm), Doorman (người gác cửa), Dragoon (kỵ binh vũ trang nặng nề), Dorothy (thánh nữ), Dramatist (nhà soạn kịch), Doomsday (ngày phán xét), Dominion (quyền thống trị), Dolt (người ngu xuẩn), Dodger (kẻ ranh ma), Divine (thần thánh), Dissenter (kẻ ly khai), Discover (khám phá)… hoặc có thể chỉ đơn giản là Document. Những người sủng ái truyền thống Việt lại bảo “ĐI” là khác với đứng hoặc ngồi hay nằm. Bọn rỗi hơi tán vung vít “ĐI” là tiếng gọi của các em đứng đường: “Đi không anh?”
Năm 2005, dưới chân núi Sam gần Miếu Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc, các em cũng hỏi tôi và Tiến: “Đi không anh?” Tôi không chơi đĩ, không phải vì tôi không thích, mà vì tôi còn nhiều việc khác phải đi. Trước hết tôi cần phải đi với cô gái ngồi chung xe cho hết đoạn đường Hoà Hảo.
“Em tên Phượng”, cô gái tự giới thiệu rồi hỏi tôi: “Anh thứ mấy?”. Tôi bảo thứ ba. “Còn anh?” Cô hỏi Tiến. Tiến nói “anh con một của má anh nhưng là con thứ tám của ba anh, nên gọi là Út cũng được, Tám cũng được, Hai cũng không sao.” “Em thích gọi anh là anh Hai,” Phượng nói với Tiến, “vì em thích có một người anh lớn.” Tôi bảo “thằng này nó nhỏ hơn anh cả chục tuổi mà em gọi nó là anh Hai, gọi anh là anh Ba thì mất tôn ti trật tự, đảo lộn luân thường.” Phượng cười: “Như thế mới vui.” Cũng vui như khi Phượng dẫn bọn tôi về nhà bà dì của Phượng gần Tổ Đình của Đức Thày. Dì của Phượng trẻ và mặn mòi da bánh mật. Dì làm dâu một người gọi Đức Thày bằng cậu. Phượng kể: “Dì em nói muốn mời hai anh ở lại nhà dì em chơi, mai hãy đi. Nhưng dì không biết xưng hô với hai anh ra sao?” Tôi bảo: “Sao em không bảo dì cứ nói thẳng với bọn anh là mời hai cháu ở lại chơi. Dì trẻ hơn cháu mới hách.”
Tôi nhìn thấy tấm bằng sơ đẳng tiểu học của Đức Thày năm 1930. Phòng của Đức Thày đóng kín, không ai được quyền vào. Nhưng người ta kể đã có một người con gái đẹp nhất định đòi vào ngủ trong phòng Đức Thày giữa đêm hội kỷ niệm ngày Đức Thày đản sinh. Cô gái bảo “tôi phải vào và tôi sẽ đi giữa khuya.” Không biết bởi một sức mạnh nào mà các vị chức việc đã phải nhượng bộ cô gái. Và đúng như cô gái nói, 12 giờ đêm, người ta không còn nhìn thấy cô gái trên võng trong lúc cánh cửa vẫn đóng kín. Tương truyền, Đức Thày vẫn hoá thân thành người này người kia đi lại trên đất thánh. Tôi không bận tâm về chuyện Đức Thày còn sống hay đã chết. Nhưng tôi nghĩ đến dì của Phượng màu da bánh mật.
Tiến nói bố vợ tôi là một người Hoa. Có lần tôi nghe ổng nói với tôi về kinh nghiệm đàn bà. Ổng cho biết có một loại đàn bà rất quí, lai giữa Tiều và Miên, gọi là đầu gà đít vịt. Những người đàn bà ấy, âm đạo bao giờ cũng bót, cho dù họ có sinh con đẻ cái. Ở vùng Long Xuyên, Châu Đốc, người Tàu lai Miên nhiều hơn Việt lai Miên. Tiến bảo muốn chơi cho sướng thì hãy tìm các cô da nâu.
Tôi cũng nghe nói “da bồ quân cởi quần không kịp.” Da của N ngăm đen, tôi mong sao N đậm đà bản sắc Phi châu hay núi non hoang dại cho đời tôi bốc cháy.
Phượng bảo hai anh không ở lại nhà dì em thì về nhà em nhá.
Con đường bị ngắt quãng bởi tiếng đọc kinh ê a từ băng cassette phát ra. Những lu nước dưới gốc cây cho người khát giữa đường vẫn lác đác theo một truyền thống cưu mang Nam bộ. Phượng bảo tới mùa lễ hội vui lắm, thuyền bè các nơi chở gạo, đường, bột ngọt đến. Ai cũng được ăn.
Nước mênh mông ngoài đê bao. Nước đẹp tràn trề. Tôi muốn nhảy xuống nước. Tôi muốn phung phí đời tôi cho nước nôi của những cửa mình rộng mở. Phượng nói nhìn con nước em biết nhà em đã bị ngập rồi. Không biết bây giờ má em ở đâu. Tiến bảo chắc má em tá túc ở đâu đó. Em cứ yên tâm theo bọn anh đến Thất Sơn lập cốc tu hành, tu lạc. Phượng đấm vào lưng Tiến: “Đến nước này mà anh còn đùa được.” Tôi bảo cớ gì mà không đùa. Cứ hỏi bất kỳ một người nào quanh đó thế nào người ta cũng biết má em ở đâu. Phượng lại băn khoăn không biết bè cá nhà em có sao không. Tôi bảo cá thì cho nó về sông. Phượng bực mình nói thế còn em về đâu? Nước hoang mang thế này. Đất trôi dạt thế này. Những con cò trắng cũng không còn chỗ đậu. Phượng nói thôi hai anh đi đi. Em sẽ đi tìm má em. Nếu hai anh đến Thất Sơn thì nhớ vào núi Cấm để được tái sanh, nhưng trước đó nên đi núi Voi xem những sọ người chết.
Tôi nghĩ là Tiến đã ôm hôn Phượng khi từ biệt.
Bọn tôi thuê xe ôm ra bến phà Thị Đam. Lòng mang mang tôi nhớ những con cò lặn lội bờ sông. Tôi nhớ những cành củi khô trên sông dài. Trời chiều hắt hiu, không một ai trên ghe nói chuyện. Tiến lẳng lặng đưa máy ảnh lên ngắm. Những vầng mây xám trong khung hình trừu tượng nỗi buồn của Chúa. Tiếng máy nổ tạt trên sóng nước một âm thanh đều đều nghi hoặc. Tôi thèm hút một điếu thuốc. Tôi nhớ đến Phượng heo hút thôn dã. Và tôi chợt hiểu tại sao những cô gái lẫn lộn với cây cỏ một hôm đòi ra thành phố phấn son làm đĩ. Không hẳn vì nghèo.
M đón chúng tôi ở khách sạn, sau đó đưa chúng tôi vào một khu phố cũ còn chút dấu tích của kiến trúc Pháp và một vẻ rất Tàu, ăn cơm. M nói: “Nếu hai ông muốn đi chơi núi, để tôi gọi cho ông bạn giáo chủ trong đó, sẽ đón hai ông. Có yêu cầu gì cứ nói với giáo chủ, kể cả thịt rừng. Chỉ ngoại trừ gái.” M cười cười nói tiếp: “Cũng không chừng, giáo chủ thì không dám nhưng đãi khách thì có thể.” Cơm ngon. Một số người nước ngoài có vẻ cũng thích thú. Tiến hỏi: “Nếu muốn đi biên giới thì đi làm sao?” M cho biết: “Gần thị xã cũng có một cửa khẩu, nhưng mùa này nước ngập hết rồi. Còn một cửa khẩu nữa ở Tịnh Biên cách đây khoảng hơn hai chục cây. Thích thì cứ bảo tụi xe ôm chở.”
Chiếc xe ôm chở ba. Trên đường, những người lái xe ra dấu cho nhau biết có công an giao thông chặn đường hay không. May là xe chúng tôi không bị phạt. Trời mưa khi xe gần đến Tịnh Biên. Mưa cũng đi. Những cây thốt nốt dần dần hiện ra. Những người gốc Miên cũng dần dần hiện ra. Cảm giác ở một vùng biên giới bao giờ cũng xa xăm. Tiến bảo là chao giao.
Chợ biên giới Tịnh Biên đa phần bán mỹ phẩm và vải vóc. Chúng tôi không vào chợ mà đi qua một chiếc cầu gỗ nhỏ mở ra một đoạn độc đạo giữa mênh mông nước hai bên. Một không gian khác hẳn. Như thể chúng tôi đã vừa bỏ lại một đất nước phía sau. Trời vẫn mưa lất phất. Nước trắng đồng. Nước xoá bỏ những lằn ranh, những cột mốc địa lý. Dường như chúng tôi vừa đi qua một chiếc cầu nữa. Tôi đoán là cầu vì có lan can hai bên. Một vài người đàn ông Campuchia chạy xe ôm bám theo chúng tôi. Họ nói gì đó bằng tiếng Miên. Người lái xe ôm cho biết những người đàn ông Miên chào mời thuê họ chở qua biên giới.
Chúng tôi dừng lại ở chỗ cuối cùng không được phép đi qua. Cửa khẩu.
Tôi nhớ đến những từ mà bây giờ không còn ai dùng nữa, như biên ải, quan san, quan tái… những từ gợi cảm, gợi nhớ của cả một nền văn học đã tàn lụi. Những chữ lần lượt tắt thở bởi chúng đã từng sống cái hơi thở thời đại của nó. Quả thật, tôi đang sống lại với chữ “Nhạn Môn Quan” nghìn trùng cách trở, phiêu bạt và cô độc của anh chàng Kiều Phong ngộ nạn cõi giang hồ.
Dãy núi Khom Lưng phía bên Campuchia mờ trong mưa. Không thể không đốt một điếu thuốc để tận hưởng cảnh tượng “đất chìm trong nước, nước chìm trong mưa” (chữ của Trần Tiến Dũng) và mưa chìm trong nỗi quan hoài sử lịch. Người lính biên phòng không cho chụp hình. Chiếc máy ảnh cất giấu nỗi buồn của Chúa.
Bỏ lại biên giới sau lưng để nhìn thấy hơn ba ngàn chiếc sọ của người dân vô tội dưới chân núi Voi bị giết bằng nhiều cách khác nhau. Những phụ nữ bị hãm hiếp cho đến chết. Những phụ nữ chịu nhục hình bởi sự thù oán truyền kiếp bằng một cây tre đầy mấu mắt chọc thẳng từ cửa mình lên tới cổ. Những chiếc sọ vỡ bởi cán cuốc và báng súng. Những chiếc sọ trẻ con. Đấy là năm 1978.
Bỏ lại những oan hồn cho bọn Khmer Đỏ. Chúng tôi đi qua những cánh đồng cô quạnh. Không khí trong veo. Nhị tì người Hoa trong thung lũng thốt nốt. Những ngôi chùa Miên kiêu ngạo trong vẻ mặt u tối của những người chăn bò.
Những con ếch được moi bụng và người ta dồn thịt bằm với nghệ vào trong đó. Những nền văn minh dồn vào bao tử tôi. Tôi bị dồn vào trong ánh mắt của người đàn ông bán bánh mì ếch dồn thịt.
Núi Cấm linh thiêng năm ngàn một vé vào cổng. Núi Cấm huyền bí la liệt hàng quán và xe ôm. Núi Cấm biến sắc thành núi Câm. Tiến bảo tôi không muốn tái sinh nữa. Tôi nghĩ là Tiến đùa cho vui, nhưng trên đường về ngang núi Két, Tiến xuống xe và đi vào trong đám cây thâm u lên núi. Tôi đứng ngoài chờ, tin rằng Tiến sẽ quay ra. Cho đến khi tắt nắng, vẫn không thấy Tiến đâu, tôi đành về thị xã Châu Đốc một mình, không hiểu đã có điều gì xảy ra trong Tiến.
Năm 2010. Trong vườn tượng quốc tế dưới chân núi Sam, có một người đàn ông đầu trọc, cởi trần trùng trục tự biến mình thành tượng, tư thế như một con két đang gáy trên một tảng đá lớn. Mỗi ngày, khi mặt trời lặn, ông ta lại hú lên những âm thanh kỳ dị của rừng rú và thuyết giảng rằng đó là âm thanh của bản năng nguyên thủy. Và sự sắp đặt âm thanh là một nghệ thuật của cuộc sống an lạc. Ông ta nói người nào nghe ông ta và thực hành những lời ông dạy thì sẽ có một cuộc sống khỏe mạnh và hạnh phúc. Nếu thế giới này không nghe lời ông ta, tai hoạ sẽ khôn lường. Một đấng đến sau ông ta, quyền phép hơn ông ta sẽ áp đặt lối sống của một đẳng sinh vật không phải người cũng không phải quỉ, vô thức và bạo liệt. Triệt để và toàn diện. Không một ai có thể đứng ngoài.
Quần chúng cho rằng ông ta điên.
Tôi trở lại Châu Đốc với ý định xem người đàn ông này có phải là Tiến năm xưa không. Chen giữa đám đông hiếu kỳ, tôi lắng nghe tiếng hú của nhà tiên tri. Trong một tư thế đứng tấn chững chạc, hai tay co lại thành hình góc vuông đưa ra phía trước, bàn tay nắm chặt, miệng ông ngậm lại, nhưng từ đó những âm thanh vẫn phát ra hùng dũng đầy khí lực nội công. Khi là tiếng chó sói tru, khi là tiếng cọp beo gầm gừ, lại có khi nghe như tiếng rên hoan lạc của con người lúc làm tình. Tôi không nghĩ ông ta điên. Tôi cũng không nghĩ đó là Tiến.
Buổi tối năm 2005 khi quay trở lại thị xã Châu Đốc một mình, tôi vội vã tìm M và báo cho M biết Tiến đã vào núi. Không có vẻ gì lo lắng, M nói: Chỉ tính riêng núi Sam đã có khoảng trên ba trăm cốc của các ông đạo. Trong toàn bộ Thất Sơn thì không thống kê được. Có thêm ông Tiến nhà cậu vào càng vui. Chẳng có gì phải bận tâm.
Tôi thuê một chiếc xe lôi đạp dạo phố. Người đạp xe hỏi có muốn tìm gái không? Vào khách sạn thì một trăm ba. Mượn đi hát Karaoke ôm cho đỡ buồn thì bo năm chục. Em không lừa đảo. Thấy anh buồn thì em giới thiệu thôi.
Tôi có buồn không? Gọi điện thoại cho Phượng, tôi bảo Tiến đã thành Phật rồi. Phượng nghĩ tôi rỡn chơi. Nhưng đến năm 2010, khi tìm Tiến ở Châu Đốc, tôi đã gặp Phượng trong đám người đứng nghe nhà tiên tri biểu diễn âm thanh trong vườn tượng. Phượng cho biết, chỉ vài ngày sau khi Tiến lên núi Két, cô đã đi tìm Tiến. Dòng dã suốt một tháng, Phượng tìm thấy Tiến trong một cốc nhỏ cũ nát của ông đạo già, nhung Tiến không cho Phượng gặp với lý do đã nhập thất. Cô nấn ná quanh núi để chờ gặp Tiến cho bằng được, nhưng sau bảy ngày tham thiền, đột nhiên Tiến biến mất. Cái cốc cũ nát cũng biến mất. Ngọn núi hoang vu, chỉ có cây với đá lởn vởn.
Phượng bảo từ đó em sống trong tâm trạng của một người con gái bỏ nhà theo trai, mặc dù không thấy trai đâu. Quanh quẩn sống dưới chân núi Sam. Làm đủ thứ nghề, trừ làm gái. Cuối cùng em phát hiện ra làm nghề bói toán là ngon ăn nhất. Em mua sách về học thuộc lòng, nói như két. Thấy ai đáng ghét thì hù cho sợ chơi. Người ta càng sợ mình càng có tiền.
Tôi cười bảo: “Em hù anh thử xem có đáng sợ không?”
“Em đâu có ghét anh.”
Tuy nhiên, Phượng cũng bảo tôi xào bài rồi rút ra một lá. Nhìn Phượng bày bài, tôi có cảm giác cô muốn coi bói cho tôi thật. “Số cậu lẽ ra phải ở nhà lầu đi xe hơi, nhưng vì chỗ cậu đang ở đó có một âm hồn quấy phá. Tôi nói cho cậu biết, sắp tới cậu sẽ gặp một tai nạn khủng khiếp. Vì thương cậu đường xa tới đây, tôi mách cho cậu biết, cậu phải vào trong núi tìm thày của tôi để thày giải cứu cho. Nếu cậu không đi được thì để tôi ra tay giúp cậu. Cậu có muốn tôi giúp không? Nếu cậu muốn thì mua ba trăm sáu chục bó nhang, một ít gạo và muối đem đến đây, tôi cúng sư phụ để sư phụ tôi bắt âm hồn đó về núi tu, cậu sẽ được an lành…”
Tôi thành tâm đưa cho Phượng ít tiền và bảo em cúng giùm anh. Cô ngần ngừ rồi cũng đút tiền vào túi. Em cám ơn anh.
N bảo số anh chết vì gái. Tôi cười nói anh chỉ có thể chết vì em. Năm 2015, một bệnh lạ xuất hiện làm mười triệu người chết chỉ trong vòng một tháng. N cũng mắc bệnh lạ đó. Và nàng yêu cầu tôi không được gặp nàng. Tôi bảo em chết thì anh chơi với ai, thôi cùng chết. Hằng ngày tôi vào bệnh viện thăm N, bất chấp sự lây nhiễm. Không phải tôi lãng mạn cổ điển, mà vì tôi cũng thật sự chán sống. Có người hỏi tôi tại sao các nhà văn Việt Nam không ai dám tự sát? Không ai có vấn đề gì sao? Thì tôi vẫn đâm đầu vào chỗ chết đấy thôi. Tôi vẫn tự hủy hoại mình trong ý thức rực sáng về sự vô nghĩa và đạp chân đến cái tối hậu của bùn lầy hiện hữu. Tự chấm dứt sự sống không phải là cách hành xử duy nhất cho một thái độ quyết liệt và tự do. Nhưng rồi tôi cũng không hiểu tại sao N không chết, tôi không chết. Sống tiếp trong một bối cảnh không đáng sống là một bi kịch lạ lùng nhất của con người. Tôi phải làm việc gấp ba lần để có không khí thở. Nhưng đó vẫn là thứ không khí đã được nhuộm màu. Năm 2005, tôi viết kịch bản với hy vọng có thể bán được cho các hãng phim tư nhân, nhưng tôi đụng phải các khái niệm về đạo đức của chính các nhân vật của mình, như khái niệm về “hãng phim tư nhân” chẳng hạn. Có lúc nó là hiện thực, nhưng có lúc nó chỉ là một khái niệm. Cũng tương tự như thế, “hội nhập” là một từ mang tính khẩu hiệu từ cuối thế kỷ 20, nhưng đến giữa thế kỷ 21, “hội nhập” mới trở thành một thực thể. Trong khoảng thời gian biến chuyển của một từ, sự nhập nhằng có thể đưa người ta đến những cái chết lãng nhách. N nói, năm 2015 em đã ở trong sự chết và em thấy các xác chết đang manh nha sống lại. Sẽ đến lúc các xác chết thống trị thế giới. Tôi cười bảo con người có lúc nào thoát khỏi sự thống trị của các xác chết đâu. N nói đây không phải vấn đề tinh thần. Hitler, Staline, Mao Trạch Đông, Roosevelt, Naponéon, Nguyễn Huệ, Hồ Chí Minh, Caligula… sẽ phân chia lại thế giới và cai trị loài người theo kiểu chuyên môn hoá về khả năng hoá thân.
Cũng trong năm 2015, người đàn ông trước đây đã xuất hiện trong vườn tượng dưới chân núi Sam biểu diễn âm thanh và loan truyền về một người sẽ xuất hiện sau ông ta… đã trở lại. Người ta gọi ông là ông Đạo Tiếng. Vẫn cái đầu trọc và cởi trần trùng trục, nhưng lần này ông ta chỉ biểu diễn hình thể. Nó hoàn toàn không phải là cái thứ performance khều khoào của các nghệ sĩ học đòi triết lý. Mỗi một phần thân thể, mỗi một tế bào đều cất tiếng nói và người xem cũng không thấy gì hơn đó là một thứ ngôn ngữ bản năng. Những bắp thịt nổi cuộn, uốn lượn, bò trườn. Thèm khát và phô trương. Rồi tất cả từng bộ phận thân thể đang kêu la kia trở nên hợp nhất. Nó tạo nên một sức mạnh hùng hổ và lấn át mọi cảm xúc để chỉ còn một cảm xúc duy nhất là bùng vỡ. Hành động. Không một ai đứng xem có thể đứng yên. Bắt đầu là họ quơ chân, khua tay. Sau đó họ lăn lộn dưới đất hoặc nhảy cẫng lên. Đám đông như một lũ động kinh dấn thân vào một bản thể sống động và phổ quát của dục tính.
Phượng nói với tôi, người đàn ông này nhất định là Tiến. Nhưng Tiến không nhận ai là anh em, bạn hữu, hay người tình của mình. Người đàn ông trong vườn tượng nói: “Tôi đến từ tương lai và chuẩn bị cho tương lai”. Có một số kẻ khôn ngoan biết rằng người đàn ông này có thể lợi dụng được, bèn tôn ông là sư phụ. Nhưng ông nói chỉ có bọn láo toét mới dám nhận mình là sư phụ và đuổi đám người cơ hội đi chỗ khác.
Tôi thật sự cũng không biết về Tiến nhiều lắm. Bởi vì tôi không quan tâm đến quá khứ của bạn bè. Khi chơi với một ai đó, tôi chỉ cần biết họ đang làm gì, thế nào. Trước khi gặp Tiến, tôi đã đọc được một số bài thơ của hắn và tôi thấy hắn là kẻ có thể làm cho người ta đau mắt, ngạt thở hoặc cảm cúm vì bầu trời lông gà lông vịt do hắn làm ra. Tôi không thích người tốt việc tốt mà chỉ thích người xấu việc xấu, nên chơi với Tiến. Việc Tiến bỗng nhiên bỏ tất cả vào núi tu đạo thật ra chỉ là bước nhảy sau cùng của một quá trình nhấp nhổm tự hủy, lăm le giữa hư vô và thường tại. Sau này tôi biết Tiến cũng đã có thời kỳ vào chùa và học nội công với một nhà sư. Tiến có thể coi tử vi và chữa được một số bệnh bằng phương pháp nội công. Có lần Tiến nói với tôi: “Số phận hay định mệnh của con người không phải chỉ là số phận, định mệnh của từng cá nhân mà nó có tính chất tập thể. Tôi đã xem nhiều bản tử vi và thấy rằng có một sự trùng hợp đáng ngại về một tai hoạ khủng khiếp vào giữa thế kỷ 21.” Phải chăng Tiến muốn tìm cách thoát khỏi tai hoạ ấy trước khi nó xảy đến?
Phượng kể: “Vào mỗi đêm rằm em lại chiêm bao thấy anh Tiến. Ảnh cởi trần trùng trục y như cái ông trong vườn tượng. Ảnh ôm em và khuyên nhủ em đừng vay mượn gì của thần thánh. Vì thần thánh cho vay nặng lãi lắm. Lúc đầu em cũng không hiểu ý ảnh là sao. Nhưng càng sống em càng thấy là thần thánh còn khó chơi hơn dân ma cô tú bà. Nợ nần dân ma cô tú bà cùng lắm thì chết là hết. Nhưng nợ thần thánh thì oan trái tới muôn đời sau. Em nghe nói ở miền Bắc có Bà Chúa Kho, còn ở Châu Đốc có Bà Chúa Xứ, cả hai bà đều cho vay tiền làm ăn. Em không vay tiền nhưng có khấn với Bà Chúa Xứ rằng nếu Bà linh thiêng thì xui khiến cho anh Tiến quay trở lại. Trong giấc mơ anh Tiến trách em tại sao lại muốn ảnh rời bỏ con đường đã chọn, rằng Bà Chúa Xứ có thể sẽ làm hỏng sự nghiệp tu hành của ảnh, rằng các thần thánh cũng tranh dành quyền lực khốc liệt còn hơn con người nhiều lắm… Tuy nhiên, em thấy rõ một điều rằng em và anh Tiến có nợ nần với nhau từ kiếp trước, nên kiếp này em phải đoạ đày vì ảnh. Tại sao ảnh không cho em trả nợ ảnh?”
Tôi thầm nghĩ, không phải em nợ nó mà nó bỏ chạy trốn nợ em, nhưng tôi nói: “Tiến nó muốn em dứt bỏ nghiệp. Dứt bỏ luân hồi.”
Sau lần đó, gần như tôi không còn gặp Phượng nữa. Có thể Phượng cũng đã vào núi và trú thân trong một cái cốc nào đó. Người ta đồn trong núi Két có một bà thày bói nói không sai điều gì. Tôi cũng nghe đồn có rất nhiều ông lớn bà lớn thường vào núi Két coi bói.
Năm 2030 có một hội nghị toàn cầu về các hiện tượng bí ẩn. Cả sự minh triết và mù quáng đều được hội nghị đề cập tới. Đã có rất nhiều dẫn chứng đáng tin cậy cho thấy đang có một sức mạnh vô hình chi phối cuộc sống con người theo một chiều hướng khổ hạnh. Vào thời gian đó, N bỗng dưng lãnh cảm. Nàng từ chối mọi cuộc làm tình và tuyệt đối không vui chơi giải trí. Tôi cho rằng đó là những biểu hiện tâm sinh lý của giai đoạn tiền mãn kinh, nhưng N bảo không phải. Có một tiếng nói khác trong N ngăn cản nàng làm theo ý muốn, ức chế cả tinh thần lẫn thể xác. Một thống kê cho thấy gần 40% phụ nữ có vấn đề về tâm thần và tỉ lệ người điên tăng lên 20% mỗi năm. Tôi có cảm giác N cũng đang cận kề điên loạn. Giữa lúc bối rối và lo lắng, tôi nhớ đến Phượng.
Đưa N xuống Châu Đốc chơi, tôi đi lại cái hành trình của 25 năm trước. Bến phà Năng Gù vẫn hiu hắt trong tiếng máy nổ của chiếc phà cũ kỹ. Tôi nghĩ nếu không có tiếng máy nổ xình xịch ấy, dòng sông Năng Gù không thể chảy và những cô gái quanh đây sẽ mãi mãi trinh tiết.
Chiếc phà còn thì tất nhiên những gã xe ôm cũng vẫn còn. Tôi thuê hai chiếc vào An Hoà Tự. Thày Huỳnh Phú Sổ vẫn hai mươi tuổi thông minh, đẹp trai trên bàn thờ. Tổ đình được công nhận là di tích quốc gia. Dì của Phượng vẫn nấu rượu và nuôi heo. Tôi nhắc lại chuyến đi năm xưa, dì của Phượng vẫn còn nhớ và mời tôi với N ở lại chơi. Dì nói: “Hồi đó tôi cứ nghĩ là sẽ được ăn cưới Phượng, nhưng không ngờ Phượng lại bỏ đi biệt tích. Tội nghiệp nó. Cái anh bạn của anh chắc giờ này bộn con cháu he?” Không hiểu dì của Phượng có ý muốn thăm dò tôi về tung tích của Phượng và Tiến không, tôi dè dặt nói: “Bạn tôi không lấy vợ. Cậu ấy đi tu rồi.” Dì của Phượng vui vẻ: “Vậy là Đức Thày đã cảm hoá ảnh”. Tôi nghe như Tiến vừa giải thoát. Trong một cảnh giới khác, tôi thấy Tiến đang đứng giữa các loài thú hoang. Hắn cũng hoang dã như thú. Không phải giải trừ tinh thần. Không phải lược giản sự sống. Mà nguyên sơ.
Trước khi vào núi, tôi và N tìm ăn tất cả các loại mắm, từ mắm thái, đến mắm cá linh, mắm cá trèn, mắm bò hóc, mắm ba khía… Ăn mặn khát nước. Chống lại sự thoái hoá cảm giác. Thúc đẩy nhân quả.
N tự thắp một nén nhang dưới chân núi cho hai linh hồn. Coi như một lần chết.
Chúng tôi đi theo một lối mòn được khoảng năm trăm thước thì bị những tảng đá bít đường. Leo qua các tảng đá, chúng tôi bám vào cành cây lần mò bước tới. Đường càng lúc càng khó đi. Chúng tôi định hướng bằng cách leo dốc. Mệt muốn đứt thở. Nhưng không thể dừng lại, quay về. Ít nhất một lần trong đời đi tới tận cùng. Cho dù là cái tận cùng không đâu. Tôi nghĩ đến đoạn đường thánh giá của Chúa. Đi hết số phận. Đi cạn mồ hôi và máu. Cả tôi và N đều lờ mờ hiểu ra “ĐI” là một giải pháp. Chúng tôi trở nên phấn chấn. Cái cản ngại nội tại dần dần mất đi. Cái cản ngại bí ẩn của một tiếng nói khác dần dần rõ nét. Và không còn cách nào khác là buộc phải triệt hạ, thủ tiêu, giết chết cái “tiếng nói khác” bí ẩn kia đi, nếu N muốn thoát khỏi tình trạng lưỡng nan bất khả dung hợp làm tê liệt mọi cảm xúc.
Chúng tôi nhìn thấy tảng đá lớn nhô ra khỏi sườn núi. Đó là mũi Két. Chênh vênh. Tôi nhớ tới lời Phượng nói: “Không ai có thể leo lên tới đó và không ai đứng được trên cái mũi Két ấy, trừ Thày. Mỏm núi linh thiêng sẽ hất nhào xuống đất bất cứ ai còn nghiệp chướng.” Tôi nói với N: “Mình phải lên tới đó.” Khoảng cách không xa, nhưng tôi nghĩ phải đi vòng lên đỉnh núi rồi mới bước xuống được tảng đá ấy. Thế là lại bước, tôi không còn khái niệm về thời gian, phần vì không nhìn thấy mặt trời, phần vì mệt. Có lúc tôi như mộng du. Một tiếng nói của chính tôi thúc giục: Mi phải đi cho đến khi tắt thở. Tôi vừa lết vừa kéo N theo. Bỗng nhiên tôi nhận ra một điều khác sáng rỡ trong tôi: Càng đi tôi càng thấy mình nhẹ. Tôi đã tháo bỏ và trút cạn tôi cho con đường. Đúng lúc tôi cảm thấy mình không còn gì và sẽ lịm đi, tôi nhìn thấy cái mỏm đá rộng ngay trước mặt. Một khoảng bằng phẳng to bằng cái chiếu, nhẵn thín. Ở giữa có vài chỗ lõm như ai đó đã đặt cái mông của họ xuống cát ẩm. Tôi quay sang N. Nàng cũng đang sững sờ, nhưng rồi bất ngờ, nàng reo lên.
Cho đến rất lâu sau này, tôi không quên được cảm giác lúc ấy. Nó vẫn là một thứ cảm giác nước đôi. Chết đi và sống lại. Sau tiếng reo của N, chúng tôi nghe thấy nhiều thứ tiếng khác. Tiếng bước chân và tiếng nói chuyện của những kẻ hành hương. Tôi tự hỏi không biết mình ảo giác hay đã thật sự đi hết một con đường? Tôi nhìn N và tôi biết không còn điều gì quan trọng. Nàng tươi cười và có chút hóm hỉnh.
N nói với tôi: “Anh có biết lúc ấy em thật sự nghĩ gì không?” Tôi lắc đầu. “Bỗng dưng em nghĩ, nếu như em có con với anh thì chẳng có chuyện quái gì xảy ra. Em sẽ như mọi người đàn bà khác cơm nước giặt giũ quét nhà và linh tinh đủ thứ việc vặt. Và lúc ấy, anh nhớ không? Em đã hôn anh và muốn khóc”. Nhớ nụ hôn của N và cách N hôn tôi, tôi tin rằng N đã thoát được nguy cơ biến dạng bởi một “tiếng nói khác”.
Nhưng thật ra tôi biết mọi thứ đang biến dạng, kể cả tôi. Và tôi nhìn sự biến dạng một cách e dè, bởi vì vẫn có một điều gì đó không thuộc về mình. Cuối năm 2005, một loạt hiện tượng “Đức mẹ khóc” xảy ra. Những giải thích về cái dấu vết lõm sâu trên má tượng Đức mẹ như một dòng chảy của các giới chức tôn giáo cũng như chính quyền đều không thoả đáng. Những kẻ ăn mày phép lạ được hả hê và những kẻ phỉ báng niềm tin cũng được thoả chí. Người sống vẫn phải sống và kẻ chết vẫn cứ chết. Tiếng đọc kinh dưới chân tượng và tiếng hát của các ca sĩ hạng hai trong quán cà phê hoà vào không gian vô tận. Các thiên thần trên mái nhà thờ vẫy cánh. N nói em phải ăn một cái gì đấy cho cứng bụng. Tôi bảo cóc, ổi, bắp rang, đậu phộng da cá đồng hành tới tương lai. Chúng ta còn đầy một thế kỷ trước mặt. Và chúng ta sẽ phải khóc trước ĐI.COM. Tôi đã biết gì về ĐI.COM ở thời điểm năm 2005 khi ĐI.COM chưa xuất hiện? Tại sao tôi lại hỏi? Tại sao tôi buột miệng nói ra? Tôi không hiểu được khi viết những dòng này người tôi lại ớn lạnh.
ĐI.COM cho tôi đến gần với cái chết trong lúc tôi chờ N tới ở quán cà phê quen thuộc. Khởi đầu là một chút cồn cào trong bụng. Sau đó choáng đầu. Cảm thấy không ổn, tôi ra lấy xe với ý định sẽ về cơ quan nghỉ một chút. Nhưng chỉ đi được một quãng, tim tôi nặng và trì trệ đập, choáng váng muốn ngã. Tôi ngừng xe, ngồi bệt xuống đường gọi điện thoại nhờ bạn bè đưa đi cấp cứu. Không hốt hoảng, tôi tự nhủ không được chết, không được để cho lịm xuống. Cùng lúc tôi cầu nguyện, mặc dù tôi vốn vô đạo. Lạy Chúa cứu con. Tôi nghĩ đến ĐI.COM. Nghĩ đến N. Tôi cảm thấy cái chết ngấp nghé. Quả tim sẽ thôi không đập nữa và đầu óc sẽ thôi không nghĩ gì nữa. Tôi yêu hư vô. Và hư vô sẽ đón nhận tôi, hoà tan tôi vào nó. Sẽ vĩnh viễn không là gì. Vĩnh viễn cô đơn.
Nhưng rồi ĐI.COM buông tha tôi, trả tôi lại cho cuộc đời. Tôi nói với N, anh muốn đến một nơi nào đó, nghỉ và quên đi những điều không cần nhớ. Tôi cảm thấy có Tiến cùng đi với tôi. Những đứa bé bắt cua biển ở Vĩnh Châu có cả ba dòng máu Việt, Tàu, Miên tò mò nhìn chúng tôi khi chúng tôi cũng tò mò nhìn sự lam lũ của chúng giữa biển bùn lấp xấp. Tôi muốn chụp hình một cô bé có nụ cười đẹp. Một đứa láu lỉnh bảo “hãy cười cho hết hàm răng”. Ừ nhỉ, đã bao giờ tôi cười hết hàm răng như cây khế đồi cao trổ hết bông của Phạm Công Thiện? Tôi rơi vào một cơn mệt u tối. Tiến truyền nội lực cho tôi bằng cách áp hai tay trên đầu tôi. Một hơi ấm toả ra từ hai bàn tay Tiến xâm nhập vào tôi. Sao tôi lại mong manh thế? Những đứa bé lấm lem đang lún xuống bùn. Tôi biết chúng sẽ đi qua đám bùn cạn ấy để ra biển, không hề gì. Và chúng vẫn cười hết hàm răng cho nỗi vất vả cơm áo và cái bất khả vãn hồi của số phận.
Trong khi tôi ngậm miệng đi qua những cánh đồng ngập gió, những con chó làm mồi trong quán cầy tơ bên đường, những đám cưới giả cho một cô gái để đẹp mặt với bà con chòm xóm, những con cua biển bé xíu sẽ vướng vào vợt của những đứa bé và chúng sẽ có một cuộc đời mới. Tiến bảo không được quên con chó là để ăn. Thay đổi phẩm trật ấy là một sai lầm của văn hoá. Tôi đã có cảm giác mình được ăn một thứ thịt sạch ở một quán nhậu trên đường vào Vĩnh Châu. Cô gái nằm trên võng mời: “Các anh sang quán em nhậu ca cổ.” Tiến bảo cái này mới là nhậu văn hoá. Trong lúc cô gái ca vọng cổ, bàn tay Tiến giao lưu văn hoá trong áo cô ta. “Vô đi anh!” Vô thì vô. Cô gái bảo nếu anh giúp em trả nợ cho má thì em sẵn sàng theo anh. Những con tôm búng mình từ dưới ao lên bàn nhậu. Cô gái nói tiếp, em sẽ hầu hạ anh, em sẽ làm bất cứ điều gì anh muốn. Những con cua biển bé xíu sẽ được bán cho các trại giống. Nhưng một ngày nào đó khi ĐI.COM đến, cô bé có nụ cười hết hàm răng sẽ bỏ biển cho trùng khơi lên bờ trang điểm rồi vào quán giao lưu văn hoá.
N đang nghe nhạc ở quán Yokos, nhắn tin cho tôi: “Anh ơi, làm thế nào để điên?”
Tôi cảm thấy một nỗi khẩn thiết phải thoát khỏi sự nhàm chán của N. Như Muội. Quăng tấm thân mình vào giữa lũ đàn ông và ngồi trên miệng họ. Muội vẽ những con quái thú bằng sợi dây kẽm gai và phơi chúng giữa nắng, tìm một phiên bản trên cái bóng của chính nó, rồi bỏ quên chúng trên vỉa hè. Muội bảo cái cảm giác ngồi trên miệng một gã đàn ông cũng giống như cho con bú. Nhưng em không muốn anh nói đến tình dục. Chỉ có ĐI.COM và để cho ĐI.COM hành động. Tôi bảo ĐI.COM là đấng tự có, bởi thế ĐI.COM không hành động theo cách của vật được thụ tạo.
Muội thường ít khi mặc áo lót vì Muội có một bộ ngực đẹp. Muội nói em thích tai nạn. Nhưng đã không có một gã đàn ông nào hiếp Muội. Cuộc đời Muội như một dòng nước, nó chảy tới những chỗ trũng. Muội muốn làm ngược lại. Em đã nhìn thấy một đứa vừa uống em xong thì lăn đùng ra bất tỉnh. Em cũng muốn được bất tỉnh, nhưng em tỉnh táo quá, em như con quạ rỉa những xác chết.
Tôi nhắn tin lại cho N: “Cứ làm những gì em thích.”
Như thế là điên. N đã uống gần hết một chai Bacardi. Em không thể hứng tình được. Nhưng dẫu sao em cũng phải vất nốt cái quần lót cho một ai đó.
Ở Vĩnh Châu, ngày hôm nay có một cô gái đi lấy chồng. Chồng cô không phải Tiều hay Miên. Người đàn ông ấy nói: “Tôi cũng là dân Sài Gòn. Trước đây tôi ở quận 3.” Bây giờ hắn có vài vuông tôm, mỗi năm kiếm tiền tỉ. Cô dâu đeo vàng sái cổ. Cũng ngày hôm nay, Muội đá đít thằng nhóc bảo mày không biết đụ thì kiếm mấy con đĩ nó dạy cho, đừng làm thơ làm thẩn. Muội dùng than vẽ trên mặt đường những cái mồm vỡ. Nguyên nhân không được lý giải. Muội bảo ai thích thì cứ vẽ thêm. Có một người làm thơ khác vẽ những cái lông chim cắm vào cái mồm vỡ. Hắn tuyên bố rằng thơ là một tình trạng bệnh lý và người làm thơ là những kẻ bệnh hoạn. Muội nói chỉ vẽ thôi thì chưa đủ, cần phải biết xoá cái mình vẽ. Và Muội đã ngồi xuống đái vào những cái mồm vỡ mình đã vẽ.
Tôi thích vuốt những sợi lông măng trên cánh tay Muội. Muội bảo em muốn làm cho N vui. Ba chúng tôi đi uống rượu. N nói em thèm ăn trứng gà. Nhưng toàn bộ gà đã bị giết vì cúm. Tiếng cục tác chỉ còn trong ký ức. Tôi vẽ con gà trên bàn bằng ngón tay chấm nước. Muội nói em thích những thứ nghệ thuật phù du. Nó như một cuộc làm tình ngắn ngủi nhưng đầy cảm xúc. N đổ rượu vào lòng bàn tay rồi xoa lên mặt Muội, nói: “Trong uống ngoài thoa, mình muốn thấy Muội lên cơn.” Muội bảo chẳng cần phải cơn cớ. Muội ôm hôn N, rồi hôn tôi.
Tôi gọi những ngày như thế là ngày Muội.
Muội bảo em không thể chịu đựng nổi cái niềm tin của người ta vào thế giới này. Năm 2015, Muội đã cắt gân máu tự tử. Máu của Muội có mùi rượu và không đông. Năm 2023, tôi gặp một người y như Muội. Cô ấy cũng vẽ và viết. Cô ấy nói tôi không thích cách người ta tin vào ĐI.COM. Nhưng đột ngột cô ấy qua đời, tôi không biết cái chết của cô ấy có phải do ĐI.COM trừng phạt hay không. N nói em có cảm giác ĐI.COM đang trương nở và vì thế nó ép các cảnh giới khác co lại. Cả không khí cũng bị dồn ép trở nên khó thở. Những người đứng dưới lá cờ đen hô hoán phải giết người này người nọ. Và họ kéo nhau đi tìm kẻ đáng phải chết như thể đó là người gây ra tình trạng khó thở của họ. Bao giờ người ta cũng tìm thấy xác nạn nhân trong tư thế nằm sấp và không có bất cứ một dấu tích nào chứng tỏ có sự mưu sát. Các nhà chức trách cho rằng nạn nhân sợ hãi mà chết, nhưng các xét nghiệm pháp y đều phủ nhận điều đó. N nói em nghĩ rằng họ đã chết trong sự thống hối. Tôi hỏi tại sao lại phải thống hối khi họ không hề là tác nhân gây ra sự khó chịu cho người khác. N bảo đấy chính là cách hành xử của ĐI.COM.
Năm 2006, Muội nói em muốn có con với anh, đừng sợ em ràng buộc. Tôi bảo tôi không ngại ràng buộc nhưng tôi sợ có con. Tôi đã nhận thấy những dấu hiệu can thiệp của ĐI.COM vào đời sống mình và tôi không muốn ĐI.COM có thể làm điều gì đó với bất cứ một sinh linh nào khởi phát từ tôi. Tuy thế, tôi cũng đã làm tình với Muội và tôi cảm thấy khác thường. Tôi thật sự không biết Muội như thế nào. Trước khi Muội chết vào năm 2015, nàng đã đưa tôi đến xưởng làm việc của nàng. Đó là một kho chứa đầy những máy móc cũ. Muội bảo thật ra em không muốn tạo dựng nên sự sống, mà em chỉ muốn chứng kiến sự sống. Bây giờ đang là năm 2005, tôi tin rằng Muội thật sự yêu tôi. Và tôi biết rằng không phải tôi muốn viết gì thì viết, muốn dựng nên các nhân vật như thế nào cũng được. Muội là cuộc đời tôi sẽ là. Bởi thế Muội không là nhân vật tôi hư cấu. Trong kho chứa máy móc cũ năm 2015, Muội đã cho tôi xem những tác phẩm của nàng. Tôi nhìn thấy tôi trong đó. Dị dạng và mơ mộng. Muội bảo anh chỉ đáng là thế. Anh là một loại phế liệu, nhưng em muốn phục hồi anh bằng cách anh phải vất đi tất cả những gì đã viết. Rồi nàng lột quần áo tôi, nhìn ngắm. Tôi hỏi đùa: “Anh có phải là người em chờ đợi không?” Muội không nói gì. Đêm hôm ấy Muội tự sát. Cuộc đời tôi bị gián đoạn. Khoảng trống Muội để lại tôi vẽ vào đó những vệt màu u ám, phân cách tôi thành một tôi khác.
Tôi không thấy vẽ là một động thái có thể hoá giải được những ức chế từ cái chết của Muội để lại, tôi cũng không tin mình có thể sáng tạo được điều gì, nhưng tôi vẫn vẽ như thể tôi sống tiếp những ngày Muội. Và tôi với Muội vẫn ngày ngày lang thang các quán cà phê, nhìn ngó chung quanh. Tôi cảm thấy cuộc sống chậm lại. Bản thân tôi cũng chậm lại. Áp huyết tụt và đầu óc tôi tù mù choáng váng. Tôi không tập trung được nữa. Đã có một cái gì đấy xâm lấn vào trong đầu, tôi không muốn nghĩ ĐI.COM đã chi phối tôi, làm cho tôi ù ù cạc cạc. Quả thật, tôi thấy mình suy sụp. Nhưng một mặt khác, sự sống chậm lại làm cho tôi bình tĩnh, thanh thản hơn. Tôi không còn cảm thấy phải ganh đua về bất cứ điều gì. Đâu là chất lượng cuộc sống thật, tôi không biết. Nhưng tôi thấy rõ tôi hơn, trong từng hơi thở, từng bước đi chếnh choáng. Tôi thấy tôi mong manh. Tôi thấy tôi gần gũi với cái chết và có thể chết bất cứ lúc nào. Không sợ hãi, nhưng tôi cũng không muốn sống như đang chờ đợi cái chết.
Tình trạng sức khỏe của tôi chỉ thật sự được cải thiện sau năm 2016 khi tôi không nghĩ đến ĐI.COM nữa và cũng không nhớ Muội nữa. Có một người đàn bà mang theo ánh sáng đức tin của Phật pháp bước vào đời tôi. Tôi thích gọi Diệu An là Phật mẫu, nhưng Phật mẫu Diệu An bảo em chỉ là cái bóng của anh. Tuy nhiên, tôi lại thấy cái bóng ấy trùm phủ lên tôi, cho tôi một cảm giác an bình, mặc dù Diệu An có một xuất xứ bí ẩn, tôi không thể hiểu. Đôi khi tôi cũng hỏi nàng: “Tại sao em đến với anh?” Không bao giờ Diệu An trả lời. Có một điều gì đấy sâu xa thuộc về sự bất khả của nhận thức, tôi cảm thấy mình được phù trì, dẫn dắt đến sự đơn giản.
Trong lúc ấy ở vùng Bảy Núi xảy ra hiện tượng đá chạy. Không ai nhìn thấy đá di chuyển, nhưng sau mỗi ngày, các tảng đá lớn thay đổi vị trí như những quân cờ. Người đàn ông trước kia từng xuất hiện trong vườn tượng dưới chân núi Sam biểu diễn âm thanh và hình thể trở lại. Dường như ông ta đã mù, nhưng không phải vì thế mà không thấy đường, ông ta ngồi thiền bên cạnh các bức tượng, mông cách mặt đất ba tấc. Hàng vạn người tò mò đến chiêm ngưỡng ông và tôn vinh ông là Phật sống. Ông nói Phật sống không phải là Phật. Không một ai giác ngộ điều ông ta nói, họ tiếp tục kéo đến thắp nhang xung quanh chỗ ông ngồi. Sau bốn mươi chín ngày, ông biến mất. Chỗ ông ngồi để lại một vết lõm. Người ta tiếp tục thắp nhang xung quanh chỗ lõm màu nhiệm ấy.
Tôi bị thúc đẩy bởi một tình bạn với Tiến, vì thế tôi cũng đã đến vườn tượng, nhưng không kịp gặp người đàn ông ấy. Vẫn là Phượng vỗ vai tôi từ phía sau: “Anh cũng là người hiếu kỳ sao?” Tôi bảo không, tôi cảm thấy có một tiếng gọi. Hỏi thăm Phượng bây giờ sống thế nào? Phượng bảo em khám phá ra rằng em chỉ là một thứ tín đồ. Và không bao giờ bước qua khỏi được giới hạn ấy.
Diệu An trách tôi đi Châu Đốc mà không cho An biết. Tôi nói có những nơi, những điều, những việc có thể dành cho người này mà không dành cho người khác. An bảo tôi không nên phân biệt như thế. Biết làm sao được, Châu Đốc với tôi là Tiến và Phượng.
Năm 2020, tôi đã về ở nhà Phượng cả tháng, khi ấy mẹ Phượng đã mất. Phượng đón tôi như người thân duy nhất. Dù thế nào tôi cũng không thể là người thay thế Tiến. Phượng đã xuống núi và sống cuộc sống của một người đàn bà bình thường với một bè cá trong căn nhà cũ của mẹ. Phượng nói có lúc em tưởng có thể rũ bỏ tất cả để sống như mình muốn, nhưng rồi em đã quay về. Em nhận ra rằng em vẫn còn một số cái để gìn giữ.
Năm 2005, trong mùa lũ. Nước ngập lối vào nhà Phượng. Tôi và Tiến chỉ nhìn thấy thấp thoáng một mái tôn trắng loá giữa những lùm cây màu xanh. Năm 2020, cũng mùa lũ, nhưng con đường đã được tôn cao, căn nhà cũng đã được xây lại, không còn cái mái tôn trắng loá. Nhưng Phượng bảo công việc của một nông dân như em thì chẳng có gì thay đổi. Lúc rảnh vẫn mắc võng nằm nghe cải lương. Tôi hỏi còn việc tu hành của em ra sao? Phượng bảo gọi là tu cũng được, không tu cũng được. Không phải em muốn nói Phật tại tâm. Tôi hiểu điều ấy. Và tôi thấy thương cảm. “Không kể giai đoạn em sống với thằng bồ đầu tiên như em đã kể cho các anh nghe, hơn mười năm lăn lóc, em vẫn còn trinh đó.” Tôi sững sờ. Tại sao Phượng lại nói với tôi điều ấy?
Hàng ngày tôi ngâm mình dưới sông. Tôi cảm thấy vui khi nghĩ rằng thằng nhỏ của tôi cũng bơi lội tung tăng cùng đàn cá nhỏ. Phượng cũng tắm sông. Mọi thứ được rửa ráy dưới sông. Ở nhà Phượng, ngoài tôi còn có một con chó. Con chó không phải để giữ nhà vì gặp ai nó cũng vẫy đuôi mừng và lân la liếm láp. Con chó rất sạch. Phượng yêu chó. Ngoài những con cá dưới sông, trong đìa, có lẽ con chó là vật cưng nhất của Phượng. Tôi thường thấy Phượng ôm con chó và vuốt ve nó. Tôi chẳng có lý do gì để ghen với nó, nhưng đôi khi nó lại tỏ ra ghen với tôi. Đã từng hơn một lần con chó đòi nhảy xổ vào tôi khi tôi cạo gió cho Phượng. Tôi nghĩ, trong ngôi nhà không có đàn ông, không có đàn bà, trẻ con nào khác mà thiếu con chó thì Phượng buồn lắm.
Một hôm Phượng nói với tôi: “Anh có thể ở lại bao lâu cũng được.” Tôi cảm thấy ngay rằng mình phải đi, trước khi quá muộn. Tôi nói: “Anh không thể ở đâu quá lâu”.
N xuống đón tôi. Chúng tôi đi qua Sóc Trăng chơi. N muốn làm một phim về sự hợp chủng ở đây. Tôi nhớ có lần Tiến nói: “Ỡ chỗ nào người Hoa chọn làm đất sống, thì đó là nơi tốt nhất về mặt địa lý kinh tế”. Phần tôi, tôi chỉ thắc mắc tại sao đàn ông Tàu lại thích lấy vợ Miên hơn con gái Việt? Có thể tôi đã chỉ nhìn thấy sự lai giống giữa Tàu và Miên rõ ràng hơn Tàu và Việt. Bản thân các cô gái Miên cũng dễ tìm chồng đức hạnh. Hàng ngày các sư trẻ đi khất thực, cứ chọn một sư mình thích cúng dường bồ tát, chờ ba năm sư hoàn thành nghĩa vụ tu hành hoàn tục, đón sư ở cổng chùa. Thế là xong. N bảo anh bá láp quá. Tôi cười, anh nói có gì không nghiêm chỉnh đâu? Chi tiết này em cho vào phim hơi bị đắt.
Chùa Mã Tộc nằm lẫn trong tiếng dơi chi chít. N ngồi dưới bậc thềm bên cạnh tấm bia khắc tên người đã cúng dường sửa chữa cái bậc thềm ấy với địa chỉ tận nước Mỹ. Cái cổ kính thuần nhất nguyên thủy gần năm trăm năm được trùng tu bằng cách vá víu cái hiện đại thô lậu của những kẻ mua ơn phước. Tôi cảm thấy một điều kỳ lạ là trước những công trình nghệ thuật đáng kính trọng thì những người kế thừa để gìn giữ bao giờ cũng là những kẻ ngu dốt và phá hoại. N bảo anh đừng quan tâm đến chuyện ấy, hãy nghe tiếng dơi gọi nhau. Chúng vẫn gọi nhau từ năm trăm năm trước và chúng sẽ tiếp tục gọi nhau hàng ngàn năm nữa nếu những ngọn cây cao tít kia không bị đốn. Nhưng có một chuyện buồn, vào một ngày mùa đông lạnh bất thường, con dơi chúa có sải cánh hơn hai thước đã rơi thẳng xuống đất và không bao giờ bay lên được nữa. Các vị sư trong chùa Mã Tộc đã chôn cất nó tử tế và làm cho nó một lễ cầu siêu. Trong ba ngày, ngôi chùa không có một âm thanh nào, kể cả tiếng chó, gà, ngoại trừ tiếng cầu kinh trầm buồn của các vị sư. Đến ngày thứ tư, người ta nghe thấy có một cơn gió lớn quét ngang, bỗng nhiên hàng ngàn con dơi đang treo trên ngọn cây đồng loạt biến mất. Liền sau đó ngôi chùa cũng đổ sụp. Sự việc xảy ra bốn năm sau ngày chúng tôi thăm chùa. Không có một vị sư nào chết trong tai hoạ này, ngôi chùa được xây dựng lại, to hơn. Tuy nhiên, từ đó không ai gọi chùa Mã Tộc là chùa Dơi nữa.
Vào ngày bi thảm ấy, tại chân núi Cấm, ông Đạo Tiếng xuất hiện. Ông ta nói: “Một thời đại mới đã bắt đầu. Thày của ta đã được giải thoát khỏi thời gian và ngài sẽ đến giữa chúng ta trong một hình dạng mới, bất khả ngộ, bất khả tri nhưng sẽ chi phối toàn bộ thế gian.”
Không ai quan tâm đến ông ta, bởi vì số người có vấn đề về tâm thần vẫn không ngừng tăng lên.
Trong chùa Mã Tộc năm 2020, N đã đứng lên khỏi bậc thềm và nàng đi theo những cô gái Miên ra phía sau nhà hội trường. N nhìn thấy mấy chuồng nuôi chim bồ câu. Các nhà sư ăn chay và tất nhiên không sát sinh, vậy thì nuôi chim bồ câu để làm gì trong chùa? N tự hỏi. Có một nhà sư đã nhìn thấy N thắc mắc, ông ta đến bên cạnh N: “Bà muốn biết tại sao nhà chùa nuôi chim?”
“Vâng.”
“Nó là của một sư trong chùa.”
“Chắc hẳn thế.” N cười.
“Chúng tôi không nuôi chim để phóng sinh. Lại càng không phải để ăn thịt. Mà chỉ để đưa thư thôi.”
“Tôi không tin là chim đưa thư thì nhanh chóng và đáng tin cậy hơn internet.”
-“Bà nói đúng. Nhưng vị sư ấy vẫn muốn đưa thư bằng chim.”
-“Một thú chơi à?”
-“Không. Chúng tôi không chơi hay một cái gì đó tương tự.”
-“À, tôi hiểu rồi. Làm gián điệp chứ gì.”
-“Bà ác khẩu đó. Nhà chùa không có gì phải giấu. Những lá thư của nhà sư ấy được gởi đến núi Cấm, trên ngọn một cây bồ đề. Bà có thể đến đó đọc.”
-“Thật sao?”
-“Bà biết là chúng tôi phải giải trừ khẩu nghiệp.”
N nói với tôi: “Chúng ta phải đến đó.”
Tôi nghĩ muốn tìm một cây bồ đề thì cách dễ nhất là vào một ngôi chùa. Ở núi Cấm, chùa lớn nhỏ nào cũng có cây bồ đề. Tôi hỏi một vị sư: “Cây bồ đề nhận thư của chim bồ câu ở đâu?” Vị sư ấy hỏi lại tôi: “Theo anh, cây bồ đề nào biết nhận thư?” Tôi nói: “Cây bồ đề nào nhận thư cũng được.” Vị sư ấy nói tiếp: “Vậy thì anh đi tìm làm gì?” N nói: “Chúng tôi muốn đọc thư của một vị sư nuôi chim bồ câu.” Nhà sư có đôi mắt tinh nghịch cười bảo: “Tại sao bà không nghĩ người ta nuôi chim bồ câu để thịt?”
Tôi chợt nhận ra, chúng tôi đã tò mò ngu ngốc.
Trên đường về, ghé thăm Phượng và kể cho Phượng nghe câu chuyện về nhà sư nuôi chim bồ câu đưa thư, rằng chúng tôi đã đi tìm cây bồ đề nhận thư như thế nào trên núi Cấm. Phượng bảo không phải ai cũng có thể tìm thấy cây bồ đề ấy. Tôi hỏi: “Em đã tìm thấy nó?”
-“Dạ. Và vì thế em đã quay về nhà.”
-“Em đã đọc được điều gì trên những lá thư ấy?”
-“Cũng không có chi lạ. Chỉ là mấy câu chú trong kinh Phật.”
Tôi đưa N ra bến phà Thị Đam. Chiếc phà từ hơn một trăm năm trước vẫn nổ ròn rã khuấy động bầu trời và nó còn làm đục nước sông Năng Gù thêm hai mươi năm nữa trước khi người ta xây một cây cầu bắc vào thánh địa Hoà Hảo. Trên phà, N bỗng nôn oẹ giống như người ốm nghén. Về tới nhà, N vẫn tiếp tục nôn ọe. Tôi hỏi: “Không lẽ em có thai?” N nói: “Em cũng không biết nữa, nhưng chắc chắn không phải là cảm mạo phong hàn.” Tôi đưa N đi thử thai. Bác sĩ bảo không có gì. Nhưng sau đó bụng N vẫn to dần lên. N đi siêu âm, chụp X quang, trong bụng N vẫn chỉ là một khoảng trống. Các bác sĩ võ đoán N bị trướng bụng. Mọi thứ thuốc thang chẳng tích sự gì. Chín tháng mười ngày sau ngày N và tôi đến chùa Mã Tộc, thêm ba ngày nữa trên núi Cấm, cộng hai ngày ở nhà Phượng trong thánh địa Hoà Hảo, tổng cộng chín tháng mười lăm ngày, cửa mình N xì ra một tiếng lớn giống như đánh rắm, không mùi. Cái bụng trướng từ từ xẹp xuống.
Khi ấy, dưới chân núi Cấm, người đàn ông chuyên tung tin đồn nhảm theo cách nói của một vài tờ báo lại xuất hiện. Ông ta tuyên bố: “Đấng hộ pháp của Thày ta đã đến trong hình dạng một cơn bão để dọn đường.” Ông ta lải nhải một câu duy nhất đó suốt ba ngày liền.
Bắt đầu có những đứa trẻ mất tích không dấu vết. Các cơ quan điều tra bó tay. Dân chúng tìm cách giải thích sự việc theo cách của họ. Có người cho rằng bọn trẻ bị bắt đi do một tổ chức bí mật muốn đào tạo một thế hệ vệ binh mới. Có người lại nói bọn trẻ bị ăn thịt bởi một người vô hình. Dù bất cứ vì lý do gì thì người ta cũng không để trẻ con ra đường một mình. Tuy nhiên, cứ khoảng một tuần lại có một đứa trẻ biến mất. Đặc biệt chỉ xảy ra với trẻ con da vàng và chuyện đó diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Nỗi sợ hãi làm nhiều phụ nữ không dám đẻ.
Chỉ có N mới để ý đến chi tiết trước khi một đứa trẻ mất tích bao giờ cũng có một cơn lốc lớn. Và cơn lốc làm N cảm thấy dễ chịu trong lòng.
Chỉ trong ít năm, số trẻ con bị mất đi một cách đáng kể. Tôi không hiểu vì sao lại có một bộ phận trong dân chúng vui mừng vì điều ấy. Họ nói con người đang được thanh lọc và bọn da vàng tất nhiên đáng được thanh lọc hơn tất cả.
Nhưng chính khi được thanh lọc, bọn da vàng trở nên mạnh mẽ khác thường. Một loạt các nhà văn, nhà triết học Trung Quốc làm khuynh đảo thế giới. Những lối sống mới thực dụng hơn Khổng Tử, khinh khoái hơn Trang Tử và bạo liệt hơn Tần Thủy Hoàng đan xen vào nhau, đẩy con người vào những thái cực bất tương dung. Món thịt người được chính thức cho phép kinh doanh tại đất nước rộng lớn này, khi dân số Trung Quốc đứng ở ngưỡng mười tỉ. Và hơn lúc nào hết, nghệ thuật ẩm thực phương Đông được đẩy lên tới tột đỉnh sự cầu kỳ. Thịt con gái trinh dưới mười tám năm tuổi là món thượng hảo hạng và được đánh giá là có khả năng làm giảm sự lão hoá, bồi bổ nguyên khí.
Vào lúc ấy biên giới các nước châu Á đã được mở cửa tự do thông thương. Nhờ điều này mà đất Trung Quốc bớt chật chội, người Trung Quốc hiếu hỉ hơn. Khái niệm da vàng trở nên đồng nghĩa với người Trung Quốc và nó được phổ biến rộng rãi trên thế giới. Các nền văn hoá như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam… tiếp tục là bản sao của Trung Quốc như nó đã là như thế từ hàng ngàn năm trước. Triết học Phật giáo của Ấn Độ chỉ còn là thứ giải stress của người da trắng.
Có một nhà thơ là cháu đích tôn của một đạo diễn thời chiến tranh 1954 – 1975 vốn thường cắt tai kẻ thù ngâm rượu uống mà tôi biết như chính lời ông ta kể, đã mời tôi một chầu thịt người tại Nam Ninh khi tôi có dịp đến đó. Hắn ta nói: “Chưa ăn thịt người thì không thể làm cách mạng được.” Tôi bảo: “Tôi không có ý định làm cách mạng.” Hắn lại nói: “Chưa xem giết người thì không thể thành nhà văn được. Ông có muốn xem không? Tôi dẫn đi.” Tôi không nghĩ đó là một tiền đề đúng, nhưng quả thật, tôi cũng muốn nhìn thấy cái cách người ta mua bán thịt người và giết mổ, xào nấu nó. Nhưng tôi không phải là người can đảm. Tôi nghe kể những gia đình nghèo thường chọn giải pháp bán đi một người để cứu nhiều người. Cũng có khi nguồn thịt người được cung cấp từ các bệnh viện sau khi các bác sĩ đã lấy đi những bộ phận cần thiết.
Mùa đông năm 2050, bên hàng rào quán ăn trên đường Lý Thường Kiệt, Hà Nội, nhìn ra đường tôi thấy hàng trăm người mặc đồ đen chạy rầm rập qua. Chúng đến trước một cao ốc văn phòng có nhiều công ty nước ngoài thuê, giương ngọn cờ tang tóc lên, gào rú. Ở một khoảng cách khá xa, tôi vẫn nghe thấy tiếng họ lẫn lộn như tiếng mèo gào, tiếng chó tru, tiếng vượn hú, tiếng cọp gầm, có cả giọng trầm buồn của những con trâu. Kính cửa các văn phòng bung ra, rồi những cái đầu người cũng thò ra. Họ lần lượt nhảy xuống đất, chết. Không hiểu điều gì đã xảy ra trong lòng họ.
Bỗng nhiên tôi nhận ra ở bàn bên cạnh cũng có bốn người mặc đồ đen. Tất cả họ đều có đôi mắt dài dại. Họ đang uống rượu mật người. Dường như họ biết tôi quan tâm đến họ. Một người cầm chai rượu có màu nâu hồng sang bàn tôi, anh ta nói: “Mời anh một cốc. Uống một cốc thành trượng phu. Uống hai cốc thành anh hùng…” “Còn uống cả chai thì sao?”, tôi hỏi. Hắn cười khà khà: “Uống cả chai thì tự trả tiền.” Tôi không cần trượng phu với anh hùng, cho nên không cần uống rượu. Tôi bảo cho tôi yên. Ngay lúc ấy, Diệu An bước vào. Từ tâm của nàng toả ra. Và tôi đã tránh được sự phiền hà nguy hiểm. Chúng tôi rời khỏi quán.
Tôi ủ mình trong hơi ấm của tách trà. Diệu An bảo “ngồi sát vào với em.” Tôi thích cặp vú An nhỏ và thanh thoát. Hai núm vú trong veo. Chúng tôi nhìn mưa. Diệu An nói điều cốt yếu nhất đối với anh bây giờ là buông bỏ tất cả. Chỉ có như vậy anh mới tìm được sự bình an và thoát khỏi các tai hoạ.
Tôi hiểu ý An là đừng có đa mang nữa. Thật ra, tôi đã nắm giữ được gì? Cả N và Diệu An và Muội và những buổi chiều trống không vẫn là ngoài tôi. Trong tôi chỉ có mỗi con chim ngọ nguậy không phân biệt địch ta, mơ hồ. Diệu An nói tại sao anh cứ phải qui chiếu mọi sự vào cái ngọ nguậy mơ hồ trong hố thẳm? Tôi cười bảo vì mọi cái khác đều đáng chán. Như Muội cũng từng nói với tôi “hãy làm cái gì với em cho vui.” Cái đáng chán sâu thẳm và ẩm ướt thiên thu. Cái ngôn ngữ bao cao su xa lìa nhân thế. Rồi Muội quăng bỏ giá vẽ. Rồi Muội ra đường nhặt nhạnh phế liệu. Một thế giới khác từ đáy vực sống lại chỉ để cho một nhận thức phù du. Rồi Muội chết. Những sợi lông măng trên cánh tay Muội về đâu?
Diệu An nói anh hỏng rồi. Em bảo anh buông bỏ thì anh lại nhớ lung tung.
Thật ra, điều tôi cần là buông bỏ chính tôi. Nhưng ĐI.COM chưa tới. Tôi vẫn ngồi với N trong quán cà phê xoay nhìn ra các cửa hàng bán dưỡng khí và cây si chằng chịt rễ, năm 2055. Một khớp cổ tay của N bị sưng. Đến một tuổi nào đó, cơ thể sinh chứng, bắt đầu cho sự tàn tạ. Những nốt ruồi và thịt thừa đã mọc lan quanh cổ N tràn xuống vai. Cái cổ ngày xưa ngon như một cây giò lụa. Thẳng và đầy. Diệu An năm 2016 là một phụ nữ chín ứa. An dạy Toán ở đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội, nhưng An lại thích triết lý nhà Phật và những thứ bị coi là của nhà Phật. An khát sống một tình yêu lãng mạn, nhưng An chỉ đi được một nửa mùa cổ điển. Một nửa mùa còn lại An hồi hướng chân như.
Tiến nói khi chưa thọc sâu vào một phụ nữ bằng cái dương vật cứng và nóng hổi thì không thể nói đã biết cô ta như thế nào.
Những ngày cuối đông 2010, kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long, tôi cũng đã ở Hà Nội với Muội. Đối với tôi, Hà Nội một ngàn năm hay Hà Nội một năm cũng như nhau. Tôi có mặt ở Hà Nội chỉ vì Muội. Muội nói “hãy đi với em.” Cuộc triển lãm của Muội gây một ấn tượng khác thường về sự tái sinh của những hồn ma lạc loài. Nhưng điều thật sự quan trọng của một ngàn năm Thăng Long là tôi đã đâm vào lồn Muội. Hết linh hồn và thân xác tôi. Con rồng bay lên. Tôi bay lên. Muội bay lên. Muội bảo việc em có con hay không không còn quan trọng nữa. Suốt những ngày còn lại ở Hà Nội mưa. Tôi và Muội nhìn mưa trên hồ Gươm. Những con rùa rét cóng thụt đầu vào trong mu.
Diệu An bảo để em cầu siêu cho những linh hồn đã chết.
Diệu An độ lượng lâm râm mấy câu thần chú. Tôi nghĩ Diệu An chỉ đùa cho vui, nhưng Diệu An bảo em là sự bằng an của anh. Những con rùa trong hồ Gươm đã thò đầu ra ngó trời. Tôi nói: “Đôi khi anh cảm thấy mình lơ ngơ.” Diệu An dí ngón tay vào trán tôi: “Ông là thứ ăn thịt người.”
Đón giao thừa 2050, tôi và Tiến đi Campuchia. Đường phố Phnom Penh đầy mùi long não. Ở một ngã tư, trong lúc chờ sang đường, bất chợt tôi thấy hàng ngàn người cầm cờ đen từ xa chạy tới. Không biết chuyện gì, bất giác tôi lùi lại đứng sát vào một cửa tiệm. Đám đông vừa chạy vừa gầm gừ. Tôi thấy những người bên đường vội nằm úp mặt xuống đất. Sau đó tôi mới biết, nếu ai lỡ nhìn thấy ngọn cờ đen ấy mà nội lực yếu sẽ bị nó cuốn đi.
Tôi nói với Diệu An “anh chỉ ăn thịt người như em thôi.”
Muội bảo đừng làm em đau, nhưng tôi đã nhai ngấu nghiến Muội. Đã liếm láp Muội cho đến khi lưỡi khô rộp. Một ngàn năm Thăng Long, đụ một ngàn cái vào trời xanh. Cả tôi và Muội đều rã rời.
Áp thấp nhiệt đới làm Sài Gòn cũng mưa. Cuối năm 2005, tôi và Muội nhìn mưa xuyên qua quảng trường Công xã Paris. Tượng Đức Mẹ vẫn khóc. Báo Công An thành phố Hồ Chí Minh đăng bài đánh những nhà văn cấp tiến. Nhưng người bán báo chỉ rao “các cầu thủ bán độ đã bị khởi tố và bắt giam.” Nhà văn cấp tiến hay cấp lùi không làm chết con ruồi nào. Nhưng một cầu thủ thì có thể làm cho hàng triệu người khóc. Tôi rủ rê Muội vào khách sạn.
Diệu An lại bảo em phải giải nghiệp cho anh.
Tôi bước vào thì tương lai với một quá khứ được rửa sạch. N vẫn ngồi cạnh tôi. Nàng đã thay đổi nhiều sau lần đi tìm những lá thư của con chim bồ câu. Ảo ảnh và thực tại đồng nhất. Nàng không bận tâm về những người đàn bà khác đã đến với tôi. Dường như nàng hiểu được rằng chỉ có một người đàn bà duy nhất là nàng hiện hữu trong tôi.
N nói “ĐI.COM” là cảnh giới của những phản ứng xâu chuỗi, nó kết nối các tâm cảm dị biệt vào một trường và tạo nên sự bùng phát vô thức tập thể theo cấp độ lũy tiến hệ số cá nhân được kết nối. Tôi bảo cho dù “ĐI.COM” là gì hay không là gì thì cũng không bao lâu nữa sẽ đến lượt anh bị xô đẩy vào cái đám đông mù quáng kia. N nói nếu điều ấy xảy ra, anh hãy cố tâm niệm rằng đây chỉ là ảo ảnh cho đến lúc anh thoát ra được khỏi nó. Tôi bảo thật kinh khủng nếu lại có những người chết. Giữa lúc ấy, tôi nghe thấy tiếng ầm ào từ xa. Trước khi tôi nhận biết tiếng ầm ào ấy đang hướng về phía mình, người tôi nổi gai lạnh. Tôi nói với N: “Nó đang tới.” Tiếng bước chân rầm rập, tiếng gầm rú ma quái càng lúc càng gần. Tôi cố điều hoà hơi thở và nhắm mắt lại.
Diệu An đã chết sau một cơn đột quị vì quá sức trong việc truyền nội lực để cứu chồng nàng. Ánh sáng trong đời tôi tắt. Trong lúc ấy thì N có vẻ như càng ngày càng trở nên điềm tĩnh hơn. Thấu hiểu hơn. Cô gái giống Muội từ tính cách đến nghề nghiệp lăn xả vào tôi như một con thiêu thân. Có vẻ như nàng muốn thực hiện nốt những điều mà Muội chưa làm xong với tôi và với chính nàng. Bởi thế sự quyết liệt của nàng đôi khi làm tôi sợ. Tôi thích gọi nàng là Muội Muội, nàng không phản đối điều ấy dù biết trước đấy tôi có quen Muội. Muội Muội nói có thể em đã rất giống Muội nhưng vấn đề là em hành động và sáng tạo chứ không phải Muội. Cũng như Muội, Muội Muội không vẽ trên giá vẽ mà vẽ vào không gian ba chiều bằng ánh sáng. Những buổi trưng bày trình diễn của Muội Muội thì cả người hiểu và không hiểu, thích và không thích cũng phải ngước nhìn. Tác phẩm của Muội Muội phủ lấp bầu trời và mang lại một hiệu ứng toàn diện trên thị giác và nhận thức thực tại. Con người bị dồn đẩy vào khe hẹp giữa hai thế giới ảo và thật.
Những cuộc làm tình với Muội Muội bao la và đầy kịch tính. Muội Muội bảo yêu đương là một hành động sáng tạo và bởi thế không thể lập lại. Đẩy cảm xúc đến tận cùng. Tê dại hệ thần kinh. Vừa súc vật vừa thần thánh.
Ít nhất mỗi năm Muội Muội bỏ ra ba tháng để lên rừng sống. Muội Muội bảo đấy là cách em phục hồi năng lượng. Chưa bao giờ Muội Muội cho tôi đi theo. Nhưng tôi biết Muội Muội có những quan tâm về dân tộc học. Có lần Muội Muội nói với tôi: “Em muốn biết tận cùng niềm tin của con người là gì, cũng như cái ký ức đầu tiên của con người về sự sống là gì.” Có thể đấy cũng là lý do dẫn đến cái chết của Muội Muội.
Muội Muội có rất nhiều vòng đeo tay và dây đeo cổ đẹp. Tôi thích cái vòng bằng hổ phách to kềnh trên cổ tay trắng trẻo của Muội Muội. Tôi tin rằng cái vòng ấy ít nhiều tác động đến tâm lý và sức khỏe của Muội Muội. Có một sự kiêu hãnh lạ kỳ khi Muội Muội đeo nó trên tay. Truyền thuyết rằng, cái vòng ấy vốn của một tộc trưởng mạnh mẽ nhất Trường Sơn. Ông ta săn voi tài giỏi cũng như làm thuốc. Khi đeo cái vòng hổ phách vào cổ, không một con voi hay phụ nữ nào thoát khỏi tay ông, kể cả khi ông đã tám mươi tuổi. Những đứa trẻ được sinh ra từ ông thì nhiều như muông thú trong rừng. Nhưng khi ông chết, chiếc vòng đã được chôn theo ông bởi các bà mẹ không muốn con trai của họ hoang đàng như bố.
Tình trạng thoái hoá giới tính càng lúc càng phổ biến, nhưng không được xem là quan trọng. Các hành giả lang thang ngoài đường phố nôn nóng chờ ĐI.COM tới, trong khi những con đực ẩn mình trong hang. Muội Muội bảo em cần phải tận hưởng những người đàn ông cuối cùng. Chiếc vòng hổ phách ẩn chứa những linh hồn mê muội đã rực sáng lên khi tinh dịch đàn ông đổ vào Muội Muội. Và nàng nói: “Anh hãy tỉnh thức.”
N cũng bảo anh hãy mở mắt ra đi và nhìn thẳng vào ĐI.COM.
Một nỗi buồn bất chợt xâm chiếm lòng tôi. Những gã đàn ông còn lại đang trở nên hung tợn và kêu rống như súc vật bị chọc tiết. Tôi sẽ đi vào đám đông và cũng hò hét điên cuồng không biết để làm gì. Tôi sẽ như con chó sủa bóng ma. Và tỉnh dậy trong hố thẳm.
Năm 2027 tôi bất tỉnh giữa đường. Không thấy linh hồn tôi đâu.
N ôm tôi. Tôi cảm thấy mình là quá khứ. Thừa ra. Đám đông nổi lửa đốt nhà. Dân chúng hoảng loạn túa ra ngoài đường. Nhà thờ, nhà chùa bị đập phá và các tu sĩ bị ném vào lửa.
Càng lúc càng có nhiều kẻ thích ăn thịt người vì họ tin rằng thịt đồng loại là bổ nhất. Triết lý về sự tương thích được phổ cập đến độ những kẻ có tư tưởng khác phải tự sát. Muội Muội đã không chịu nổi cái nhịp điệu thở ra hít vào của cuộc sống và nàng tự xô lệch mình về một thái cực sau cùng là cái chết. Nàng nói phải sống như con bọ ngựa và chết như con thiêu thân. Nhưng N chỉ coi Muội Muội là một con đĩ. N không bao giờ hiểu được tâm hồn minh bạch của Muội Muội. Có lần Muội Muội kể với tôi: “Em đã gặp một gã đàn ông thuần chất. Vô học và bản năng. Nhưng em khám phá ra rằng, cái mùi hôi nồng nặc trên da nó, cái sức mạnh hùng hổ của nó là khởi thủy của hạnh phúc con người. Tinh tuyền và sâu thẳm.” Tôi không có gì phải ghen tị với một con thú rừng, nhưng tôi cũng nói với Muội Muội, cuộc sống không phải chỉ là cảm giác. Muội Muội bảo thật ra em chỉ đi tìm những cái con người đã đánh mất. Em vẫn quí trọng anh, nhưng anh cũng chỉ là khoảnh khắc, em yêu những khoảnh khắc, mà cuộc đời không phải chỉ có một khoảnh khắc. Những khoảnh khắc làm nên cuộc sống. Và em sống như em là. Thế thôi.
Năm 2030, sự tương thích và đơn giản trở thành một lối sống thời thượng. Nó mang lại bình an cho con người, nhưng các thày bói bảo đấy là thời kỳ suy thoái cả về mặt tâm linh lẫn kinh tế, bởi thế nó tiềm tàng một nguy cơ bùng phát sự bất hạnh. Hai phần ba đàn ông cạo trọc vì thích được phụ nữ ngồi lên đầu. Sự đơn giản trở thành tinh tế đối với người này nhưng lại thô thiển với người khác. Tương tự như vậy, sự tương thích ở người này là hoà hợp, hoà bình nhưng ở người khác lại là a dua, a tòng, amen.
Diệu An ngày ngày lên chùa tụng kinh, niệm thần chú cầu an cho tôi.
Tôi không phải là nhà khí tượng học, nhưng chữ “mưa” cứ nhấp nhổm đòi nhảy ra khỏi đầu tôi, ít nhất cả bốn ngày nay. Vì thế tôi phải cho nó xuất hiện như tôi dự báo thời tiết vào năm 2035, các trận mưa sẽ kéo dài liên tiếp trong nhiều tháng và nó làm lụt lội quả đất như hồng thủy. Các ngọn núi bị sạt lở và thú vật không còn chỗ nương thân. Quốc lộ 1A từ Hà Nội vào Sài Gòn bị nghẽn nhiều chỗ vì đất đá trên núi đổ xuống. Các chuyến bay cũng bị hoãn vì mây mù. Khi ấy, N đang ở Hà Nội. N nói qua điện thoại: “Không dưng em cảm thấy có một khoảng cách giữa anh và em như thể con đường bị gián đoạn giao thông.” N rủ Diệu An đi ăn. N uống rượu, Diệu An uống trà. N nói: “Tôi muốn đập phá một cái gì đó. Mưa làm tôi nghẹt thở.”
Mùa mưa năm 2055, những người mặc đồng phục đen bất kể trời giông bão, họ vẫn ra đường và giương các biểu ngữ: “NGÀI là đấng toàn năng”, “Sẵn sàng chết vì NGÀI”, “Hãy dọn đường cho NGÀI”… Và họ hò hét để bức tử những kẻ khinh thường NGÀI.
Diệu An kể: “Ngày xưa khi tôi mới mười bảy tuổi, tôi đã bỏ nhà đi chỉ vì không chịu nổi cách hành xử của cha mẹ mình. Từ trên núi xuống, tôi lang thang vào thành phố. Trong một quán cà phê, tôi đã gặp một người đàn ông lớn hơn tôi nhiều lần và tôi nghĩ rằng tôi có thể trông cậy vào ông. Tôi gần như chủ động làm quen với ông ta. Hỏi han tôi ân cần, ông nắm bàn tay tôi. Tôi cảm thấy mình nhỏ bé và cần được che chở. Tôi không biết ngày mai sẽ sống bằng cách nào. Ông ta bảo cứ hỏi thử bất kỳ một hàng quán nào đó. Trước khi chia tay, ông cho tôi một ít tiền và tỏ ra muốn hôn tôi. Tôi do dự. Tôi không nghĩ ngày mai tôi sẽ phải bán mình, nhưng tôi cũng sẵn sàng cho đi thân xác tôi. Tôi không cảm thấy đó là điều quan trọng. Nhưng tôi buồn. Ông ta cũng nấn ná chờ đợi một hành động của tôi. Tôi nửa muốn bước theo ông ta, nửa muốn ngồi lại. Tôi không biết phải bắt đầu thế nào. Cuối cùng thì tôi cũng lên tiếng xin số điện thoại của ông. Một tháng sau, tôi gọi cho ông khi không còn một xu trong túi. Ông tới chỗ hẹn và cho tôi đi ăn, sau đó đưa tôi về nhà. Tôi làm những công việc lặt vặt như một con ở để được ăn ngày ba bữa cơm. Một hôm ông bảo lên giường nằm với ông. Tôi vâng lời. Ông cho tôi đi học lại và tiếp tục hầu hạ ông cho đến khi ông qua đời. Tôi đã tưởng làm một cuộc đập phá, nhưng rốt cuộc tôi lại giấu tôi vào tiếng mõ, tiếng kinh ê a với thời gian.”
N nói tôi đã leo ngược lên núi và không tìm thấy ĐI.COM. Tôi cũng chỉ nhìn thấy tôi lãng nhách giữa rừng cây. Tôi là một con thú lìa bỏ bầy đàn nhưng sợ hãi cô đơn. Muội bảo người ta chỉ vớ vẩn. Tôi ỉa vào ĐI.COM và những thứ tương tự. Tôi tự quyết định tôi và không tin vào sự vĩnh cửu.
Nhưng Muội yêu N vì N là đàn bà khác Muội. Muội cũng yêu tôi vì tôi là đàn ông giống Muội.
Muội ở giữa N và tôi như một ngọn lửa. Chúng tôi không làm tình chung, nhưng vẫn để cho Muội xem tôi và N yêu nhau. Vì Muội thích thế. Vì N không đồng tính, nhưng thương Muội và chiều Muội. Phần tôi, tôi vẫn thấy Muội là một phụ nữ quyến rũ. Cả trong tính cách và tình yêu. Nhưng Muội chỉ hứng tình sau khi xem tôi và N yêu nhau.
Muội có còn yêu một phụ nữ nào khác, tôi không biết. Dù tôi thấy nàng có nhiều bạn gái. Nàng cũng luôn tỏ ra bình thản như thể không có nhu cầu tình dục khi đàn ông tán tỉnh nàng. Tuy thế, tôi đặc biệt ghét thằng cha hoạ sĩ là thày của Muội. Hắn thô lỗ chen vào mối quan hệ của chúng tôi như một nhà đạo đức và một tên vô lại. Hắn nói không thể có sự tương thích khi người ta không giải cấu hàng dọc các định kiến mỹ học và hàng ngang các định chế luân lý. Cứ y như là con ruồi không thể bay nếu nó không đập cánh. Muội chỉ cười khẩy, thày có giải cấu được vợ thày không?
Năm 2015, chữ “sợ” rạn vỡ trong nỗi ám ảnh tôi. Tôi hình dung nó như một quả cầu và lăn dưới chân tôi. Tôi sẽ phải đạp vào nó và có thể vấp ngã. Tôi không biết tôi sẽ như thế nào khi không còn nó. Muội càng lúc càng u uất. Đôi khi, tôi thấy mắt Muội long sòng sọc. Tôi nghĩ có thể một lúc nào đó Muội sẽ giết tôi hoặc N như một giải pháp sau cùng để phá hủy và hoàn tất cuộc sống nàng. Ngày Muội đưa tôi đến xưởng vẽ, những con chim bị cắt cánh trong tác phẩm của nàng bằng kéo dường như vẫn hót trên những sợi kẽm gai. Chúng há mỏ và tôi thấy sự tàn ác tuyệt vọng của tiếng kêu trong lòng Muội. Muội hỏi: “Anh có hiểu được những gì đang xảy ra với em không?” Tôi nói: “Anh nghĩ rằng anh hiểu.” “Anh có sẵn lòng để em giết anh không?” Muội hỏi tiếp. Tôi buồn bã nói: “Nếu điều ấy làm cho em được giải thoát.” Muội cầm chiếc kéo lớn, loại cắt sắt đến sát bên và đưa thẳng mũi kéo vào bụng tôi. “Vì em yêu anh, anh biết không?” Tôi gật đầu. Và nghĩ: “Đây là ĐI.COM.” Đầu mũi kéo làm tôi đau, nhưng tôi cố gắng bình thản. Muội bảo: “Em không đùa đâu.” Tôi hỏi Muội: “Em cũng chết theo anh chứ?” “Không, em sống với N.” Tôi lùi ra. Muội không dí theo. Một kịch bản dở, tôi nghĩ. Tôi ngồi xuống ghế. Muội cũng ngồi xuống một chiếc ghế khác và khóc.
Năm 2055, sự hoảng loạn lan tràn khắp nơi. Nó không chừa một ai, kể cả những kẻ trực tiếp tạo ra hoảng loạn. Nó tồi tệ hơn cái chết. Vì nó không chấm dứt sau cái chết. Các tổ chức nghiên cứu về tâm linh và các hiện tượng bí ẩn bị khủng bố trước tiên. Họ không bị đánh bom hay đập đầu tự sát vì những tiếng hò hét man rợ, nhưng họ phát điên và trở thành dở người cho đến lúc chết.
Chuyện kể của kẻ được gọi: “Một buổi tối như thường lệ, tôi ngồi nhậu với bạn bè. Uống chưa nhiều, tôi không nghĩ mình đã say, nhưng trong đầu tôi giống như có một bóng tối che phủ, tôi mụ người dần đi, trong lúc bụng sôi lên nôn nóng một khát vọng mơ hồ. Bần thần người, tôi buộc phải đứng dậy. Nghe như từ lòng đất có tiếng réo gọi tên tôi. Rồi những âm thanh khác cũng lớn lên từ từ như thể đã âm ỉ trong tôi từ muôn kiếp. Đến khi tôi cảm thấy mình hoà nhập vào khối âm thanh hỗn độn của đám đông thì tôi không biết gì nữa. Ngày hôm sau người mệt bã, tôi thoát ra khỏi đám đông và hoàn toàn không biết mình đã làm gì. Đầu óc trống rỗng.”
Những người da trắng thường bị vỡ sọ chết sau khi nghe những tiếng hò hét của đám đông dưới ngọn cờ đen.
Chữ nghĩa ngày càng trở nên dày đặc và tán loạn. Tôi chạy trốn các từ bằng cách đi ra biển ngay từ ngày đầu năm 2006. Bãi Thùy Dương vắng hoe. Tôi nôn oẹ chữ xuống cát và nằm sấp trên mặt nước. Sóng trào qua đầu. Đứa bé gái hỏi tôi: “Ông có sang bờ bên kia không?” Tôi nói có. Nó leo lên lưng tôi ngồi như thể tôi là thuyền. “Chạy đi ông.” Tôi hú còi rồi nổ máy bùm bùm. Ừ, cứ thử đến bờ bên kia xem sao. Nhưng đi mãi không tới, đứa bé giục: “Chạy đi ông.” Tôi nói sắp tới rồi. Sóng vẫn đánh vào mặt tôi từng đợt, thuyền tôi quay ngang không trôi. Đứa bé nói: “Tàu mắc cạn rồi.” Rồi nó rời khỏi lưng tôi, ngồi xuống bên cạnh: “Để cháu chôn ông nhé.” Tôi bảo ừ. Nó lấy cát đắp lên người tôi, nhưng cát bị sóng làm trôi đi. “Để cháu mát sa cho ông vậy.” Tôi cảm thấy lạ vì chữ “mát sa” của đứa bé bốn tuổi. Nó chà cát trên lưng tôi. Chữ “mát sa” làm lưng tôi trầy. Sóng xô dạt tôi ra xa bỏ lại đứa bé trên bờ. Trong một lúc tôi cảm thấy thân thể khỏe mạnh và sạch sau khi đái trong quần. Ở biển ba ngày, tôi trở lại thành phố nuốt chữ.
Đã đến lúc tôi nghĩ phải đưa các nhân vật đến cao trào, nhưng N đi Thái Lan chưa về. Muội đi Hà Nội vì thèm lạnh.
Huyết áp tụt làm tôi lúc nào cũng cảm thấy buồn ngủ. Chữ lởn vởn, tôi vạ vật ăn không được.
Mân mê con dao N tặng, tôi nhớ lời N bảo khi cần thì hãy làm như người Nhật. Tôi không hiểu bằng cách nào, sau đó con dao lại ở trong xưởng vẽ của Muội và nó trở thành sát thủ.
Tôi chợt nhận ra cả N, Muội và tôi đều muốn sống một mình. Chúng tôi như ba mũi tên bắn về ba phía khác nhau. Lần đi chơi đầu tiên với Muội, nàng bảo em không thể là bồ anh được, khi tôi muốn làm tình với nàng. Chúng tôi cần tự do. Nhưng ý thức về tự do không phải lúc nào cũng rõ ràng và quyết liệt. Đôi khi nó trở nên không cần thiết và phá vỡ sự cân bằng mù quáng của cảm tính.
Có một người nào đó nhắn tin cho tôi: “Anh đến với em một chút đi. Em để dành cho anh đó.” Tôi hỏi lại: “Em là ai?” “Cứ làm như em hướng dẫn, anh sẽ nhận ra em. Đến khách sạn MM, vào phòng 204.”
Tôi không hiểu điều gì đã khiến tôi đến khách sạn MM và gõ cửa phòng 204. Tôi muốn chơi đĩ? Hay muốn tìm một cảm xúc bất ngờ từ một người thân quen cũ? Báo Công An thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều bài báo cảnh giác cho những trường hợp tương tự. Có thể tôi sẽ bị trấn lột bởi tính hám gái. Cửa phòng 204 bật mở. Một phụ nữ không còn trẻ, ăn mặc nghiêm trang đứng đắn và lịch sự. Mặc nhiên quen biết tôi, chị reo lên: “Anh.” Tôi nhận ngay ra Diệu An, mặc dù tôi chưa bao giờ nghe tiếng An. Trước đó, chúng tôi chỉ liên lạc qua email. Tôi quàng tay ôm An. Nàng cũng ôm tôi. Chúng tôi hôn nhau và làm tình ngay không nói gì cho đến khi tôi xuất tinh. An không biểu lộ thất vọng dù tôi đã ra quá sớm. Dẫu sao sự bất ngờ cũng đã làm cho cảm xúc trở nên thật nồng nàn. Nhưng điều An nói làm tôi bối rối: “Em đã nhắn tin cho anh theo cách của một cô gái gọi. Và em muốn anh là kẻ đi chơi đĩ. Điều ấy làm em cảm thấy dễ chịu. Nói đúng hơn, nó làm em thích.”
Suốt những ngày An vào Sài Gòn, tôi ở luôn trong khách sạn với nàng.
N gọi về từ Thái Lan cho tôi: “Hãy nhớ luôn luôn mang theo con dao bên mình.” Tôi nghĩ tự xử hay để đâm người khác thì không nhất thiết phải dùng dao. Tuy thế, tôi vẫn bỏ con dao trong túi xách. Sau này có lẽ tôi đã bỏ quên trong xưởng vẽ của Muội. Không có bất cứ lời trăn trối hay dấu hiệu nào trước đó về cái chết của Muội. Cảnh sát tìm thấy con dao của tôi vấy máu.
Email của Muội viết từ Hà Nội cuối mùa đông năm 2005: “Em đã nằm ngủ nướng đến gần trưa trong khách sạn. Bây giờ thì em viết cho anh đây. Tối qua, và tất cả những ngày qua, em rong chơi và uống suốt. Mạnh đã liên hệ được với Viện Goeth dành cho em một cuộc triển lãm sắp đặt, cũng như sẽ sẵn sàng in sách cho em. Dường như đàn ông các anh ai cũng muốn được trả công bằng thân xác phụ nữ. Không đến nỗi sỗ sàng, Mạnh chờ em tự nguyện. Thật khôi hài. Tuy nhiên, cũng phải công bằng mà nói anh ta rất đáng được thưởng.”
Tôi cầm con dao dọc tờ báo.
Chưa gặp Mạnh bao giờ, nhưng tôi nghe nói Mạnh có thể làm bất cứ điều gì hắn muốn. Điều tôi biết chắc chắn nhất là hắn có thể điều phối được dư luận. Và việc ấy rất nhiều khi lại mâu thuẫn với quyền lợi của hắn. Bởi thế, người ta nghĩ hắn là công cụ của một thế lực nào đó, không hẳn thuộc về chính quyền, nhằm áp đặt xã hội vào một hình thái định trước. Càng ngày càng có nhiều những nhân vật như Mạnh. Họ được đúc khuôn và mang tính ưu tiên như thể đất nước này là của riêng họ.
Tôi cảm thấy khó chịu khi mường tượng cảnh Muội đi chơi với Mạnh. Tất cả những email sau của Muội tôi đều delete không đọc. Khi về lại Sài Gòn, Muội không cho tôi biết và gần như xa lánh tôi. Tôi cho rằng chuyện đó cũng tất yếu. Cho đến khi triển lãm của Muội được chính thức công bố bằng các giấy mời, Muội mới đến tìm tôi và bảo: “Anh cần phải biết em đã làm gì và sẽ làm gì.” Tôi đi Hà Nội với Muội. Cuộc triển lãm được Mạnh làm PR khá tốt. Nhưng chỉ ngay sau ngày khai mạc, cuộc triển lãm đã bị bộ ngoại giao Việt Nam đề nghị với sứ quán Đức yêu cầu đóng cửa với lý do không phù hợp với thuần phong mỹ tục bản địa. Thật ra triển lãm sắp đặt của Muội mang một ý nghĩa khác. Cuộc vây hãm của ý thức điên rồ trước bản năng thuần thành của con người. Chính Mạnh cũng bất ngờ về Muội. Nàng đã khôn ngoan để sự việc đã rồi khiến Mạnh trở tay không kịp.
Tôi và Muội đáp xe lửa lên Lao Cai nằm vùi vào cái mốc thếch của cơn lạc hậu bạc nhược trong máu. Ở đó, chiếc laptop ọp ẹp không chịu đựng nổi những ý nghĩ virus. Muội vẽ bằng lưỡi. Tôi viết bằng răng. Chữ biến thành tranh. Tranh biến thành chữ.
Năm 2049, tình trạng nhiễm sóng của cơ thể con người đã trở nên trầm trọng. Nó làm cho hệ ý thức trở nên nhoè nhoẹt. Trên những khoảng chồng lấn của các nếp gấp tư duy bị ĐI.COM xâm nhập, ý thức không thể phát hiện, ở đó ĐI.COM phát ra mệnh lệnh và tạo ra tính tương thích mặc định. Con người hành động theo ĐI.COM mà không hề biết. Người ta không nhớ những gì mình đã làm, bởi các dữ liệu hành động đã bị ĐI.COM xoá bỏ. Nó để lại một khoảng trống ký ức nôn nao vừa buồn bã vừa thèm khát hành động tiếp tục.
Con của Diệu An vào chùa làm ni cô. Nó bảo cuộc sống là oan trái. Nó không biết nó thuộc về ai. Tôi cũng không biết nó thuộc về ai giữa tôi, Diệu An và người nó gọi là bố. Thỉnh thoảng nó vẫn đến thăm tôi, dù rằng nó bảo không thích có một người bố hay một người tình giống như tôi. Tôi đùa bảo nó nhưng nếu con có một đứa con giống như bác thì con sẽ vui. Nó nói đẻ ra một đứa con là tạo ra một nghiệp lớn cũng ngang bằng như một hành động sát sinh. Ni cô Diệu Hoà có khuôn mặt như một “vầng trăng sương.” Tôi không quen tả cụ thể chi tiết một nhân vật, nhưng khuôn mặt của Diệu Hoà giống như một nỗi ám ảnh vẫn làm tôi tự hỏi: “Cái vẻ đẹp bên trong của con người thật sự là gì?”, khi sự trong sáng bị phủ mờ bởi những trải nghiệm buồn. Tôi cảm thấy ở Diệu Hoà một nỗi bất trắc thường trực. Nó làm tôi xao xuyến và mơ hồ sợ hãi. Trước khi Diệu Hoà vào chùa, mỗi năm tôi gặp cô bé ba bốn lần. Sau khi Diệu Hoà vào chùa cũng ba bốn lần tôi gặp mỗi năm. Mỗi lần gặp Diệu Hoà là mỗi lần tôi cảm thấy mình phải sống khác. Thánh thiện hơn. Nó trở thành một nỗi khắc khoải kéo dài trong nhiều năm. Tôi có phải là người có lỗi trong sự có mặt của Diệu Hoà trên cõi đời này? Chắc chắn không. Tôi không cảm thấy Diệu Hoà là của tôi hay từ tôi, nhưng tôi cảm thấy cô bé ấy vì tôi. Dĩ nhiên tôi biết Diệu An trước khi biết Diệu Hoà và sự liên kết cả ba chúng tôi với nhau không mang tính chất gia đình, mặc dù khi Diệu Hoà còn bé, tôi vẫn bồng bế cô ấy. Điều tôi cảm thấy rõ nhất, Diệu Hoà là một Diệu An hoàn chỉnh hơn được mang đến với tôi bởi một ý muốn bí ẩn. Nhưng cả tôi và Diệu Hoà đều cố gắng chống lại điều đó, không phải vì ý thức đạo đức, mà không muốn làm hỏng cái đẹp đẽ và lớn lao trong một mối quan hệ tưởng như bình thường. Trước mặt Diệu Hoà, chân tâm tôi được soi sáng và tôi cảm thấy có một niềm hạnh phúc bên ngoài cuộc sống này. Nhưng đồng thời tôi cũng nhận biết được có một khoảng tối sâu kín trong lòng Diệu Hoà, nó mang mầm mống của sự hủy diệt. Vào năm hai mươi ba tuổi, Diệu Hoà phóng mình xuống giếng sâu trong chùa, xoá bỏ hẳn dấu vết của khoảng tối mờ mịt ấy trong lòng. Không ai hiểu được cái chết của Diệu Hoà. Cũng không ai hiểu được tại sao Diệu An ngồi gõ mõ suốt ngày đêm. Tiếng mõ siêu độ thời gian, nhưng không siêu độ con người.
Chiều cuối năm 2005, tôi ngồi với N trong công viên Văn Thánh. Chẳng mấy khi trời Sài Gòn lại đẹp thế. Nắng nhẹ và gió mang hơi nước từ lòng hồ mát rượi. N nói cần phải cho nhân vật N của anh bạo liệt hơn. Em muốn có những biến cố làm thay đổi số phận con người.
Tôi bảo tất cả những nhân vật khác đều sẽ chết cùng với sự khốc liệt trong số phận của họ. Riêng N, anh muốn cô ấy là một người thấu hiểu và cùng anh đi hết đoạn đường còn lại của cuộc đời anh.
N nói anh chưa bao giờ hỏi em nghĩ gì, cũng như chưa bao giờ anh hỏi em sống thế nào. Đã có những người đàn ông tán tỉnh em và họ mặc nhiên như em thuộc về họ. Họ thích nói mà không cần biết cái lố bịch của sự phô trương. Em không định nói anh cũng như họ, nhưng thật sự thì anh cũng đâu biết em như thế nào.
Tôi bảo: Quả thật, anh không biết gì về em ngoài một em trước mặt anh. Và anh không muốn biết gì hơn thế. Anh không muốn phải nghĩ ngợi khi đang có một người đàn ông khác sở hữu em.
Không ai có thể sở hữu em, ngoài em. Và anh đã không hỏi em về điều đó. Anh không hỏi chính em.
Chưa bao giờ tôi lại có một cảm giác đơn độc đến thế. Tất cả mọi phụ nữ thân yêu của tôi đã ở ngoài tôi. Tôi nói với N: Có thể anh đã sai lầm khi không quan tâm đến bối cảnh xuất hiện của nhân vật. Nhưng đừng hiểu là anh vô tâm. Anh chỉ muốn sống với nhân vật của mình không định kiến với quá khứ, chấp nhận một nguyên trạng như nó là thế và tạo ra tương lai.
N bảo ngày mai em về quê. Anh ấy cùng đi với em. Em cũng muốn xác định lại mối quan hệ nửa vời này. Để yêu anh, em cần phải hủy hôn ước với anh ấy. Em không muốn sống như một kẻ phản bội.
Chia tay buổi chiều ấy, chúng tôi không hôn nhau. Nhưng tôi biết không bao giờ tôi mất N. Những gì tôi biết được về người đàn ông là chồng chưa cưới của N vỏn vẹn thế này: “Đồng hương Phú Yên. Mẹ em bảo đấy là con của một người mà xưa kia mẹ em đã yêu. Nhưng người đàn ông ấy đi tập kết, bỏ lại tình yêu của mình cho năm tháng phai nhạt. Ông ta lấy một bà vợ miền Bắc. Hai mươi năm sau ngày hoà bình lập lại, ông ta và mẹ tình cờ gặp lại nhau. Ông ta có một người con trai từng học ở Nga. Mẹ có một cô con gái. Ông ta đề nghị mẹ làm thông gia để gìn giữ một chút tình xưa. Mẹ bảo tùy bọn trẻ. Anh ấy đến gặp em. Em thấy cũng được nên đồng ý hứa hôn. Một vụ qui hoạch treo làm màu sắc cho thời gian trống trải.” Có một lần tôi gọi điện thoại cho N, anh ta bốc máy nói cộc lốc: “Đừng lộn xộn”, rồi cúp. Dường như anh ta biết tôi đang chen vào cuộc sống của họ.
Tôi ra Nha Trang nằm để thấy gần N hơn.
Từ sáng đến chiều tôi đi dọc bờ biển từ Chụt tới Bãi Tiên. Tết. Người vắng. Biển hoang vu sóng. Tôi vạ vật buổi trưa trong quán, buổi chiều trong gió, buổi tối trong củi lửa của Sailing Club. Tôi muốn nhảy với một ai đó quanh đống lửa, nhưng cả đến bọn Tây cũng không hào hứng. Những ý nghĩ trong đầu tôi cà giựt cà tưng. Tôi cảm thấy cần phải xông thẳng ra Tuy Hoà giành lại N. Nhưng một cơn buồn ngủ lạ lùng trì kéo tôi lười biếng trên ghế. Một ai đó đang gõ nhịp trên mặt bàn. Tôi chìm dần xuống u tối. Không còn ngọn lửa. Không còn tiếng sóng. Không còn nhạc. Bỗng dưng tôi cảm thấy như có ai đó cầm tay tôi kéo đứng lên. Tôi mở mắt. N đang đứng trước mặt tôi. Tôi nhớ đến câu nói của mẹ tôi khi tôi bệnh: “Mẹ không để mất con.” Dường như tôi bật khóc.
Bố tôi bảo mày là thằng ở dưới lỗ chui lên. Quả thật thú vị, nếu như tôi có thể chui ra từ một cái lỗ nào đó được chọn lựa và tự do. Tôi vẫn có cảm giác mình không nguồn cội, không dòng giống, không quê hương. Ở dưới chân núi Sam năm 2020, người đàn ông mà tôi vẫn nghĩ là Tiến nhập thân dùng ngón tay viết trên đá câu chân ngôn này: “Phật không phải là người Népal hay Ấn Độ, Giêsu Christ không phải là người Do Thái hay Palestine, Ta không phải là người Việt hay Trung Quốc, Ta chỉ là một con chó gặm miếng xương Người quẳng xuống và xưng tụng dòng dõi của loài khuyển trung thành.” Gần như ngay tức khắc, dòng chữ ấy đã bị các lực lượng an ninh, dân phòng xúm vào đục bỏ. Ông Đạo Tiếng bị tống vào nhà thương điên.
Diệu Hoà ở trong chùa tụng kinh vô sở trú. Tâm hồn nàng ngổn ngang giữa cõi Phật và phi Phật.
Tết năm 2006 ở Sailing Club Nha Trang, tối hôm N bất ngờ xuất hiện, tôi đã đưa nàng về khách sạn ngủ chung. Mặc dù thế, cả tôi và N đều sống trong một cảm giác không thuộc về nhau, không thuộc về bất cứ điều gì. Trong lúc đó tôi cũng nhận được tin nhắn của Muội: “Em biến mất.” Hơn ba mươi năm sau, cả Diệu An và Diệu Hoà cùng gõ mõ cầu siêu cho những nỗi niềm bí mật. Mắc cạn giữa những người đàn bà, tôi như con cá nằm trong lưới. Năm mười sáu tuổi, khi gặp tôi ở Huế, Diệu Hoà bảo: “Bác dụ dỗ cháu đi.” Tôi nói dụ dỗ gái vị thành niên đi tù chung thân đấy. Hoà nghiêm trang triết lý một câu rất sến: “Tình yêu không phải đã vốn là một nhà tù sao?” Tôi cười “vì thế bác đâu muốn ở tù.” Hoà hạ một nhát chém ngang cổ tôi: “Nếu bác không chịu đi tù thì cháu đi tu.”
Nhịp đời đi là những tiếng mõ xa vắng. Tù hay tu cũng là vô sở trú, năm mười sáu tuổi Hoà chưa biết điều ấy. Trong tháp bà Ponagar ở Nha Trang, tôi đã nhìn thấy một cô gái thành kính lấy tay chà lên đầu Linga rồi xoa lên hai má mình. Lời cầu nguyện của cô sâu thẳm đến nỗi tôi nghĩ không thể bỏ qua một giây phút nào có thể mà không để cho con cu cực lạc. Nhưng tôi vẫn dừng ngay trước cửa tâm hồn Hoà, bởi vì tôi biết, tôi chỉ có thể là người phá hủy. Dù thế, tôi vẫn không thoát khỏi cái định mệnh phá hủy. Năm mười tám tuổi, Hoà cởi áo cho tôi xem hai bầu vú rực rỡ. Khi ấy Muội đã chết. Muội Muội cũng đã chết. Cả N và Diệu An cùng đã tắt kinh. Tôi cúi lạy cuộc đời ban tặng, lòng hân hoan khôn tả nhưng vẫn phải nhắm mắt khước từ. Tôi nói: “Cháu đẹp lắm. Bác không thể làm hư hỏng đời cháu…” Hoà bảo: “Hư hỏng càng đẹp. Cháu thích loạn luân.” Điều gì ngăn cản tôi yêu Hoà? Tôi hèn hay tôi sợ, tôi cũng không biết nữa. Đó là một cái đẹp nguy hiểm và không giới hạn, tôi bỏ chạy và trốn trách nhiệm về thứ tình yêu cuồng dại ấy. Sau khi Hoà đi tu, tôi luôn bứt rứt không biết mình xử sự như thế có đúng không. Và khi Hoà chết, tôi biết chắc chắn rằng mình đã sai lầm.
Năm 2055. Tôi cảm thấy mình đang sống những ngày cuối cùng. Không phải vì ĐI.COM. Mà là sự tàn tạ đã đang làm ung thối thân xác tôi. Hai bàn chân tôi tươm máu và hầu như không còn cảm giác. Đôi khi kiến bu đầy, tôi cũng không biết. Nhưng giờ đây, trong khi chờ đợi ĐI.COM tới, tôi vẫn không khỏi hồi hộp và xao xuyến. Tôi đã dùng cả cuộc đời tôi để chống lại sự mù quáng, thế mà rốt cuộc, tôi cũng đang nôn nao đón nó trong một trạng thái chuẩn thuận. Tôi sẽ tự biến mất một cách điên dại trong sự hỗn độn của đám đông. Tôi tưởng tượng tôi cũng hò hét sùi bọt mép đòi một ai đó phải chết. Đòi một trật tự khác cho một sức mạnh cuồng tín của màu da. Đòi sự ngu ác thống trị. Tôi ghê tởm con người và cái định mệnh tự kỷ ám thị về sứ mệnh của mình.
- Anh đừng để ánh mắt mờ tối. N nhắc và tôi thấy nàng lo âu.
- Đầu óc anh tù mù quá. Tôi nói.
- Hãy giữ cho lòng trong sáng. N nói như níu kéo. Hít thở thật sâu và chậm.
Giờ thì hãy lên đường, lão già. Tôi nghe thấy tiếng gọi từ sâu thẳm và cố chống lại nó. Một nỗi cay đắng làm nghẹn họng tôi.
- Anh sao vậy? N hốt hoảng hỏi.
Tôi nuốt nước bọt, trả lời:
- Không sao.
Đôi chân bủn rủn, tôi không thể đứng lên. Khi ấy, từ xa tiếng gào rú vang tới va đập làm rung cánh cửa kính. Lồng ngực tôi bị ép. Tôi muốn cầu cứu Chúa của tôi. Nhưng ngài giấu mặt. Đám đông đến gần, tôi nghe rõ tiếng loa phóng thanh của những người biểu tình: “Chúng tôi cần thịt người.”
Chưa phải là ĐI.COM. Tôi thở ra. N vuốt ngực tôi. Trên màn hình TV, phát thanh viên của Tân Hoa Xã đưa tin, người ta đã tìm thấy dấu vết của những đứa bé mất tích cách đây hơn ba mươi năm, chúng xuất hiện như nguyên trạng và được thân nhân nhìn nhận, nhưng những con người này tỏ ra không có ký ức. Trong số những đứa bé được tìm thấy lại đó, người ta phát hiện ra có năm đứa mang gien di truyền của Mao Trạch Đông.
Năm 2035, Phượng báo tin cho tôi rằng đã xin một đứa con nuôi từ trung tâm dịch vụ kết nối các mối quan hệ gia đình. Lý lịch của nó chỉ ghi bị bỏ rơi, do đó không biết rõ nguồn gốc xuất thân của đứa bé. Trên đùi nó có một cái bớt màu đỏ giống như ngọn lửa. Thằng nhỏ rất đẹp trai và dễ thương, nhưng càng lớn càng thấy nó ít tình cảm. Đâu là chuẩn mực của việc nên người? Em cảm thấy bối rối khi nghĩ về điều đó, Phượng nói. Dường như thằng nhỏ thuộc về một thế giới khác, vừa lơ ngơ, vừa dữ dội. Có những lúc em thấy nó mơ màng sao đó, như thể có một hoài vọng và chờ đợi. Tất cả tình yêu em dành cho nó, nhưng vẫn thấy nó xa lạ.
Năm 2050, đứa con nuôi của Phượng bỏ đi khỏi đất Hoà Hảo ngay sau khi chôn cất Phượng xong.
Tôi chỉ biết tin Phượng chết sau đó ít tháng, nên cũng không có dịp nhìn thấy mặt thằng nhỏ con Phượng. Tuy nhiên, khoảng một năm sau, thằng nhỏ đến tìm tôi và tự giới thiệu là con Phượng. Ấn tượng của tôi về thằng nhỏ là một sản phẩm tổng hợp các chất liệu về màu da và khí chất cực đoan. Nó nói cần một việc làm bán thời gian. Tôi gửi nó cho một người bạn có cơ sở dịch vụ quản lý sự rảnh rỗi. Trong ba tháng đầu tiên, nó được giao làm bạn với một bà lão, mỗi ngày hai tiếng đồng hồ. Được đánh giá tốt. Kiên nhẫn và vui vẻ. Tiếp đó, nó được giao một công tác đòi hỏi sự lịch thiệp và duyên dáng hơn, ăn uống và giải trí với một người đàn bà mỗi tối. Người bạn gặp tôi cho biết khách hàng của ông ta muốn ký một hợp đồng dài hạn với thằng nhỏ, nhưng nó từ chối, và hỏi liệu tôi có thể giúp thuyết phục thằng nhỏ đồng ý không. Tôi không muốn làm áp lực tình cảm với thằng nhỏ, bởi vì tôi biết nó có một mục đích khác để sống, tuy rằng tôi không thật sự biết khoảng thời gian còn lại nó làm gì. Chỉ ba năm sau, thằng nhỏ đã nổi tiếng là lãnh tụ của một nhóm quá khích cổ vũ cho quyền khai thác thịt người. Hàng ngày chúng đi biểu tình với một thực đơn các món ăn chế biến từ thịt người và khẩu hiệu “Thịt người dành cho người.” Lý thuyết về sự tinh lọc con người và giải quyết nạn nhân mãn được chúng quăng lên tất cả các phương tiện thông tin.
Tình hình xã hội của tất cả các tộc người da vàng đều rơi vào khủng hoảng. Có một nan đề giữa tính nhân đạo và sự hợp lý không thể dung hợp. Các lãnh tụ trẻ có cơ hội để xiển dương những tham vọng chính trị. Họ lột mặt nạ ngụy tín đạo đức và đòi xoá bỏ các định chế hủ lậu dựa trên cơ sở niềm tin. Không còn chỗ cho những tâm hồn yếu đuối, ĐI.COM trở thành một thượng đế mới. Hành động là cứu cánh của hành động. Không có sự an ủi hay yên bình nào cho con người ngoài hành động theo ĐI.COM.
Trong vũ trường Liz năm 2014, tôi và cô gái ngồi trong một góc tối. Cô gái uống rượu. “Em thích một đêm bắt đầu bằng âm nhạc trên sàn nhảy. Âm thanh và ánh sáng trong vũ trường lúc nào cũng quyến rũ em. Nó làm cho em hứng khởi. Em thích được sờ mó, hôn hít trong một bầu khí sôi động. Em thích được làm tình giữa đám đông đồng loã. Em thích được làm nóng bằng cảm giác thác loạn. Sau đó về khách sạn. Cô gái nói. Hãy ôm em từ phía sau.” Tôi vòng tay sau lưng và thọc vào trong áo cô gái bóp nhẹ bầu vú. Người quản lý tiến về phía tôi với một ly rượu trên tay, hắn đưa cho tôi và nói: “Mời ông. Vui vẻ nhé.” Tất nhiên phải vui. Tôi không nhớ đã quen hắn trong trường hợp nào. Hắn nói tiếp: “Đừng về sớm.” Tôi ở lại không phải vì lời dặn dò hứa hẹn của hắn, mà vì cô gái muốn uống rượu. Sau mười hai giờ khuya, dàn nhạc ngừng chơi nhường chỗ cho những tiếng kêu khác thường từ phía trong, rồi trên sân khấu xuất hiện một người đàn ông ở truồng. Ông ta tiếp tục phát ra những âm thanh kỳ dị làm tất cả những người có mặt phải đứng bật dậy nhìn. Sau đó ông ta uốn vặn thân người. Những động tác của cơ thể tương ứng với âm thanh từ miệng ông ta thoát ra. Nó tạo ra một kích động khác với âm nhạc và sex. Mọi người thích thú làm theo ông ta. Tôi nghĩ đến ông Đạo Tiếng. Một thứ bản năng khác của con người đang được khơi dậy.
Tôi đưa cô gái về khách sạn. Xúc cảm từ mùi ngây ngất.
Khi tôi tỉnh dậy, cô gái đã bỏ đi để lại số điện thoại và lời nhắn: “Em phải đi làm. Đừng tìm em ban ngày.” Buổi tối, tôi quay trở lại vũ trường Liz gặp cô gái. “Đêm của em bắt đầu bằng rượu, cô gái nói, và kết thúc bằng kem đánh răng. Em chỉ thích những người đàn ông xộc vào em bằng miệng với râu, môi và lưỡi. Đừng bắt em tắm trước khi làm tình. Nước xối trên làn da làm em nguội lạnh.” Bất ngờ Muội xuất hiện. Cô gái bám lấy Muội. Ríu rít. Cô gái nói: “Nếu anh thích, đêm về ngủ với bọn em.” Nhưng tôi cảm thấy mình thừa ra. Rượu cũng thừa ra. Thuốc lá cũng thừa ra. Tôi bỏ về trước.
Năm 2052. Báo chí nhận dạng được năm thanh niên da vàng giống hệt nhau hoạt động ở năm khu vực khác nhau. Một ở Bắc Kinh. Một ở Singapore. Một ở San Francisco. Một ở Paris. Một ở Berlin. Họ chính là những con người được nhân bản từ Mao Trạch Đông. Cả năm đều hoạt động chính trị và có uy thế đáng kể. Chủ nghĩa tương thích và loại trừ được họ áp dụng vận động cho các cuộc tranh đấu. Tính cực đoan được đa số những người trẻ ủng hộ. Họ chiếm lĩnh các diễn đàn và triệt hạ lẫn nhau trong một ước muốn thống nhất quyền lãnh đạo các hoạt động của người da màu. Thằng nhỏ con của Phượng chịu sự chi phối của Mao Trạch Đông Bắc Kinh, theo cách gọi của giới báo chí. Chúng liên kết với nhau vừa theo kiểu lý tưởng vừa theo kiểu Mafia. Bởi thế, thỉnh thoảng vẫn có những cuộc tranh chấp đẫm máu xảy ra trên qui mô toàn cầu. Có một lần thằng nhỏ con Phượng đến tìm tôi, nói: “Cháu cần một chỗ ẩn nấp ít lâu.” Tôi gởi nó lên một chiếc tàu đánh cá xa bờ của một người bạn. Hai năm sau, nó xuất hiện lại. Và tôi được biết là Mao Trạch Đông Bắc Kinh đã bị đầu độc chết. Sự trốn tránh của nó chỉ bởi một lý do là bất đồng ý kiến với anh ta trong việc có nên hợp nhất các hoạt động của những người da màu khác nhau hay nên tập trung xây dựng một đế chế da vàng. Tôi hỏi nó: “Ý kiến của cháu thế nào?” Nó nói: “Một đế chế da vàng là đủ. Mao Trạch Đông Bắc Kinh không thực tế. Anh ta vẫn duy trì tính cách duy ý chí của bản gốc.” Tôi ngần ngừ một lúc rồi quyết định hỏi nó: “Bản gốc của cháu là ai?” Nó thản nhiên hơn tôi tưởng: “Cháu không thể biết được điều ấy. Chỉ có một điều chắc chắn là cháu biết có một tiếng nói khác trong cháu. Và cháu cần phải chống lại nó.”
Năm 2014. Muội nói: “Điều duy nhất em muốn là biến khỏi thế giới này một cách lặng lẽ nhất.” Người đàn ông trùng trục mang hình ảnh Tiến dưới chân núi Sam càng lúc càng tỏ ra khẩn thiết trong những câu nói mông lung của mình. Như thể sắp tận thế. Nhưng Muội không dành một chút quan tâm nào tới ông Đạo Tiếng khi nghe tôi kể về nhân vật này. “Sự ồn ào của ông ta giống như những con cào cào tán loạn khi người ta bước vào chỗ của chúng. Điều thật sự quan trọng là chính ông ta cần phải biến đi, trả lại cho chân không sự yên tĩnh của nó.” Tôi cảm thấy chính mình bị phủ nhận.
Năm 2054. Phạm vi hoạt động của Mao Trạch Đông San Francisco được xác định từ Bắc Mỹ đến lục địa Trung Hoa và trong nhất thời nó kết nối với Mao Trạch Đông Singapore tạo nên một mạng áp lực vòng quanh Thái Bình Dương. Tất cả những cư dân da vàng sống quanh bờ biển này đều chịu những tác động của chúng. Thuật ngữ báo chí dành cho hiện tượng mang tính khủng bố này là “cơn sốt vàng.” Chúng cưỡng chế người ta xuống đường với khẩu hiệu “Chúng ta là số đông.” “Số đông” tự cho phép mình làm mọi việc nhằm thực hiện lý tưởng hoán đổi vị thế trung tâm của người da trắng. Nền văn minh ăn thịt người mang trong mình nó cái giá trị thanh lọc và bởi thế cơn sốt vàng càng ngày càng quyết liệt. Có những kẻ bỗng dưng biến đi không tăm tích, đồng thời có những kẻ mới xuất hiện như từ dưới đất chui lên. Như thể đã có một nhà máy nghiền và đúc khuôn các con người, chúng sống không lý lịch nhưng có một mục đích rõ ràng. Hoàn thiện một phẩm cách đồng đội không sợ hãi và quy hướng ý nghĩa tồn tại vào hành động.
N nói, đôi lúc em cảm thấy có lỗi với anh vì sự thờ ơ của mình. Để thấm đòn hiu hắt, tôi nhẩy xe lên Đắc Nông. Thị trấn lạnh và khô. Nhà cửa lam nham. Những cô gái K’Ho lắc mông trên con đường bị xói lở. Tôi vào phòng trọ và nói: “Cho tôi một cô gái.” “Tất cả các em hôm nay đều có kinh,” người chủ cho biết. Tôi hỏi lại: “Chỉ có một phiên bản sao?” Người chủ bảo vâng. Thế thì hiu hắt thật. Tôi lang thang vào đồi chè. Những căn chòi giả lá được dựng trên các sườn đồi, trống hoác. Mỗi chòi có một cô gái. Tôi đếm được 52 phiên bản dân tộc khác nhau. Họ không mời chào để bảo lưu một huyền thoại sống động trong ca dao, như thật. Nhưng tôi không thể làm một thằng phải gió với một nỗi chán chường bất định.
Hàng ngày tôi đi bộ lên một con dốc để vào quán cà phê có cô gái K’Ho đen nhẻm nhưng duyên dáng. Cô khá nghiêm trang. Tôi thường ngồi đến trưa chỉ để nhìn cô đi qua đi lại với đôi chân to chắc nịch. Một hôm cô nói với tôi: “Ngày mai em không bán nữa.” Tôi hỏi: “Sao vậy?” “Em đi lấy chồng,” cô vui vẻ cho biết. Tôi chúc cô hạnh phúc và bảo ngày mai tôi không uống cà phê nữa. Cô hỏi lại y như tôi “Sao vậy?” Tôi nói “vì không có em.” “Không có em thì cà phê vẫn ngon mà,” cô gái dỗ dành. Tôi bảo tôi muốn lên núi sống với cô. Cô cười thật tươi: “Ông xạo quá.” Tôi cũng cười: “Nhưng nếu tôi không xạo thì thật đáng chán, đúng không?”
Muội nói truyện của anh lúc nào cũng có những cô gái. Tôi bảo và vài thứ khác. Muội nói anh thử viết không có gái xem sao. Tôi bảo không có gái thì tôi sống làm gì.
Thằng con của Phượng cũng nói với tôi: “Tình yêu là một cái gì đó xa xỉ. Cháu không mường tượng được là cháu có thể yêu một ai đó, cho dù đó là nữ hay nam. Những cái mà ta gọi là mối quan hệ thật quá uỷ mị. Chỉ có sự thích ứng là cần thiết.”
Tôi bảo thích ứng cũng là một ái lực. Nó bảo không phải đâu. “Thích ứng là thích ứng. Cả cái người ta gọi là tình yêu tổ quốc cũng vớ vẩn. Tổ quốc là một khái niệm trừu tượng cổ điển bị các nhà chính trị lợi dụng cho tham vọng quyền lực của họ. Chỉ có chế độ xã hội là cụ thể, nó áp đặt con người trong cơ chế của nó. Có thể xấu hoặc tốt. Chẳng có lý do gì người ta lại phải bám vào một mảnh đất khi có những mảnh đất tốt hơn, những chế độ xã hội đẹp hơn.”
Thằng này vô tổ quốc, tôi nghĩ.
Dường như nó đọc được ý nghĩ của tôi. Nó nói: “Khi người ta vô tính thì mọi ràng buộc trở nên vô nghĩa. Những người như Giêsu, Thích Ca, Trang Tử, Karl Marx làm gì có tổ quốc.”
“Vậy thì cái giấc mơ da vàng mà cháu đang theo đuổi là gì?”
“Nó chẳng là gì cả. Nó chỉ là cái lý của sự vận hành.”
“Cái lý ấy là ĐI.COM?”
“Cháu không biết ĐI.COM.”
Muội cũng nói: “Em chỉ có một cái tổ cò. Ở đó, em tạo nên thế giới theo ý em muốn.” Thế giới của Muội là những hình nhân, phóng tưởng cái chết. Và Muội huỷ diệt mình như thể là cách để đi đến tận cùng sự sống. Đôi khi, tôi cũng cảm thấy xót xa. Những mẩn đỏ nổi lên khắp người Muội vì rượu và thiếu ngủ. Lúc đầu Muội còn uống thuốc, sau đó Muội bảo đó là body art, không ngứa không đau thì kệ bà nó.
Tôi không định hình được cái tổ cò của Muội. Dường như nó rất bé, cũng dường như nó rất to. Tôi chưa bao giờ đi hết cái tổ cò ấy. Những hình nhân của Muội có khi là rơm, có khi là những vòng dây kẽm, có khi là cả một khối đá. Muội mất hút ở trong đó. Tôi không muốn tìm bất cứ một ý nghĩa nào trên những tác phẩm của Muội. Nàng bảo em không thích kiểu ưa triết lý của anh. Triết lý cũng chỉ là sự áp đặt. Mắc mớ gì mà phải làm rắc rối cái vốn đơn giản. Tôi bảo triết lý là một khủng hoảng thừa. Nó cũng giống như bệnh ghẻ. Ngứa và lây lan. Để tìm sự an bình, tôi vẫn đến tổ cò của Muội, nằm giữa những hình nhân. Tôi cảm thấy những nền văn minh đi qua như những bóng ma. Nhiều khi tôi thấy Muội thật xa cách.
Thằng nhỏ con của Phượng lại nói về chuyện tổ quốc. Nó bảo tổ quốc cũng như một cái áo rách. Cần phải quăng vào sọt rác. Cái nơi người ta sinh ra chẳng có ý nghĩa gì. Trên mặt đất này không có chỗ nào thiêng liêng hơn chỗ nào. Vấn đề của thế giới hiện đại là sự tranh chấp quyền kiểm soát trí tuệ con người. Điều này nó đã vượt qua tất cả các biên giới địa lý và văn hoá.
Nó đang đi gần đến ĐI.COM và tôi rùng mình khi nghĩ rằng ĐI.COM đã tự phân tán, biến thể và xâm nhập vào con người. ĐI.COM tạo ra các khuynh hướng và thúc đẩy các hành động. Những kẻ như thằng con Phượng, bằng các nguyên tắc thích ứng, đã kết nối những con người cùng một khuynh hướng tạo nên một mạng lưới xuyên quốc gia. Khái niệm về vùng miền, lãnh thổ trở thành lạc hậu và được thay thế bởi tính trào lưu. Bởi thế sự cực đoan cũng trở nên khốc liệt hơn. Ở giữa những trào lưu là khoảng trống thủ cựu của những niềm tin cũ.
Ông Đạo Tiếng xây một bảo tháp cho linh hồn mình. Dân quanh vùng Bảy Núi gọi là tháp Sám Hối. Không biết từ bao giờ đã hình thành một niềm tin trong dân gian rằng, những ai muốn sám hối về tội lỗi hay quá khứ của mình vào trong tháp Sám Hối đấm ngực ăn năn thì sẽ được giải trừ nghiệp chướng. Và khi thành tâm hối cải, tiếng đấm ngực sẽ âm vang. Ba nghìn thế giới của chư Phật sẽ rung động. Cái tháp vào một cửa, ra một cửa. Cửa vào là tử, cửa ra là sinh. Kẻ nào không biết điều ấy, đi lại con đường cũ sẽ muôn đời trầm luân.
Ngày tôi đến Angkor Wat trên đất Miên, tôi đã nhìn thấy những tảng đá bở vữa ra. Từng thế kỷ đổ sụp. Những linh hồn không còn nơi trú ngụ bay túa ra như một đàn cào cào đen, gây nên những trận ôn dịch làm chết hàng triệu người và súc vật. Ông Đạo Tiếng bảo cần phải đưa những linh hồn này về Bảy Núi. Tháp Sám Hối trở nên chật chội. Những linh hồn chồng chất lên nhau tạo ra một khối màu óng ánh như ngọc bích. Khối ngọc bích ban ơn phước cho những ai tin thờ và sờ mó vào nó.
Khi Diệu An bỏ Hà Nội đi Châu Đốc và tìm vào Bảy Núi. Ông Đạo Tiếng đón Diệu An dưới chân núi Cấm. Nàng không ngạc nhiên vì sao ông ta lại biết để đón nàng. Đạo Tiếng đưa Diệu An đến tháp Sám Hối và làm cho nàng một cái cốc gần đó. Năm 2050, ông Đạo Tiếng đã là một người giàu có. Tháp Sám Hối là con gà đẻ trứng vàng của hắn. Tiền cúng dường của bá tánh ngày nào cũng đầy ắp trong cái hòm lớn đặt giữa tháp. Buổi tối hắn đếm tiền. Buổi sáng hắn tụng kinh và giảng kinh sách dưới bậc thềm. Chính quyền dùng áp lực bắt hắn phải nộp tiền vào công quĩ và chỉ cho phép hắn được quyền sử dụng 20% vào mục đích tu sửa và quản lý bảo tháp. Tuy thế, hắn vẫn là người giàu có. Không một ai đến tháp Sám Hối mà không được ăn uống. “Hãy sống mà ăn năn vì ngày tận thế sắp đến.” Diệu An nói với tôi: “Em có cảm giác ông Đạo Tiếng là người bịp bợm.” Tôi hỏi tại sao? Diệu An bảo “anh ấy chỉ nói về tương lai và dùng cái tương lai ấy để hù doạ người ta.” Tôi bảo làm tiên tri mà không nói về tương lai thì nói cái gì. Ít ra thì cũng để người ta sống tốt hơn. Diệu An có vẻ như tỉnh ngộ về một điều gì đó. Nàng bảo “em không ở đây nữa.” Tôi bảo ở đâu thì cũng vậy, dù em có muốn giải thoát hay không. Cứ ở yên đây mà tự tu. Nhưng tu là gì thì đừng hỏi.
Diệu An nhập thất.
Từ ngày đó ông Đạo Tiếng không nói năng gì nữa. Ai hỏi gì về đạo, hắn chỉ chắp tay lạy và niệm Nam mô a di đà Phật. Cho đến khi ông Đạo Tiếng chết, người ta kiểm kê được hắn đã xây dựng tổng cộng 49 ngôi chùa lớn nhỏ và một tài khoản ở ngân hàng Thụy Sĩ gần hai triệu đô la Mỹ.
Có lúc tôi tưởng như chỉ còn có một mình trên đời. Tôi không biết phải sống như thế nào. Và chết như thế nào.
Một người đàn bà tôi đã gặp ở đâu đó nói rằng, con người vẫn không ngừng trùng tu những di tích kỳ vĩ được làm nên bằng xương máu của mình để nhìn ngắm. Ở giữa sự lớn lao và tầm thường, vinh quang và hèn mọn, điều ý nghĩa nhất có thể là được làm tình như một con người đơn giản, được ăn uống như một người khỏe mạnh, được ngủ nghỉ như một con người an bình. Thoát khỏi mọi nỗi ám ảnh.
Đêm trước khi giã từ cuộc đời, ông Đạo Tiếng đã phá giới xuống núi tìm gái, sau đó ăn một tô phở và ngủ không dậy nữa.
Xác Đạo Tiếng được tìm thấy trong một khách sạn và người ta mang về vất trong nhà xác bệnh viện tỉnh Châu Đốc. Năm ấy hắn 85 tuổi.
Năm 2055, trong lúc tôi và N vẫn ngồi trong quán cà phê chờ giờ lên đường, thằng con của Phượng bước thẳng đến chỗ tôi, tự kéo ghế ngồi. Nó nói:
-Bác nên giả điên vài năm. Cần phải thoát ra khỏi cơ chế thích ứng, nếu không bác sẽ bị nguy hiểm. Bác không đủ sức chịu đựng đâu.
-Bác cũng muốn mọi chuyện xong đi. Tôi nói.
-Chẳng có chuyện gì xong được, trừ khi bác tự quyết định chấm dứt cuộc đời mình.
Tôi nhớ đến ông Đạo Tiếng và cách hắn chết. Tôi nhủ thầm, mình sẽ đi vào trong giấc mơ và không về nữa.
N cầm tay tôi, nhưng dường như tôi không còn cảm thấy có bàn tay ấy.
Năm 2006. Tôi và Tiến sang Campuchia chơi. Chúng tôi leo lên Angkor Thom, Angkor Wat, núi Phnom Bakheng và ra Biển Hồ. Cảm giác leo lên đỉnh Angkor Wat cũng không sướng hơn hớp một ngụm cà phê kho nóng hổi của ông chủ quán người Tàu trong một hẻm nhỏ ở Phnom Penh. Nhiều thứ đã mất đi, như ly cà phê kho không còn tìm thấy ở Sài Gòn. Tôi đã uống một quá khứ cũng như tôi đã bước đi trên những lối đi thấm đẫm máu, nỗi thống khổ và sự tan nát của con người trên những phiến đá của tham vọng vĩnh cửu.
Tôi không hiểu được điều gì đã khiến tôi muốn ở lại xứ Miên bần cùng và trễ nải kia, mặc dù đa phần những người Việt Nam sống trên đất Miên đều nghèo hèn. Tôi không tin là Phnom Penh hấp dẫn vì nó giống Sài Gòn trước 1975. Có một nỗi niềm bí ẩn và cao cả hơn cả sự tự do của xã hội mà người sống trên xứ chùa tháp thụ hưởng. Nỗi niềm ấy giống như nguồn cội mà người ta muốn quay về hơn là một thách thức lôi cuốn của một vẻ đẹp khác.
Nhưng mãi đến năm 2050, tôi mới có dịp trở lại Campuchia. Thành phố Phnom Penh tràn ngập người Hoa và những người lai Tàu. Người Miên bản xứ không ai bảo ai, họ tự tìm về Siem Reap và sống quanh khu vực đền đài cổ. Nhiều vùng nông thôn rộng lớn bị bỏ hoang. Ngoài các biến động chính trị không đáng kể do các phe nhóm đảng phái tạo nên, đời sống trên xứ Miên vẫn tiềm ẩn những khốc liệt. Hàng triệu người lây lất bên Biển Hồ. Họ như những chiến binh điêu tàn chờ ngày quật khởi. Những đứa bé bảy tám tuổi vẫn ở truồng vì không có quần áo. Chúng lang thang giữa các bức vách và lẫn lộn với đất. Thần linh đã bỏ quên họ. Bởi họ đã quên cầu nguyện.
Trong mắt họ, Phật tính đã mù, chỉ còn cái bóng của thần Shiva toả sắc.
Khi ĐI.COM xuất hiện, những người Hoa tha hương đã biến sức mạnh kinh tế của mình thành sức mạnh chính trị. Hằng đêm, những người mặc quần áo đen ra đường kêu rú. Không một người da trắng nào dám ở lại Campuchia, ngoại trừ các nhân viên sứ quán.
Trên đường Monivong, tôi tận mắt chứng kiến cảnh một phóng viên người Nga bị đám đông nuốt chửng khi anh ta có ý định quay phim đám đông điên cuồng ấy. Thật không thể tưởng tượng anh ta lại có thể tan biến nhanh thế. Ngay khi bước vào quán, tôi đã chú ý đến anh với một bộ râu của người Hồi giáo và một màu da nâu hồng. Tôi ngồi xuống bàn bên cạnh. Cũng như tôi, anh ta đến Campuchia với một ước muốn được nhìn thấy sự thay đổi. Khi tiếng gầm rú của những người mặc đồ đen đến gần, anh ta lao ra đường và chĩa thẳng ống kính vào họ. Tôi kịp nhìn thấy có một khuôn mặt rất giống Mao Trạch Đông thời trẻ. Đám đông nhanh chóng tràn qua anh ta. Sau đó không còn một dấu vết nào, kể cả cái máy quay phim. Anh ta đã bị đám đông ăn thịt. Một cách giết người phi tang mà nhà chức trách tuy biết nhưng không thể truy cứu trách nhiệm hình sự.
Năm 2010. Hà Nội tràn ngập các tin đồn về sự quay trở lại của con rồng sau một ngàn năm “phi long tại thiên.” Ngày ngày, người ta đổ ra đường ngóng cổ nhìn trời mong nhìn thấy rồng giáng hiện. Nhưng ông Đạo Tiếng nói con rồng đã về tu trong núi Cấm và bị hai con Thanh xà, Bạch xà canh giữ.
Đó là thời gian tôi có dịp đi lại giữa Châu Đốc và Hà Nội nhiều nhất. Tôi không có ý muốn nhìn thấy rồng, nhưng sự bí ẩn mang tính ĐI.COM của rồng lôi cuốn tôi.
Tôi tìm gặp ông Đạo Tiếng. Hắn ta đưa tôi lên đỉnh núi Cấm và bảo tôi ngồi xuống trên một tảng đá. “Nếu ông có thể thiền định thì hãy thiền định,” hắn nói. Tôi chỉ ngồi nhắm mắt và điều hoà hơi thở. Hắn hỏi tôi có nhìn thấy biển Hà Tiên không? Tôi nói có. Hắn lại hỏi có nhìn thấy biển Phú Quốc không? Tôi nói không. “Vậy thì hãy cố nhìn cho thấy,” hắn bảo. Tôi cố cũng không thể thấy và tôi hiểu điều ông ta muốn nói.
Đôi khi, tôi cảm thấy như không biết mình muốn gì. Và cuộc sống trôi đi. Có một người đàn bà hỏi tôi: “Bây giờ anh thế nào?” Tôi bảo tôi hài lòng với cuộc sống của mình và muốn tận hưởng nó. “Cái gì làm anh hài lòng?” Tất nhiên không phải xã hội tôi đang sống, mà là chính cuộc đời tôi, dù không phải “ngon lành” gì. “Cụ thể là cái gì?” Tôi nói lại cái ý đã viết trước: “Được làm tình như một người đơn giản. Được ăn uống như một người khỏe mạnh. Và được ngủ nghỉ như một người an bình.” “Còn cái gì nữa?” “Được nhìn ngắm mình.” “Anh nghĩ mình đẹp trai à?” “Tôi cho rằng hài lòng về thân thể mình là căn bản của hạnh phúc.”
Nhưng dường như sự hài lòng chưa phải là hạnh phúc. Người đàn bà tin rằng tôi nói thật. Một hạnh phúc thật, có lẽ chỉ có thể xảy ra ngay khi cuộc sống chấm dứt.
Tiến bảo tôi nhìn từ phía sau có cái đầu giống như trẻ con. Nhưng người đàn bà lại bảo nhìn tôi thấy vất vả. “Trong bóng tối, tôi đã nhiều lần cứu anh,” người đàn bà nói làm tôi ngạc nhiên và cảm động. ĐI.COM vây hãm và muốn triệt hạ tôi. Tôi phải chết vì tìm cách làm sáng tỏ NGÀI trước giờ NGÀI muốn hiển lộ. Tôi hỏi người đàn bà: “Chị thuộc về ĐI.COM?” “Tôi không biết ĐI.COM, nhưng tôi biết có những người không muốn cho anh sống.”
Tôi sống với bóng tối và sự u ám của những dự cảm về ĐI.COM. Nhưng tại sao tôi lại nói với người đàn bà rằng tôi đang hài lòng? Phải chăng tôi muốn tự trấn an, rằng tôi đang sống đúng?
Muội gọi cho tôi từ Hà Nội. “Em ngạt thở vì những tin đồn.” Tôi nói với Muội, con rồng đã chết và những loại bay được cũng sẽ chết. Hãy đi đến bất kỳ một nơi nào khác. Nhưng Muội bảo em còn một số công việc cần hoàn tất trước khi tự dứt điểm mình. Muội không cho tôi biết đó là công việc gì. Mãi sau này tôi mới biết Muội muốn vẽ con rồng.
N đi học lại. Nàng có ý định lấy bằng tiến sĩ. “Đây cũng là cách em muốn rời xa anh một thời gian. Em muốn biết em có thật sự yêu anh hay không.”
Có một khoảng trống do những cô gái để lại, mỗi ngày tôi khuấy động khoảng trống ấy bằng cách đi qua những con phố bán đồ lưu niệm. Tôi mường tượng những vòng đeo tay mà Muội sẽ thích. Tôi cũng nhìn ngắm những quyển sách trên kệ bán hàng và nghĩ chữ nghĩa chẳng giúp ích gì cho N, nhưng tôi cũng mua những quyển mà tôi nghĩ sẽ có lúc N cần. Tôi đóng đinh trên tường để treo những chiếc vòng mua cho Muội và xếp những quyển sách mua cho N thành những vách ngăn trong nhà. Khi Muội chết, tôi vẫn treo những chiếc vòng ấy trên tường và tôi nhìn thấy chúng như vẩy rồng lấp lánh.
Trước đó, Muội thuê nhà và dự định sẽ ở lại Hà Nội lâu dài để sáng tác. Một loạt các ý tưởng về sắp đặt trên đường phố mà theo Muội chỉ có thể làm được ở Hà Nội. Tuy nhiên cái ám ảnh về rồng đã chiếm lĩnh toàn bộ tâm trí Muội. Nàng cho làm những con rồng bằng tre, bằng rơm và phế liệu sắt. Đến lúc chán, Muội đốt tất cả. Chúng biến thành những con rồng lửa hừng hực thở và uốn lượn trong một vẻ đẹp bất ngờ. Nhưng ngay cả cái đẹp phiêu linh diễm lệ máu lửa cực kỳ ấy cũng chỉ là một xúc cảm thẩm mỹ. Nó không hé lộ điều gì về những cõi miền xa thẳm của một niềm tin đã mất. Nó cũng không kỳ ảo hơn những tin đồn.
Muội viết: “Cuối cùng tôi nhận ra một điều, con rồng chỉ là giấc mơ của con giun. Và tôi vĩnh viễn rời bỏ Hà Nội.”
Mùa hè năm 2009, một cơn nóng thảm khốc làm hàng loạt thú vật ngã lăn ra chết. Một nửa những người mắc bệnh tâm thần lên cơn. Họ nổ tung trên đường phố, xé nát quần áo và nhảy tưng như bị điện giật, miệng xùi bọt. Họ điềm báo cái chết của rồng. Những người tỉnh táo bảo nhau cần phải cẩn trọng giữ mình.
Tôi về núi Cấm. Ông Đạo Tiếng đón tôi vào một cái am gần hang Mẹ Đẻ. Hàng ngày tôi ra vào hang với tâm niệm của một con rắn thay da. Đôi khi tôi có cảm giác con rồng cũng đi ra đi vào cái hang đó. Mùi của nó hôi như mùi đất thó. Tôi nghĩ nó hôi vì sống lâu.
N cắt đứt liên lạc với tôi. Những ngày trên núi Cấm không thật sự yên ả như tôi mong đợi. Nó giống như một cái chết. Xa lìa nhân thế. Cảm giác tù đày trong thời gian làm cho tôi muốn nhảy xuống núi, muốn văng mạng vào thần thánh và quỉ dữ. Nhưng cả thần thánh và quỉ dữ cũng đã bị cầm tù đâu đó. Tôi chợt nhận ra một điều, vắng thần thánh và quỉ dữ, con người trở nên cô đơn không chịu nổi. Thế là ngày ngày tôi vào chùa đốt nhang và tin rằng không phải Lý Công Uẩn bịa ra câu chuyện rồng bay để tiện cho việc dời đô mà Lý Công Uẩn đã sống với giấc mơ của hào cửu ngũ trong quẻ Càn.
Một ngày không đẹp trời. Cơn mưa đổ từ sáng sớm đến chiều hôm. Cả ngọn núi ướt nhẹp và buồn so. Có một người đàn ông xuất hiện cùng với chiếc xe đầy bùn đất. Ông ta vào chùa thắp nhang khấn vái. Khuôn mặt lo lắng và ưu phiền. Tôi muốn nói đôi điều với ông ta. Nhưng sự xa cách của ông làm tôi ngần ngại. Lặng yên quan sát ông ta, tôi nhìn thấy ác nghiệp của con người trùng trùng duyên khởi. Bất chợt, tôi cũng nhìn thấy một người khác không biết xuất hiện từ bao giờ phía sau lưng ông ta. Một người có khuôn mặt lịch sử. Tôi không phân biệt được đó là Mao Trạch Đông hay Tư Mã Thiên. Người lạ cũng quan sát người đàn ông đến trước như tôi. Không lâu sau, người đàn ông trở lại chiếc xe của mình. Tôi nhìn theo, tưởng như thoát được một gánh nặng. Tuy nhiên, chiếc xe đã lăn bánh và lao thẳng xuống vực. Tiếng mưa che lấp tiếng chiếc xe va đập. Tôi quay lại tìm người lạ, nhưng không thấy anh ta đâu.
Ngày hôm sau, tôi quyết định về thành phố. Ông Đạo Tiếng đưa tôi xuống núi và cầu chúc tôi bình an. Nhưng tôi không thể an bình, không phải vì cái chết bất thường của người đàn ông ám ảnh mà khuôn mặt người vừa giống Tư Mã Thiên, vừa giống Mao Trạch Đông kia đeo bám tôi. Đôi khi tôi nghĩ, đó là hiện thân của ĐI.COM. Để tiện cho việc kể câu chuyện này, tôi tạm gọi anh ta là X.
Năm 2011, X công khai lộ diện. Anh ta đến gặp tôi và chào bán những viên đá tròn có lỗ xỏ ở giữa. Những viên đá đủ màu sắc to bằng quả bồ quân. Có viên phát ra ánh sáng. Anh ta quả quyết đó là những viên đá mộ táng của người Chăm cách đây hơn một ngàn năm. Anh ta cũng trưng ra một quyển sách của Ấn Độ có hình những viên đá trang sức ấy. Không nghi ngờ, tôi mua hết số đá anh ta mang tới với một giá được coi là rẻ. Tôi tìm dây đeo cho mình một viên có màu tím sáng. Những viên còn lại tôi mang tặng cho bạn bè. Tôi không có cảm giác gì khi đeo viên đá đó trên cổ. Nhưng thật khủng khiếp, tất cả những ai đeo các viên đá ấy đều bị đập vỡ ngực chết chỉ trong một đêm. Có hai người may mắn thoát chết nhờ bỏ nó ra khi ngủ. Viên đá trên ngực tôi càng trở nên ngời sáng, nhưng tôi quá sợ, đành chôn nó xuống đất.
X gặp lại tôi sau đó không lâu. Anh ta bảo cho mua lại những viên đá cũ với giá gấp mười lần đã bán cho tôi. Tôi lắc đầu nói đã chôn nó lại. Anh ta đề nghị tôi chỉ chỗ chôn, nhưng tôi từ chối.
X tiếp tục luẩn quẩn đâu đó quanh tôi cho đến khi có những người mặc quần áo đen xuất hiện. Tiếng họ la hét làm rung các mái nhà. Không còn nhìn thấy anh ta nữa, nhưng tôi không nghĩ anh ta chết.
N đột ngột lấy chồng. Đó là người đàn ông đã hướng dẫn N làm luận án tiến sĩ. Tôi chỉ buồn nhưng không ghen. N không mời tôi ngày cưới. Chúng tôi đứt liên lạc gần sáu năm. Khi trở lại với tôi, N chỉ nói vắn tắt: “Chúng ta tiếp tục như cũ.” Tôi cũng chỉ gật đầu, xem như không có chuyện gì. Trong thời gian vắng N, tôi đi làm thuê cho một công ty quảng cáo. Công việc buộc phải đi nhiều, tôi thật sự thú vị với các khách sạn tỉnh lẻ. Nó cho tôi cảm giác đi sâu mãi vào cái vô định với những cô gái lạ. Tôi không dám quả quyết rằng mình đã gặp người ngoài hành tinh, nhưng một đôi khi, tôi vẫn thấy sự khác thường bí ẩn không thuộc về thế giới con người.
Cô gái có màu da vàng đục như sáp, hỏi tôi: “Anh đã từng gặp người nào đổi màu chưa?” Tôi bảo chưa. Cô nói: “Chắc là tại anh chưa làm cho người ta đủ sướng.” Tôi nghĩ cô gái đùa, nên bình thản nói: “Chắc là vậy.” Cô ta lại hỏi: “Nếu anh thấy một cô gái đổi màu thì anh có sợ không?” “Vấn đề là cô ta đổi màu như thế nào.” Cô gái nói tiếp: “Em tin là anh sẽ không sợ.” “Sao em biết anh sẽ không sợ?” “Vì đó là điều tuyệt vời nhất mà anh có thể làm cho một cô gái.”
Tất cả mọi chi tiết trên thân thể cô gái đều đẹp. Cô bảo hãy làm theo cách cô chỉ. OK. Vẻ đẹp của cô không thể cưỡng lại, tôi làm theo và lắng nghe. Dẫu sao tôi không thể không tò mò. Sau đó không lâu tôi bắt nhịp được với một nhịp thở vừa khoan hoà vừa thôi thúc. Thân thể cô gái từ từ đỏ lên. Tôi cũng dần dần quên lắng nghe. Rồi gần như là một chói loà, cô gái rực đỏ như một khối ngọc toả sáng. Cũng gần như xoá nhoà, bất giác tôi sụp xuống lạy cô ta như thể đó là điều tất nhiên phải xảy ra. Màu đỏ tan dần. Tấm drap ướt đẫm. Khi tôi cảm thấy bình thường trong người thì thân thể cô gái đã chuyển qua màu xanh. Trong veo.
Tôi trả tiền cho cô gái. Cô ta bảo: “Không cần đâu.” Tôi hỏi: “Sao vậy?” Cô gái bảo: “Em đến đây không phải để làm đĩ.” Tôi hỏi tiếp: “Em sống bằng cách nào?” Cô gái nhún vai: “Không nhất thiết phải ăn.” Lúc ấy, tôi nhìn thấy da cô vàng đục như sáp. Trước khi ra khỏi phòng, cô nói: “Hãy làm với các cô gái khác như đã làm với em.”
Sau đó tôi đã cố gắng tìm lại cô ta nhưng không được. Mười năm sau, tôi gặp một trường hợp tương tự. Họ ra đi không để lại dấu vết.
Muội Muội nói chúng ta đang sống trong một thế giới được cài đặt các cảnh giới khác nhau của tiến trình chuyển hoá tâm thức và vật thể. Người ta cần phải biết lắng nghe và nhận biết được các cảnh giới khác nhau ấy để liên thông với chính mình. Khi kết nối được các diện mạo khác nhau của mình, người ta sẽ nhận ra được bản thể. Và trở thành bản thể, đó là một tự do tuyệt đối.
Phải chăng vì thế Muội Muội đã đến với tôi để sống những song trùng phức hợp, không ghen tuông, không đố kỵ? Tôi không dám chắc nàng đã nhận ra mình trong những người đàn bà khác. Nhưng quả thật, khi gặp N hay Diệu An, nàng vẫn cười bảo càng đông càng vui. Riêng đối với Muội, nàng tỏ ra ngưỡng mộ không phải vì Muội không còn nữa mà gần như đó là một tình yêu với chính mình.
Năm 2025, trong một chuyến điền dã lên cao nguyên, Muội Muội tình cờ phát hiện được một cặp tình nhân hoá thạch trong tư thế đang làm tình theo kiểu chó. Nàng muốn mang nó về trưng trong vườn tượng dưới chân núi Sam, nhưng ban quản lý Miếu Bà Chúa Xứ phản ứng vì họ cho rằng toàn bộ vùng Bảy Núi cần phải được gìn giữ trong môi trường đạo hạnh. Tuy nhiên, nàng đã thuyết phục được các quan chức văn nghệ và chính quyền đồng ý đặt cặp tình nhân hoá thạch vào giữa vườn tượng trên một bệ đá cao ba thước với lý do nó thật sự là tác phẩm nghệ thuật mẫu mực của thiên nhiên, ngoài giá trị của một di chỉ khảo cổ.
Từ đó, đĩ ở dưới chân núi Sam càng ngày càng nhiều. Mùa lễ hội, đĩ ra đường đông hơn người hành hương và họ đón khách suốt ngày đêm.
Khi ấy con rồng trong núi Cấm đã ăn thịt được hai con rắn canh giữ mình. Mùi dịch khí tanh tưởi dưới các chân núi làm nó lồng lộn. Hai cánh mũi phồng căng và hơi thở gấp gáp của nó phả ra hơi nóng làm cho lá cây trên núi rụng sạch. Các ông đạo ngửa mặt than: Thời mạt pháp. Nhưng người đàn ông vẫn rao giảng trong vườn tượng lại vui mừng. Ông ta bảo rồng sắp bay được rồi. Muội Muội cho rằng đây là người đàn ông có khả năng kết nối các thế giới khác nhau. Nàng tìm cách tiếp cận với ông ta. Tôi nói với Muội Muội, nhìn em ông ta có thể biết được em đã từng ngủ với anh và điều đó có thể sẽ là lý do ông ta không muốn gặp em. “Như thế thì thật đáng tiếc, Muội Muội nói, em nghĩ rằng ông ấy sẽ luôn luôn sẵn sàng mở cánh cửa của ổng như một phẩm hạnh của hành giả để bất cứ ai cũng có thể được ơn phước nhìn thấy thế giới khác.” Tôi bảo có thể ông ta vẫn mở cánh cửa của mình nhưng không phải cho tất cả mọi người. Tôi nhớ tới Phượng. Cánh cửa của ông ta cũng không mở cho Phượng.
Ông Đạo Tiếng nói rồng không phải là biểu tượng mà là một con vật có thật. Muốn nhìn thấy nó phải có hai điều kiện trái ngược nhau, một là ăn chay giữ lòng thanh tịnh ít nhất một trăm ngày liên tục, hai là phải được trao đổi khí lực âm dương điều hoà cũng trong một trăm ngày liên tục với một trăm người khác nhau. Con người khi ấy vừa có con mắt huệ, vừa có tâm đồng nhất. Nhờ thế có thể nhìn thấy cái không thể thấy.
Theo ông Đạo Tiếng, trong lịch sử nhân loại chỉ có ba người nhìn thấy rồng. Một là Phục Hi, hai là Lý Công Uẩn, ba là ông.
Có lần tôi đã hỏi hắn: “ĐI.COM có phải là rồng không?” Hắn ta nói không. Chỉ sau khi chết, người ta mới thật sự biết ĐI.COM là gì.
Muội Muội nói em cóc cần biết ĐI.COM là cái quái gì. Em chỉ muốn biết chính em. Nhưng lão già hủ lậu kia vô tích sự lại còn muốn người ta tôn thờ mình. Lão không biết dơ dáy xấu hổ vì ăn bám nhân dân lại còn lên mặt rao giảng chân lý. Lão nói cứu độ con người nhưng con người lại phải cứu tế lão. Cứ dẹp cái trò cúng dường đi thử xem, lão có cứu được lão không?
Cơn hờn giận vớ vẩn đã đưa Muội Muội sang Campuchia. Nàng thích nhìn ngắm những con rắn cụt đầu còn sót lại trên những công trình kiến trúc cổ. Và nàng thấy rồng hay rắn cũng chỉ là một. Ý niệm về quyền lực như một cái đẹp nội tại, nó giải thoát nàng khỏi sự ấm ức bị coi thường.
Cảm thấy dễ chịu hơn, nàng đi tìm những người đàn ông bản xứ và làm tình như điên. Nàng bảo cứ như về nguồn vậy. Đàn ông là một cái cớ, nàng chỉ yêu chính mình, bởi thế nàng có thể làm tình với bất cứ ai. Tuy nhiên có một khoảng trống trong nàng không thể lấp. Nó là vực thẳm của nàng. Đôi khi tôi cũng đến được mép bờ vực thẳm ấy, nhưng cũng chỉ để thẫn thờ và chán. Một khoảng cách đủ để chia xa không vấn vương. Nó cũng đủ cho sự gần gũi một lằn ranh ác nghiệt. Nàng đi và đến, với tôi, như một cái trạm trên muôn dặm tìm mình.
Dẫu sao tôi cũng cảm thấy vui và có lẽ cũng chỉ để vui.
Năm 2025, tôi có dịp đi lại khá nhiều trên những con đường dẫn về Thất Sơn. Và tôi tự trở thành ma trận của chính mình. Đôi khi, tôi cũng không hiểu tại sao tôi phải đi mà không tĩnh tại nghỉ ngơi. Càng lúc tôi càng cảm thấy mình bị cuốn vào hành động. Tôi gọi đó là tình trạng nhiễm ĐI.COM. Lúc nào cũng nhấp nhổm.
Tôi nhớ lại bản di chúc của Phan Thanh Giản dặn dò con cháu không được ra làm quan sau khi phải ký hoà ước nhượng đất cho Pháp và tự xử vì cái việc nghiệt ngã ấy của mình. Tôi tự hỏi không biết hậu duệ của ông có khả năng từ khước chính trị không. Tôi vào Văn Thánh Miếu ở Vĩnh Long viếng ông.
Có một người đàn ông ngồi trước bàn cờ tướng một mình, bên hiên miếu. Ông ta đang tập đánh cờ thế, tôi đoán vậy. Lặng yên đứng xem, hút hết nửa bao thuốc, tôi cũng chưa thấy ông ta đi thêm một nước nào. Dường như biết tôi không thể chờ thêm được nữa, ông ta ngẩng đầu lên bảo: “Xin mời ông đánh một ván cho vui.” Tôi bảo tôi không thích đánh cờ, dù rằng tôi thích xem người ta đánh cờ. “Bạo động là một tội lỗi, bất bạo động còn tội lỗi hơn,” ông ta bất ngờ nói một cách ngang xương, chẳng ăn nhập gì tới chuyện đánh cờ. Tôi bảo tôi không thích ẩn dụ và tôi hỏi làm thế nào mà “Phan Thanh Giản thần miếu” này tồn tại được khi sau năm 1975, những người coi Phan Thanh Giản là kẻ tội lỗi bán nước đã cai trị vùng đất này?
“Ông nội tui kể rằng, sở dĩ Văn Thánh Miếu không biến thành cửa hàng hợp tác xã là nhờ lòng người dân Vĩnh Long kính trọng Phan Thanh Giản. Khi ấy ông nội tui là ông từ trông coi thần miếu. Ông nội tui phần sợ bị khép vào tội phản động vì hương khói cho kẻ bán nước, mà không hương khói thì sợ ổng quở trách. Ông nội tui nghĩ cách qua mặt chính quyền để tránh tình trạng phải đập bỏ tượng ổng. Ông thuê người đúc tượng Hồ Chí Minh thật to, nhưng để ruột rỗng, rồi úp chụp lên tượng Phan Thanh Giản. Chuyện này rất ít người biết. Thế là ông nội tui lại ngày ngày điềm nhiên hương khói. Chẳng ai biết ông nội tui cúng vái tên bán nước Phan Thanh Giản hay ông Hồ Chí Minh vĩ đại, hoặc cả hai. Được vài chục năm, có hội thảo cho rằng ông Phan Thanh Giản là người thương dân. Ông nội tui nhân dịp ấy mới lên tiếng thờ ông Hồ Chí Minh trong miếu ông Phan Thanh Giản thì coi bộ không ổn, bèn xin làm lễ gỡ tượng ông Hồ Chí Minh ra. Tôi được chứng kiến ngày kỳ lạ đó. Nội tui khóc ròng. Ông cúi lạy cả tượng ông Hồ Chí Minh lẫn ông Phan Thanh Giản. Sau đó cả hai bức tượng biến mất. Trong miếu ngày nay chỉ còn tấm hình ông Phan Thanh Giản mặc triều phục trên bàn thờ.” Nghỉ một lát, ông ta nói bâng quơ: “Chắc là hai ổng rủ nhau về Bảy Núi.”
Có lần, tôi đã hỏi ông Đạo Tiếng: “Có thấy ông Hồ Chí Minh và ông Phan Thanh Giản trên núi Cấm không?” Đạo Tiếng cho bi?t: “Hai ổng đã đi qua hang Mẹ Đẻ và tái sanh rồi.”
Một trong hàng ngàn cô gái điếm dưới chân núi Sam mà tôi tình cờ gặp, nói: “Khi nào anh vào hang Mẹ Đẻ cho em đi theo với.” Tôi hỏi để làm chi vậy? Cô gái bảo: “Để em được tái sinh cùng anh.” Tôi nói tôi không muốn tái sinh. Tôi chỉ muốn chết vĩnh viễn. Nhưng cô gái bảo: “Không chết vĩnh viễn được đâu. Em đã thấy rất nhiều đàn ông đi qua hang của em và họ được tái sinh là họ. Em muốn tái sinh thành một cái khác.” Tôi hỏi: “Cái khác là cái gì?” “Là cái em chưa biết.”
Tôi đưa cô gái vào hang. Đất dưới chân tôi lún xuống và tôi không thể nào bước đi được. Cô gái cầm tay tôi kéo đi. Tôi cũng không thể nào đi được, dường như chân tôi chỉ bước một chỗ. Tôi nói: “Em thử đi một mình xem sao.” Cô ta buông tay tôi ra. Ngay tức thì, tôi không còn thấy cô đâu nữa. Đất dưới chân tôi trồi lên. Tôi ra khỏi hang. Đạo Tiếng đứng trước mặt tôi, cười. Tôi cũng cười, hỏi: “Làm thế nào để được tái sinh?” Hắn bảo: “Cứ chết đi rồi biết.”
Tôi vẫn nghĩ sẽ tự quyết định cái chết của mình. Nhưng rồi tôi vẫn ngồi trong quán với N năm 2055, chờ ĐI.COM tới. Thụ động và hèn yếu. Cái chết của ông Đạo Tiếng vẫn dội vào lòng tôi tiếng kêu tuyệt vọng như sự thất bại của giải pháp tôn giáo trong cuộc sống con người. Có thể nào ông Đạo Tiếng đã hốt nhiên đốn ngộ trong sự cực lạc của hành động tình dục? Và rằng con người đã mất khả năng về một tình dục tâm linh trong bản năng sâu thẳm? Tôi nhìn N và ngậm ngùi thấy nàng đã quá già. Tôi cũng đã quá già.

27.04.2006

Nguồn: tienve.org

No comments:

Post a Comment