ĐỖ KH. - NHỚ LINDA / NGÀY 30 THÁNG 4 CỦA TÔI / NGÀY 30.4.2005 Ở BOLSA / THẤT THỦ NINH BÌNH / NGƯỜI QUÊN, KẺ NHỚ / VỀ NGƯỜI VIẾT & NGÔN NGỮ / VỀ NGÔN NGỮ VÀ THƠ - phiếm


NHỚ LINDA
"Mai lở không về chắc em buồn biết mấy 
Dáng nhỏ xuân xưa vẫn nhớ đêm ngày" 
(Nhớ nhau hoài)

Ðể đến Linda, tôi phải qua một chuyến đò dọc. Nói cho to tát, tôi phải rời thềm lục địa của châu Á để đi vào Nam Dương quần đảo mịt mùng. Sulawesi, biển Célèbes, cũng một thứ "Trái tim bóng tối" phía bên kia của eo Malacca đầy bất trắc nhưng tôi có hơi ngoa và không phải là một nhà mạo hiểm. Tuy Sentosa ở Cảng Sư là điểm cực Nam của châu Á, Poulo Bintan, Indonesia, chỉ cách Singapore có 2 giờ tàu biển cao tốc và là nơi nghỉ mát cuối tuần của người dân ở thành phố bức bối này. Một tiếng bằng đường bộ về hướng Bắc, thì sang Johor BahruMalaysia, vào bia ôm xem lắc đít. Hai tiếng bằng đường thủy về hướng Nam, thì sang Poulo Bintan cạnh Sumatra để ăn đồ biển đánh golf và nhai kẹo chewing gum[1]. 

Tôi không còn chắc, lần đó cách đây 5 hay 7 năm, tôi ở Sing là vào một dịp đến hay đi (Việt Nam). Tôi chỉ nhớ là tôi đang buồn, chuyện bình thường vì đời là bể khổ, và đó là một ngày trong tuần. Bến đò vắng ngắt, tôi dậy kịp để đáp chuyến tàu chót, còn sớm những 5, 10 phút để nhẩn nha qua khu vực hải quan vào một hàng xén mua một cái hộp đựng kính tiếp cận và thuốc nhờn mắt. Tôi biết, cái hộp đựng kính contact, left là trái màu trắng, right là phải màu xanh, chẳng ăn nhập gì đến vấn đề tranh luận Văn học sẽ nói đến ở sau. Nhưng đó là những thứ tôi sắm trước khi vào khoang tàu trống, lác đác vài người du khách hình như Nhật bản. Ðó là vào giữa tuần, nên những công dân mẫu mực địa phương còn đang lo đóng góp vào phồn vinh vân vân cao ốc, chuyến đò này sang Nam Dương hầu như chỉ có khách nước ngoài. Xi xô, rượu mạnh, sóng. Ra đến hải phận quốc tế, có cả đánh bạc, số đề hay là tôi lẫn những chuyến tàu cũng thế, nối HongKong và Macau. 

Tranh luận văn học, nghe cũng to tát như những câu mở đầu (bài này). Tôi không phải là nhà mạo hiểm, mà cũng không phải là nhà hùng biện, văn tôi lê thê và khúc mắc, trong tiểu luận thì hạng bét, hỏng hết hỏng hết, trong sáng tác có khi lại được coi là tài vặt, cho nên đây là một tùy bút, và Linda có lẽ tôi đã quên mất, nếu không được Thụy Khuê nhắc đến trong bài viết của chị nhân dịp Hợp Lưu bàn giao từ Khánh Trường qua tay Phùng Nguyễn. Có nhắc thì có nhớ, tôi không làm dáng, thực ra tôi đâu có muốn được phảng phất nơi người đọc nhờ cái cô mặt ngang này hay những đêm Hà Nội phủ váy, tốc váy gì đó (thọc váy). Nhưng đó là luật của mưa gió đời (Mai Thảo) và vương vất được gì thì vương vất, một hai cái bọt bong bóng, tất nhiên là vậy và có còn "hơn" không (Nguyễn Tất Nhiên). Thì "Linda mặt ngang", bài thơ chưa đủ, ở đây tôi tranh thủ dài dòng. 

Trong nhóm đảo Riau, 3000 lẻ cái lác đác bên cạnh anh Sumatra khổng lồ, tôi đến Bintan vì cái máu phiêu lưu. Ðã đi thì đi xa mới bảnh, tôi có hai lựa chọn, mà sang Nam Dương thì Poulo Bantam cách Sing chỉ có nửa giờ! Kể nghe thì mất cả oai, kiểu có đi Sàigòn chưa? Rồi. Thế có đi Thủ Ðức không? Tôi đến tận cả Biên Hòa thì người ta mới nể. Vậy thì đi Bintan thay vì Bantam, hai giờ tàu biển và một cái cửa khẩu tuy quốc tế nhưng to bằng ba cái sạp vải chợ Bến Thành với đúng hai ông công an mồ hôi nhễ nhại và đen đủi (theo thành ngữ "Cha cha cha Ma ní lấy chồng Chà dà," chà dà ở đây là Java, cũng một đảo Nam Dương). Lệ phí nhập cảnh, visa, con dấu, qua khỏi nửa cái quạt trần lúc lắc (đúng hơn là một cái quạt trần nửa chạy nửa ngưng) là mười anh xe nhẫn nại. Nhẫn nại là vì tôi nghĩ họ đến đây từ sáng sớm, trước chuyến đò đầu sau khi ăn vội miếng xôi quà sáng và chừa lại cho con mấy cái đậu phọng (nếu là xôi đậu phọng) "Anh ra bến đò, " họ nói với vợ, và gài số xe con. Bây giờ đã trưa, là chuyến tàu chót, và mười anh xe thì chỉ có 5, 7 tốp khách. Tôi gạt ngay những anh đầu vồn vã, xăm xăm bước thẳng đến anh hàng thứ 8, mở cửa vất vào sàn xe sau cái túi sách và leo lên ngồi cạnh. Anh ta hỏi tôi đi đâu, trên mép một hạt xôi đã khô còn dính (vì vậy tôi mới biết là sáng anh ăn xôi, và theo độ khô của hạt này ước lượng là đã mấy tiếng). Còn chuyện đậu phọng cũng rất là như thế lô-gic, anh không dính hạt nào vì đã nhường hết cho con. Hạt xôi khô rung rinh, tôi trả lời "Tôi không biết" và tôi hỏi "Anh tên gì?" 

Theo nhà du lịch Hồi giáo Ibn Battuta, người đã đi hết thế giới của thời ông, đến đâu mà không bị hướng dẫn địa phương gạt thì cũng kể như là chưa đến. Tôi không khuyến khích khách nước ngoài đi đâu cũng leo lên cái xe đợi sẵn (tuy là thứ 8, nghĩa là cũng có lựa chọn theo cá tính, vì tôi vốn không ưa những kẻ nhất nhì) và gieo mình một cách rất nàng Kiều là muốn đưa đi đâu thì cũng mặc, thanh y hai lượt thanh lâu hai lần và quá tam ba bận. Anh tài đâm ra lúng túng, hạt xôi khô rơi khỏi mép có râu lún phún như trong một đoạn phim chiếu chậm, đập đánh bốp vào mặt nệm simili như kỹ xảo âm thanh trước khi anh lắp bắp, đi ra phố, đi về khách sạn, đi cao lâu, đi đánh golf, đi trung tâm giải trí... Ðây là một cái đảo, tôi nói, thì đi vòng. 

Ðây là một cái đảo, có lẽ chu vi vài chục hay cả trăm cây số đường. Tôi chỉ nhớ những chặng dài qua rừng đường nhựa vắng và hoe nắng. Có nơi tôi dừng lại, một khúc quanh bất chợt, chẳng hiểu vì sao, đứng bên xe ngây ngô cười và nhờ anh ta chụp hình. Một cái đảo, bao giờ cũng có một đường đi vòng và không thể nào lạc, mãi thì cũng phải trở về chỗ bắt đầu. Nhưng Bintan khá lớn, có lẽ mất cả ngày và lần lượt là thủ phủ Tangung Pinang, một lịch sử trong thời Ðệ nhị thế chiến theo anh xe, có nhiều gắn bó với quân đội Nhật, mãi đến ngày nay họ vẫn trở về tìm kỷ niệm. Những khách sạn thị trấn, chẳng cái nào tôi tỏ ý muốn ngụ, rồi đến những khách sạn nghỉ mát ở những khu riêng biệt mà tôi biết là không nổi tiếng hoàn vũ thì cũng trứ danh khu vực này của Ðông Á, Banyan Tree gì đó, mỗi hộ một hồ tắm cá nhân nhìn ra biển với lại Resort gì gì. Một chập rồi đến khu sân golf, khu trượt sóng. Anh tài nói gần đây có nhà người bạn, mình đi ngang, ông cho tôi phép rước, tôi nói ờ, rồi như chợt nghĩ ra, thì mình đi ăn đồ biển. 

Hải sản ở Nam Dương là thứ sẵn và rẻ, ít ra là rẻ hơn ở Sing và rẻ hơn cả Mã Lai. Tôi rủ luôn ông bạn của anh tài và cả ba vui vẻ đến một cái nhà hàng Trung hoa, thì, ở ngay bờ biển. Không có cựu quân phiệt Phù tang đeo kiếm trở lại tìm con rơi 50 năm về trước như anh tài kể nhưng có cua tôm bò lổn ngổn, chỉ con nào là nhà hàng thì, chứ sao, làm thịt. Ba đứa tôi bia chai nghiêng ngả, hai đứa bá cổ thì một đứa bấm máy chụp hình. Sóng xô ghềnh đá hay bập bềnh bãi cát, chẳng mấy chốc thì chiều sắp xuống. Anh bạn quá giang chợt nhớ ra là phải đón con tan học hay là vợ về chợ. Lại 1, 2 chặng rừng nữa, chúng tôi đưa anh này đến chỗ đã định. Thả anh kia xuống, tôi và anh tài ngồi nhìn nhau. Nhà hướng dẫn và khách du lịch, sau danh lam thắng cảnh, sau chùa chiền và bãi biển, sau khi ăn hải sản và không chơi golf thì còn gì nữa, chỉ còn có chơi đĩ. 

Chuyện này, chẳng phải cần sang đến Nam Dương. Johor Bahru tất có và ở Sing cũng không cấm. Khu đèn lồng, Jalan Selangoong hay ba trạm tàu điện Peninsula Plaza ở tầng chín, Mát xa, Escort của niên giám điện thoại hay Ucơren tóc vàng ngay trên Orchard Road (tuy là qua mấy bậc cầu thang và một lối khuất từng hai, ở hành lang và sau hàng hủ tíu bò viên). Ấn độ, Mã Lai, Trung hoa, Philipin, dĩ nhiên là có Thái (đực và cái, trước và sau giải phẫu, hay trong khi chờ đợi giải phẫu phần còn lại), việc gì mà phải sang tận Bintan. Cũng như đồ biển, ở Bintan thì giá rẻ hơn tí xíu nhưng chẳng rẻ gì hơn tại mẫu quốc Hà Lan. "yo soy marinero, no soy capitan"[2] (Den Haag rất nhiều Kiều Nam Trung Mỹ nhưng tôi đã đi hơi xa Nam Dương và Riau quần đảo). Nhưng bốn giờ chiều ngày hôm đó, tôi đang ở Bintan và tại một cái trấn nhỏ, trời mưa. 

Nếu đi chơi đĩ mà vui, thì hạnh phúc quả là quá dễ ở trên đời. Tôi vẫn ước ao được có vậy (tức là được có hạnh phúc chứ không phải là được có đĩ). Lỗi tại trời mưa, anh tài dẫn tôi qua ba con hẻm, một cái sân mái tôn lộp bộp, đẩy cửa vào là đèn mờ. Ðêm ba mươi thì không hẳn, chung quanh một cái bàn thấp và ba mặt của một băng ghế hình chữ u, mười mấy cô ngồi nửa tỏ nửa không và mặt một đống. Ðây tôi không dám trách, làm đĩ hẳn đã cực, chẳng lẽ lại còn bắt phải tươi cười. Cô thì nhìn trần, cô thì nhìn chân, lộ một vẻ suy tư như nhân viên cơ quan độ nửa tiếng trước giờ tan việc. Theo kinh nghiệm của bản thân, bất cứ động xanh hay lầu hoa nào trên thế giới (trừ trường hợp cá biệt của Nam Trung Mỹ yo soy marinero... như đã nói) so với một phòng tài vụ, sở an ninh xã hội hay là cơ quan phát lương thất nghiệp đều có kém phần mời gọi tuy nôm na là tất cả cô này, tôi chỉ cô nào là đụ được ngay cô nấy. Poulo Bintan cũng chẳng là ngoại lệ, nếu không có, vào dịp ấy, mùa mưa. 

Mưa đưa em về dưới, mưa chiều biên giới, mưa nếu xưa trời không, mưa trên vai chàng rơi, mưa trời còn làm, mưa mùa lại đến tôi mừng vui, mưa mùa này vắng những cơn, 15 cô này ngồi quây quần chung quanh một cái bàn thấp chứ không phải là bếp lửa. Lác đác ở các bàn bên là các cô ngồi chuốc rượu ủ dột cạnh tiếng cười lách cách của khách. Tôi hỏi anh lái xe giá cả, anh ngại ngần lần thứ nhất nhả "75000 Rupiah." Tôi không nói là sao mắc vậy, nhìn cái ngại ngần của anh tôi đoán trên 30 USD này, anh được hưởng 5 hay là 10. Tôi bảo OK, anh lại ngại một lần nữa, kiểu chưa biết hay chưa quyết định được xin xỏ tiếp như thế nào. "Anh cũng chơi phải không?" tôi mớm đỡ để anh ta ấp úng gật vội. Tôi đưa anh 60 đồng để trao cho bà tú và bước về phía cái cô vênh váo nhất, kiểu nữ sinh vừa bị trai chọc ghẹo, và nắm tay cô kéo. 

Bài thơ thì tôi đã tuyệt tích, có thể viết xong tùy bút này, vài bữa, vài ngày nữa tôi mới sẽ tìm ra. "Linda" đăng trên Hợp Lưu vào dạo ấy, tôi còn nhớ chính xác chỉ có câu "Mặt ngang miệng rộng và lồn bé chút xíu." Thì tuy là bé, nhưng chữ dùng lại bạo nên tôi đã bị chị Trần Mộng Tú mắng cho một quẻ. Linda 17 hay 19 tuổi, nằm cởi truồng chổng chơ trên một cái giường nhàu của một căn phòng nát, bước vào phải đi ngang chỗ đặt một cái bể đựng nước. Linda không có nghề như là gái mát xa Hàn quốc, dùng miệng để đeo bao cao su vào cho khách, cái miệng của nàng có rộng cũng chỉ là để trang điểm cho cái mặt ngang. Bất đồng về ngôn ngữ, những câu tôi hỏi nàng bâng quơ tôi đều phải dùng thể trắc nghiệm, thí dụ em bao nhiêu tuổi, trên 20? 16? 17? và được nàng đánh dấu vào ô trả lời bằng những cái gật đầu. Như trong bài thơ, nàng có một bàn tay rất đẹp ("Bàn tay nàng rất đẹp / Che lấy cửa mình nhan sắc cũng chẳng kém"?) Sau này, có độc giả nghi ngờ cái đẹp của bàn tay này, viện lẽ là gái quê làm lụng thì sao bàn tay có thể đẹp được. Tôi không biết ở quê nàng làm lụng những gì, nhưng hiện giờ bàn tay chỉ có tác dụng là ôm mu, và đẹp, kiểu nồi nào úp vung nấy. Tôi gỡ vung ra, một tí mép nhú nhô dưới vài sợi lông lưa thưa điểm. Vốn tiếng Hán của tôi chỉ có "Trường túc bất chi lao / Hồng diện đa dâm thủy / Ða mi tắc đa mao." (Tạm dịch: "Chân dài không biết mệt / Mặt đỏ bụng ướt nhẹp / Mày rậm tức lông đẹp") Linda chân dài nhưng mặt trắng, lông ít thế này thì mày nàng chắc phải dùng bút kẻ và nguyên quán của nàng chắc phải là một đảo nào ở gần phía Quảng Ngãi[3]. 

Ðã được một bài thơ, lại còn tùy bút thế này e thừa thãi, vừa rồi, trong bài viết của Thụy Khuê nói trên, tôi lại được chị chỉnh, là tạo sốc không đúng chỗ. Không hiểu người đọc như thế nào, chứ khi viết từ "lồn" này, tôi cũng chùn tay, nghĩa là có ý thức cẩn thận. Tạo sốc thì có lẽ, và thành công trong việc tạo sốc này thì hiển nhiên, nếu không đã chẳng ai nhắc đến một bài thơ mà chính tôi không tâm đắc mấy và chắc cũng chẳng bao giờ lập lại (nghĩa là được thể, làm... hoài). Tôi nghĩ là tôi đã cả gan chụp bắt một đồ vật quá sức quen thuộc của đời thường để mà tênh hênh bày vào trong thơ tôi, còn giờ, có đúng chỗ, có hay hay là dở thì dành cho người thưởng ngoạn vậy. Nhân dịp này, như đã phân trần với Trần Mộng Tú, trong gương soi của tôi, nó khác với gương soi của người. Việc đo đạc, có kích thước cẩn thận ("vừa bằng hai ngón tay"), vẫn có thể dẫn đến sai lạc tùy người đối diện, nghĩa là ngộ nhận. 

Theo thông thường của phái nam, cái "bé" này ở phụ nữ là cái đáng quý, kiểu vai em gầy guộc nhỏ (như cánh vạc về chốn xa xôi). "Lồn bót" với quan niệm thống trị đồng nghĩa với "đã" (dễ sợ), như trong câu "con này lồn bót đã dễ sợ". Tuy không muốn lập dị khác người, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy, bé thì chỉ có hay đau, cho cả đôi bên chứ "đã" đâu không biết. Nói vậy không phải là tôi khoe tôi to (thực sự thì tôi mềm và nhỏ), chỉ muốn nói là phụ nữ hẹp thì tôi ngại vào, tôi là người không ưa cái khó. Còn việc to nhỏ, hẳn là tương đối, như khi bảo phụ nữ tây rộng cũng có nghĩa là đàn ông ta nhỏ, và lý tưởng đối với ai thì cũng là cái mà "vừa". Vừa, đối với ai lại có thể là ôm chặt, cọ sát cho đến sướt, với tôi là một chốn bập bềnh và chơi vơi[4]. Như vậy, chỉ một cái lớn bé đã ngộ nhận đến trái ngược, nói gì thanh và tục với lại thi ca. Trong bài trả lời Khế Iêm về việc "tu từ", chị Thụy Khuê lại có nói thêm là "Linda" biết đâu cũng là thành quả của việc tu từ này. Ðến chỗ này, thì tôi không còn rõ nữa. Ngay thẳng mà nhớ, thì bài thơ, tuy có chỗ phải khắc phục và có ý thức rõ rệt (mồn một như là trước mắt), tôi không phải phấn đấu cực nhọc đủ để gọi đó là "tu". 

Nhưng khi chị Thụy Khuê nêu lên vấn đề là trong đời sống, những từ đại loại như trên có dùng trong trao đổi với "đối tác" hay không thì việc ngộ nhận lại càng rõ ràng hơn[5]. Tôi chỉ biết nhìn lên trời (chứ không còn nhìn... xuống nữa) vì chẳng lẽ tôi lại mời nhân chứng A, B và C ra tuyên thệ trước khi kể lại những từ họ và tôi trao đổi một cách chính xác. Quả thực là tôi chưa bị ai tát vào những dịp này, chỉ có người hăm dọa là dùng vớ đùi mà trói tôi lại, lấy quần lót để bịt miệng v.v... hay nhiều cách khác nữa mà tôi không tiện kể và cũng không (chưa) tiện làm thành thơ. 

Tới đây, những người không quan tâm đến phê bình văn học mà chỉ quan tâm đến tùy bút này sẽ bực mình mà hỏi: "Thế Linda rồi sao?" Linda rồi chẳng sao hết, nàng không hề hấn gì sau khi tôi quan sát tỉ mỉ. Mùa mưa vỗ về mái tôn còn nàng thì tôi nằm ôm ngửa, cả hai nhìn trần đến độ cùng buồn ngủ. Có lẽ sự bất lực của thể xác đã khiến tôi, vào lần ấy, tìm đến thi ca (và từ ngữ) ngay trong khi tôi đang xõng xoài (tôi nói lần ấy là vì nếu lần nào bất lực tôi cũng làm thơ được thì sự nghiệp của tôi đã thêm mấy tập.) Chữ "lồn" này đượm vẻ chua chát chăng chứ không phục hồi được cái vị mặn ở trong đời sống. Tôi lồm cồm bò dậy, mặc quần áo xuống nhà, anh bạn đánh xe vẫn ngồi nguyên ở cái ghế lúc nãy. Vậy có nghĩa là sau khi tôi lên lầu anh dằn vào trong túi 30 đồng phần tôi bao anh mua vui, lấy thêm của bà tú phần hoa hồng của anh trên 30 đồng còn lại. Tôi cũng biết vậy, chơi đĩ làm gì, hôm nay được món khá, tối về nhà anh sẽ hân hoan mà âu yếm vợ chồng. Tôi thì tiếp tục buồn, tại vợ tôi thì ở hơi xa, cái hòn đảo Nam Dương nhiều thơ mộng này, nơi mà người tình, tôi chỉ có Linda và bạn, tôi chỉ có anh dắt mối. 

Ngày hôm nay, Linda tôi không còn nhớ mấy ("Em ở nơi nào, có còn mùa xuân không em / Rừng ngàn lá thắm, từng đêm nhắc nhở thì thầm"). Còn lại là một văn bản mà tôi đã mất tiệt, cho đến khi gần đây soạn lại toàn bộ tác phẩm (!) tôi mới biết là thiếu. Nhưng nó còn đâu đó một mảnh này hay mảnh nọ (một từ) ở trong lòng vài người đọc, dù là thứ lòng có khi ấm ức. Thì biết sao, việc phê bình là của người phê bình, việc viết là của người viết cũng như việc đọc là của người đọc. Tôi chỉ có viết, chứ hỏi tôi là thế nào thì tôi không biết tuy đây cũng không phải là một thái độ trốn tránh trách nhiệm. Ba tôi, lúc trước, hành nghề luật sư. Thủa sinh thời, câu mà ông thích nhất là "Thưa quý tòa, thân chủ của tôi vô tội."
[1] Singapore cũng có đồ biển, cũng có đánh golf nhưng lại cấm kẹo chewing gum.
[2] "tôi là thủy thủ, không phải là thuyền trưởng" Nhân tiện tôi xin lỗi tác giả của các ca từ được tôi trích dẫn mà không hài tên người viết vì không nhớ hay là không biết. Nếu "Linda mặt ngang" có ai được một câu lõm bõm sau này dù đã quên tác giả thì đối với tôi cũng đã là một vinh hạnh, tuy đã không được phổ nhạc thì thật khó mà tồn tại trong ký ức của đời.
[3] Trong đồn đại bình dân, kiểu "Ai về Bình định mà coi / Ðàn bà con gái cầm roi đi quyền", nếu ở Bình Ðịnh, phụ nữ giỏi võ thì ở Quãng Ngãi họ lại... thưa lông. Việc này, dĩ nhiên, chẳng có gì là khoa học.
4] Phong trào thư giãn của thập niên 80, có món vào nằm trong một quan tài nước mặn và ấm, đóng nắp tối om trong khi thân thể lềnh bềnh nửa lặn nửa chìm, ở nguyên một chỗ mà nổi trôi.
[5] Những ngộ nhận thế này, trong lãnh vực của văn học tác chiến chứ không còn phải của văn học trác táng, có dạo nhà văn hiền lành Nguyễn Mộng Giác bị vấy cho tội vụ khống sĩ quan QLVNCH (miền Nam) xẻo tai kẻ địch để làm vòng trang sức. Chuyện đeo tai này có thật đến mức trở thành giai thoại, ai từng đeo súng ngược cũng còn biết. Gần đây, lại có nhà văn trong nước, cũng hiền lành không kém, kể chuyện lính "ngụy" ném tù binh vào lửa cho hồng hào da thịt trước khi họ mang ra đánh chén. Ðây thì chắc là thuộc về huyền thoại mất, ném vào lửa thì có thể có, mà ăn thịt thì cũng đã có nhưng ném vào lửa rồi ăn thịt thì không. Có trường hợp lính (gốc Khờ me, vì mê tín) lấy gan người xào tỏi với rau muống cũng như có trường hợp lính (gốc Kinh, vì lợi nhuận) cắt mật đem bán cho nhà thuốc Bắc, thuốc Nam. Trường hợp sau, còn có kẻ giết cả thường dân để lấy mật, đã bị đưa ra Tòa án quân sự nên không thể nói là văn chương hư cấu. Dù sao, thì những việc tôi vỗ ngực nhận cũng bớt kinh hơn nếu không nói là còn... dễ thương? 

Nguồn: talawas.org






NGÀY 30 THÁNG 4 CỦA TÔI

Tôi nheo mắt lại, ngả người vào trưa rất nắng. Biển sẫm lăn tăn một chút sóng, trời xanh không gợn một chút mây. Chiếc Skyhawk A4 trắng nghiêng mình xuống sát tàu, thấy rõ mặt người phi công Mỹ, tưởng như là đọc được hàng chữ kẻ tên ở trên nón bay. Anh rà qua một vòng, miệng lẩm bẩm như là đang đếm, tôi nghe Khang, đứa em tôi từ phía sau lưng nói với người con gái đứng bên. 

"Pilot Việt Nam bay đi được hết, hình như chỉ kẹt lại có mỗi một người!" 

Tôi đoán là Nhung cười, không nghe thấy tiếng. Chiếc phi cơ của Hải quân Hoa Kỳ bay mất. Chung quanh đây hẳn là lúc nhúc hạm đội 7 và chập chờn tàu chiến tàu hàng lớn nhỏ của miền Nam một lần chót ra khơi. Nhưng vào lúc 4 hay 5 giờ chiều này của của ngày 30.04.75 biển thì vẫn mênh mông như thường lệ. Bốn hướng chung quanh chiếc dương vận hạm Bun hak (LST 815) của Đại Hàn tôi đang nằm duỗi, trong tầm mắt với không thấy một bóng tàu. 
*
Trong cái chói chang thường lệ, thành phố có dấu hiệu đầu khụt khịt. Bên hông Toà Đại sứ Mỹ và mãi không thấy hết, kéo dài trên cả vài trăm thước, người ta ngoan ngoãn và trật tự xếp hàng. Đó là thân nhân và gia quyến thật, giả của công dân Hoa Kỳ mặt không buồn giấu lo âu như sắp sửa vào phòng ứng thí, táy máy tập hồ sơ với lại giấy chứng minh lần đi lần lại ở trên tay. Họ vào diện ưu tiên, sắp sửa ra đi hợp pháp, so với những người mới đây ở Đà Nẵng, Huế giẫm lên nhau mà chạy quả có đặc quyền. 

Tôi nói Hoàng chở tôi vòng xe lại, rà chầm chậm bên cạnh hàng người này, rõ ràng là có cả tiểu thư, mệnh phụ đang nỗ lực lẫn vào với thiếu nữ bán bar.

"Đù mẹ, Việt cộng đến đầu đường kia rồi mà còn xếp hàng!" 

Cứ 30, 50 thước tôi nhắc lại "Mau lên!Chạy đi thôi!" nhưng không ai tin tôi nói, trả lại những cái nhìn không hiểu đẫn đờ. Chẳng ai bực và cũng chẳng ai cười mà tin tôi thì không ai buồn tin nổi. Trước cửa rạp Rex, bảng mới vừa niêm yết 10 bài top hit mới nhất chớp nháy ở Hồng Kông. Trong 3 bài đầu, có The Night Chicago Dies của Paper Lace và Sài Gòn thì chưa chết, chưa hấp hối chưa ngắc ngoải, chỉ mới có vợ con của những người quyền thế ngượng nghịu ôm tay một người Mỹ lạ đứng bồn chồn ngoài nắng trước toà Đại sứ Hoa Kỳ. Mùa mưa cho đến hôm nay vẫn chưa chịu tới. 
*
Hai anh phi công nhảy xuống khỏi xe hổn hển nói với bà mợ tôi "Chúng cháu mới ở Đà Nẵng vào!" Đây là họ hàng phía bên bà, tôi không biết, cũng đồ bay cẩn thận lắm túi và nhiều dây kéo, cái phù hiệu thêu to bằng bàn tay "A37 Dragronfly" tiếng Mỹ. "Tức thời đây!" Hai anh này cất cánh thì thấy hết xăng, phải đáp vòng trở lại thì phi truờng đã bị tràn ngập. Một anh chạy đi tìm ra một xe xăng, vừa đổ vào vừa bắn nhau với địch đã lố nhố đường băng. Nếu hai anh này có anh chân không, có anh quần đùi thì dễ tin hơn, đây là lần đầu tiên tôi nghe nói phi công lên tàu mà không kiểm đồng hồ xăng. Nhưng các anh mặt vẫn còn nhợt nhạt và đây cũng là lần đầu tiên… Đà Nẵng mất. Tôi thấy vui vui, hai chàng lập cập, đánh nhau với địch thay vì bằng bom 500 cân Anh, hoả tiễn 2.75" và đại bác liên thanh 20 ly 30 ly gì đó, thì phải đánh bằng súng ngắn, loại dành để gia ân lần cuối vào sau gáy cho tử tội bị hành quyết. Cho mà biết, tôi ăn sáng tiếp. 
*
Người đàn ông mặc đồ bộ dân sự lòng thòng leo lên giường tôi khi tôi chưa kịp dậy. Tôi không hiểu sao ông lại vào tận đây thay vì ngồi trong phòng khách, cho dù ông có mới đi thẳng đến từ miền Trung bằng đường bộ, đường thủy. Ông thọc tay vô phía trước quần ông lục lọi, lôi ra khẩu súng sáu đặt xuống cạnh bên rồi bật khóc, mỗi lần há miệng lớn ra thì lại nghẹn ngào. Tôi ngạc nhiên là ông làm sao giấu được 1 khẩu súng to như vậy, riêng cái nòng đã dài đến 6 phân Anh. Nhưng hỏi thì ông chỉ lắc đầu rớt rãi không nói lên lời.Tôi đã thấy một người đứng tuổi như ông khóc không kém phần thê thảm, nhưng đó là trường hợp người ta có con vừa tử trận và không có súng lận giữa hai đùi. 
*
Hùng mỗi ngày hỏi tôi mấy bận "Chừng nào mình tái chiếm lại Nha Trang?" mà tôi đâu phải là ban 3 Bộ Tổng tham mưu. Mỗi sáng Hùng lên Tân Sơn Nhất trình diện, mặc xi-vin ra đường ôm theo cái túi đựng quân phục, vào đến căn cứ an toàn rồi mới chịu thay vào. Những ngày chót ở Nha Trang, lính Không quân ưa bị lính các đơn vị khác gây. Tôi đeo ba lô chạy bộ còn anh không những chạy lén trước mà còn gầm thét ồn ào mấy trăm cây số giờ ở phía trên đầu. Tôi nói "Ở Sài Gòn, máy bay lên chưa có ai bắn với theo đâu." Hùng nói, thì cũng phải "Tụi nó ác thật, đi không chở người, tôi thấy nguyên một tàu tụi nó chở toàn đầu máy Honda." Cái đêm Hùng vào trại ngủ, đã định ôm theo đứa con trai nhỏ nhưng sợ cô vợ mè nheo bèn vào có một mình. Sáng ra, đơn vị chạy, Hùng lên tàu theo, nhặt được một khẩu P38 si kền nhưng bỏ lại cả vợ lẫn con. Được mấy bữa, đài vẫn nói Nha Trang Việt cộng chưa vào đến, đang còn bỏ ngỏ, Hùng ngẩn ngơ đòi tình nguyện, trong đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu để trở về. 
*
Từ nhà ở phía sau, buổi trưa nào cũng vẳng tiếng dương cầm lác đác của bài Hạ Trắng. Chắc hẳn đó là một thiếu nữ, chơi đàn như hài nhi tập trở mình, còn cô bụ bẫm ra sao thì tôi không được thấy. Biệt thự của cô dựa lưng vào phòng tôi, cách một bức tường cao và một khoảng lớn vườn. 

Tôi ở chung phòng với người em của ông dượng, dân Võ bị [1] và từng là Thiếu tá trẻ nhất của quân lực. Anh này hơn tôi mươi tuổi, thì vẫn Thiếu tá, sau cái lần bị lột lon vì đánh cố vấn Mỹ, nhưng không còn "trẻ nhất" nữa tuy cũng chỉ đâu đó 30. Anh ít nói, mới có con đầu lòng sơ sinh nhưng lại rắc rối gì với cô vợ nên đến đây ở một mình. Trưa, căn phòng nóng không có điều hoà, anh nằm ở giường bên nhìn trần mà thở dài không ra tiếng trong khi cô bé hàng xóm đều đặn lên đàn mà gọi nắng ngập ngừng. Anh đang đáo hạn phép và tìm đường giải ngũ, chán chường ra hẳn khỏi quân đội, dĩ nhiên là Thiếu tá như anh không ở trong cái hoàn cảnh binh nhì của tôi, chán ngũ thì chỉ việc giản tiện đào. Vợ bỏ hay là bỏ vợ, của tùy thân ngoài cái xe máy ra, anh chỉ có một cặp ống nhòm rất tốt, hưởng từ thời làm tiền sát pháo binh. Cặp ống nhòm này có la bàn và độ ngang độ dọc để định phương hướng và khoảng cách quan sát, anh có chỉ cho tôi cách sử dụng nhưng tôi cũng không buồn leo lên mái mà nhìn ra đằng sau, cô gái văng vẳng đâu có cởi truồng mở toang cửa ra mà ngồi đánh đàn. Mấy hôm một bận, anh lên Lai Khê trình diện Bộ tư lệnh (Sư đoàn 5), trở về tôi có hỏi cũng chỉ nói ngắn gọn là chẳng có chuyện gì mới lạ. Cái ngày tướng Hiếu "tử nạn trong khi đang chùi súng", tôi mới thấy anh đổi cái sắc chán đời đôi chút, ông Hiếu từng là thày của anh ở 1 đơn vị trước, anh buông sẳng, làm gì có chuyện ông tai nạn, hay là người ta "tự sát" [2] ông! 

Những buổi trưa này, tôi đặt cặp ống nhòm trước mặt, ngồi trên giường mà làm thơ lính: 

Đêm một mình ngồi ngong tiếng pháo 

Sặc sụa cơn buồn lên thật cao

trong khi cô gái vườn sau lãng đãng mà đệm nhạc làm nền. 
*
Ông dượng trao cho tôi một cái radio và nhiệm vụ phải nghe đài tiếng Anh của quân lực Mỹ 16/24. Khi nào đài phát Bing Crosby hát bài I'm dreaming of a white Christmas, sau đó có dự báo thời tiết, câu "Nhiệt độ Sài Gòn đang 105 Fahrenheit và vẫn còn tiếp tục gia tăng" thì phải gọi cả nhà. 

Tôi bị ông dượng tôi làm khó, đã không đi đâu xa được mà còn lúc nào cũng phải ôm một cái đài. Khó nhất là Bing Crosby tôi không hề biết, chẳng phải là The Jefferson Airplane hay Janis Joplin, Jethro Tull. Nhạc Giáng sinh Mỹ tôi chưa từng nghe qua giai điệu, mỗi lần có giọng đàn ông không phải là Bob Dylan hay Johnny Cash cất tiếng là tôi phải để ý đến ca từ. Sài Gòn vào tháng 4 thì lúc nào nhiệt độ cũng quanh quẩn 100 Fahrenheit, không 104 thì 106 cho nên lại cũng phiền. Ngồi quán nước thì nhạc ầm ĩ, ra xe hủ tíu thì xe cộ lại ồn ào. Vậy là cô sữa dâu đỏng đảnh thì cho là tôi lập dị, ở càfé nhạc mà lại nghe đài, chị bò viên hiền lành thì phục tôi chuyên cần học tập Anh văn. Nhưng trong khi chờ đợi chiến dịch Frequent Wind mở màn để di tản những người có sẵn trên danh sách Mỹ thì vỡ tuyến Phan Rang, tướng Nghi bị bắt sống [3].
*
Tôi đã nghĩ đến ở lại. Ở lại thì phải trốn gia đình, bố tôi phải đi tìm, mất cơ hội lên trực thăng và em tôi cũng sẽ bị kẹt lây. Tư tưởng "ở" này tôi không hào hứng quá 30 giây. Việt Nam, tôi mệt mỏi đến độ ra đường nhìn gái, tôi phải lên Chợ Lớn để ngắm thiếu nữ người Hoa sóng sánh nhịp nhàng cùng với mì sủi cảo. Tôi đâm ra kỳ thị ngược, đồng ý với các vị đời Đường là thiếu nữ tàu chân nhỏ và không có bắp chuối. Nhưng tôi chưa được hưởng các thú đế vương vẫn nghe nói tới, chẳng hạn như như lắp đít vịt (tàu?) và khi gần "tới", để các cô con cháu Khổng tử nằm sẵn hai bên chặt cổ con vật cho nó dẫy tê tê. Tôi theo hai thằng bạn thuộc dạng 3 sắc lính 7 lần đào vào đây không phải để ăn vịt tìm (không đầu!) mà để tìm việc. 

Nam Vang đã bị hoàn toàn vây hãm, đường tiếp tế duy nhất là bằng đường thuỷ. Ông cai tuyển mộ hề hề, nhưng mà sông rất rộng, cả hàng cây số lận, và thương thuyền đến giờ theo xác xuất đi 7 chiếc chỉ có 1 chiếc bị bắn chìm. Tôi hỏi 1 trên 7 là có tính cả khứ hồi, ông nói là 2 chiều chứ bận đi mất 1 bận về lại mất 1 thì sao mà có lời! Đến chỗ nguy hiểm, tàu tụ lại một đám qua cái ào, đông quá tụi nó bắn không kịp, trúng thằng nào thằng đó chịu, còn chuyện có dừng lại vớt dừng lại cứu hay không thì tuỳ lòng nhân đạo và tùy hoàn cảnh. Tôi thấy thích vì ông này nói chuyện ngay thẳng hơn là các cấp chỉ huy trong quân đội. Tôi hỏi có M60 (đại liên cá nhân) có M72 (hỏa tiễn), đâu tốn kém bao nhiêu, cái tàu và hàng chuyên chở mới là tiền. Ông ngần ngừ, trước giờ hình như đánh thuê hộ tống các đoàn tàu chưa ai đặt vấn đề này, chỉ nhận tiền rồi đi nhậu bí tỉ. Nhưng thấy hợp lí (điều này lại càng rõ doanh gia Chợ Lớn hơn hẳn lãnh đạo Sài Gòn) ông hứa là sẽ cho. Tôi nói trước, tôi đi có một chuyến, đến Nam Vang tôi ở lại còn anh em thì về, ông cũng chịu, tới đó sẽ thanh toán cho tôi 50.000. Tôi về cân nhắc chuyện xuất ngoại này, không phải vì sác xuất 1 phần 14 cơ may bì bõm lội dọc Cửu Long mà là đối với gia đình. 

Tôi mới nói với bố "Con có đường ra nước ngoài", trúng ngay ý. Ông bảo bố đã lo rồi, đợi có chuyến chở người Hoa trốn lính (!) từ Vũng Tàu ra biển gặp tàu lớn chở thẳng đến Hồng Kông. Tôi cụt hứng mạo hiểm, cam chịu đánh đổi một tương lai Suzie Wong váy sường sám xẻ với lại Apsara ngực trần để làm 1 đứa con dễ bảo. 
*
Nguyễn Ngọc Linh, Phạm Kim Ngọc là những người đầu tiên ra đi bất hợp pháp. Báo chí loan tin các vị này cùng gia quyến thuê một chiếc Boeing đi Phú Quốc nhưng lại đáp xuống Singapore xin tị nạn [4]. Mấy ngày trước, nhà tôi có phi công trưởng, phi công phụ Air Vietnam ra vào đầy vẻ trầm tư. Tôi nghe loáng thoáng, chuyện ra trường bay cầm vé khứ hồi đi du lịch (?) đâu đây trong nước (!), chẳng hiểu đây có phải là dự tính trùng hợp, song song, cạnh tranh hay hùn vốn với nhóm trên nhưng bất thành, chỉ thấy sau đó bố tôi ngậm tăm không hề bình phẩm về việc này một tiếng. 
*
Ông cậu, trước giờ trong họ nổi tiếng là sát gái và sát cộng, công tác với tình báo Mỹ trong chương trình Phượng hoàng [5], gọi tôi ra một chỗ và trao thêm cho một trọng trách khác. Ông đưa tôi khẩu súng ngắn, bảo "Khi mình đã lên tàu rồi, thì chỉ có đi, không đi là bắn". Lần này là tàu biển, đang đổ dầu ở cảng Sài Gòn. Tôi cũng "ok" (sau mấy ngày liền phải nghe đài Mỹ 16/24) tuy không biết là phải bắn ai, một nhóm khác cùng tổ chức nhưng đổi ý vào giờ chót hay là bắn thủy thủ đoàn nổi loạn, bắn thuyền trưởng đòi thêm tiền hay là bắn lái tàu không chịu quay tàu ra biển. Tôi không rõ thế nào, nhưng nghe thì cũng đã thích, oai hơn là ngờ nghệch giả dạng khách hàng không. Khẩu súng này lại bảnh, của Tây đức, là loại tôi chưa từng thấy, hàng hiếm CIA 9mm chứ không phải hàng thông dụng của cảnh sát Smith &Wesson 38, quân đội Colt 45. Tôi mang về phòng tháo gỡ ra và lau chùi, cây súng lạ như đã nói nên đỏ cả mặt mãi tôi mới ráp lại được, may mà không có ai chứng kiến. Giờ thì tôi đã có đài, lại có súng. 
*
Ông cậu đi ngã DAO [6] bằng máy bay và chẳng phải ra lệnh ra hiệu cho tôi bắn ai hết. Bố con tôi sang nhà một người bạn ông ở Đa kao. Bố tôi thì thận trọng, nhà của ông bạn này chính là điểm hẹn của chương trình di tản và có đường dây điện thoại riêng đến thẳng sứ quán, ở ngay đó thì khỏi phải đi đâu và không sợ bị mất liên lạc với… Hoa Kỳ. Tôi được thoải mái hơn đôi chút, và nhà ông này có sẵn cô con gái, nếu không muốn nghe Hạ trắng thì chỉ việc cười duyên mà yêu cầu bản Diễm xưa. Cả miền Nam còn lại lúc đó đợi mùa mưa, năm nay mãi mà chưa thấy đến, chẳng phải để dài tay hay là xanh xao mắt ai hết mà vì Xuân Lộc oai hùng mấy cũng đã phải bỏ và chỉ còn mùa mưa mới chặn được đường tăng. 
*
Ông Thiệu đã từ chức, lên TV than thân và trách... Mỹ, nhưng ông vẫn chưa đi. Người bạn trong Đại đội Cận vệ Phủ Tổng thống kể "Sáng nay tonton còn ra sân đánh tennis." Anh liếc trước liếc sau rồi vỗ vỗ vào cái túi thể thao lúc nào cũng mang theo chứa cây XM 16 bá xếp và nòng ngắn "Ổng mà chạy là tụi moa cũng mần, anh hạ giọng, ổng… luôn." Tôi cũng biết chẳng ai ưa anh Tám thẹo nhưng để đến đám cận vệ của ông còn bất mãn như vậy thì hẳn là ông chỉ được lòng có mỗi…Hoa Kỳ. 
*
Giới nghiêm được ban hành vào 8 giờ tối. Sài Gòn khoá cửa lại, lính tan hàng không còn vào được. Tôi ăn cơm xong thì súng nổ đì đoẹt cạnh ngay nhà. Tôi leo lên sân thượng xem, có người cháu của gia chủ vội vã vác cây Garand [7] lên nạp đạn. Anh này sinh viên Võ bị, mấy hôm trước về cùng với quân trường từ Đà lạt, còn mang theo cả khẩu súng. Giờ anh ở phía bên trong "tuyến", còn ngoài kia đang bắn vào Quân cảnh, Cảnh sát đang gác chốt là những người đi lạc, không còn đơn vị và chạy hụt hơi về đến cổng nhưng lại bị ngăn. Tôi đứng ở tầng 4, xem màn ciné dưới đường này thích thú, bắn qua bắn lại chẳng biết phải trái phía bên nào. Nếu tôi đang ở bên ngoài kia, thì tôi cũng muốn vào Đa Kao mà… ăn bánh cuốn, ai chắn thì tôi chắc cũng bắn thôi, nhất là lính có bao giờ ai thương Quân cảnh. 
*
Mỗi ngày bố tôi vẫn đến bàn giấy. Tối 25, ông gọi anh em tôi vào phòng riêng, hớn hở đưa cho xem một chi phiếu của Công ty Thành tuy hạ. Chi phiếu này 13 triệu [8], là lợi nhuận đầu tiên ông nhận được từ khi ông làm chủ tịch của đồn điền cao su này mới mấy tháng nay. Ông mở cặp, cho tôi và Khang mỗi đứa 130.000. Tôi cũng không cần lý do để nhận, định bụng sáng ra lên Lê Lợi mua cái máy chụp hình Nikon F2 mới, chứ tiền nhiều thế này, sức người có hạn, làm sao mà chơi cho hết đĩ [9]. 
*
Tôi chịu khó dậy sớm, đang ăn sáng ở quán trước nhà và mơ màng Photomic chứ không phải mơ màng nhà thổ thì Khang xuống tới. 

"Ông già mới gọi điện thoại về. Mình đi" 

Tôi nhìn cái đài vẫn còn chịu khó mang theo và đặt ở trên bàn. Chẳng lẽ tôi lỡ mất dịp chính tai tôi được nghe bài hát và câu mật hiệu. 

"Không phải đi với Mỹ mà mình đi đường khác. Bố nói bố về đến là đi." 

Tôi quyết định thật nhanh. 

"Mày chở tao lên Thuý" 

Thuý ở ngay trung tâm, bên hông Quốc hội. Văn phòng của bố tôi ở xa hơn một chút, đường Nguyễn Công Trứ. Bố tôi đi xe con, tôi đi xe máy, bây giờ ông có rời bàn giấy, tôi chạy đi chạy về vẫn còn kịp, sáng hôm nay thứ bảy, Thuý phải có nhà. 

Tôi đứng ở dưới đợi. 

"Nhà em có vải đỏ không?" tôi hỏi. 

"Để làm cái gì?" 

Thuý đứng trong sân, thành phố vẫn như mọi ngày thứ bảy, mọi người qua lại, Khang ngồi trên xe cách đó mươi thước nhưng không tắt máy. 

"Để may cờ mới!" 

Câu này tôi trả thù cái ngớ ngẩn của nàng lúc mới quen nhau "Thế anh đi lính có bao giờ thấy Việt cộng không?" Em ở lại mà nhìn tận mắt, còn anh đi. Thuý không hỏi đi đâu, mà tôi làm sao biết? Tôi cũng không nắm tay, xin quà kỷ niệm, trước đây thể-theo- lời-yêu-cầu Thuý đã có tặng tôi một cái quần lót bé xíu của nàng bằng polyester màu xanh. Tôi có nhân đó mà lại làm thơ, lần này là thơ tình, "Màu xanh của Thúy". 
*
Sứ quán Đại Hàn đã có vài ba trăm người đợi sẵn, dân sự và đàn bà con nít cả Hàn lẫn Việt. Ba anh mặc đồ bay đen nổi bật Thần-phong-hiên-ngang-chẳng-biết-sợ-gì nấn ná tiễn một gia đình có 4 cô con gái lớn. Bố tôi dẫn anh em tôi vào bàn giấy ông Đại sứ, ông khép cửa lại, chính tay ông lấy ảnh dán vào giấy thông hành của sứ quán, tự tay đóng mộc và ký tên. Tôi thấy ông liều nhỉ, làm giấy không phải giả nhưng mà bất hợp pháp tuy ông chỉ mới biết bố tôi qua loa, sau mới có vài tháng nhậm chức. Ông gia ân này vì sự gửi gấm của ông Đại sứ tiền nhiệm, một vị mà ngay cả cô con gái vào trạc tuổi lúc mười mấy tôi đã có giao du khá thân tình. Hạm đội Đại Hàn đang có mặt ở Tân Cảng, mang muối gạo viện trợ gì sang và di tản Hàn kiều về nước, anh em tôi cầm giấy trên tay là giả thuộc dạng này. Nhưng trước tiên, họ phải chở nhờ dân từ miền Trung tị nạn đến Phú Quốc định cư và bố tôi chỉ mới quyết định "Chưa rõ ra sao, cứ lên tàu trước đã, đến Phú Quốc hãy hay." Tôi thì chưa kịp mua cái Nikon F2, tiền còn nguyên trong túi đeo vai với một cây thuốc lá vơ vội và mấy vỉ Nautamine chống say sóng tôi đã phòng hờ từ hôm dự tính cướp tàu dầu. 
*
Đoàn năm bảy cái xe buýt Mỹ được toà Đại sứ Đại Hàn mượn đang ở trên xa lộ thì có một chiếc Corolla bảng tư nhân hớt hải đuổi đến. Chiếc xe chở tôi ngừng lại, cái Corolla đổ ngay xuống mép ruộng bên đường. Một cặp vợ chồng trẻ đẹp như diễn viên người mẫu lôi 2 cái Samsonite to tướng nhào lên. Cặp anh hùng thuyền quyên Việt này tí nữa thì lỡ chuyến, bỏ lại ngon lành cái xe con 4, 5 triệu, hai cửa còn mở toang và chổng đít ở bên lề. Anh râu quai nón to lớn còn đang hổn hển, cô vợ chân dài mặt vẫn nhợt còn hơn là đánh phấn thì xe lại ngừng. Đây là cổng vào cảng, cửa xe buýt mở, một anh quân cảnh trang phục tề chỉnh leo vào. Bằng ấy người trên xe đứng ngồi, anh nhìn ngay vào tôi mà hỏi giấy. 

Tôi đẫn người ra không có phản ứng. Tưởng là xe sứ quán bảng quân đội Mỹ đã an toàn, nếu không thì cặp kia đã không vất đi cái xe con đời mới để đổi lấy hai chỗ đứng. Con gái ông Đại sứ tiền nhiệm chưa hề dậy tôi một câu Hàn ngữ và tôi còn đang ú ớ chưa ra một chữ tiếng Anh thì ông nhân viên sứ quán đi kèm đã nhanh trí… ngoại giao. Ông lôi từ đâu ra một nắm tiền, giấy 500 Trần Hưng Đạo dúi vào tay anh Quân cảnh. Anh này một tay còn cầm súng, một tay không đủ để cầm tiền, cả tập rơi ra sàn vương vãi, anh lom khom nhặt nhét vào túi trên, túi dưới, túi quần ngang. Cả đời anh có lẽ chưa bao giờ thấy nhiều tiền như vậy, ngệch cả mặt mày. Ông Đại Hàn ác ôn được thể bồi thêm một nắm nữa làm anh Quân cảnh thiếu điểu hốt hoảng vì không còn chỗ chứa. Anh lùi ra ngay khỏi cửa nhưng nghĩ sao không chịu xuống hẳn mà còn đu vào thành, tay kia phất súng ra hiệu với các bạn gác ở bên dưới. 

Đoàn xe vào cảng có tiền mở đường máu qua khỏi trạm 2, trạm 3, đỗ trước bến anh Quân cảnh còn đứng đó nhìn trước nhìn sau bảo vệ cho mọi người xuống. Ở cầu tàu, cặp sẵn chiếc Dương vận hạm, cả một trung đội Thuỷ quân Lục chiến Triều Tiên chắn hàng ngang. Mấy anh này dang chân đứng tấn, súng gác trên hông, mắt nhìn thẳng, dây quai nón sắt ở dưới cầm như là duyệt binh lên truyền hình vào ngày Quốc khánh. Suốt mấy tháng trời không có giấy tờ hợp pháp, tôi đã được qua bao nhiêu là trạm kiểm soát ngày đêm, phải đợi đến lúc ngồi trên xe buýt của sứ quán Đại Hàn mới phải nhìn thẳng vào mặt một chàng Quét chợ [10]. 
*
Miền Nam, với 18 triệu dân số, có 1000 bác sĩ. Trên tàu tôi, không kể thành phần chính đáng Hàn kiều và gia quyến hồi hương, số quá giang lánh nạn sớm hơn người vào khoảng 200. Chẳng hiểu vì lý do nào, trong số này có đến 11 hay 13 bác sĩ, tức là một tỉ lệ cao hơn cả nước từ 500 đến 1000. Bác sĩ đi nhiều như thế, người ở lại chỉ cần cảm cúm cũng chết, chẳng cần đợi Việt cộng đánh đến. Một ông từng làm chỉ huy trưởng Tổng y viện Cộng hoà[11], một ông đương kim Giám đốc Trung tâm Bài trừ Hoa liễu chắc phải còn bỏ lại con bệnh đang rên la vì phong tình-lậu mủ-giang mai, mào gà-sang độc-hột soài-hạ cam . Có vài luật sư, bên xã hội có bà Chủ tịch Hội Hồng thập tự, phía tôn giáo có một Đại đức cánh của thày Tâm Châu, ôm theo một bà vãi đội tóc giả. Ít ra là có một linh mục công giáo Bắc kỳ hung hãn, ông này có lúc tiến đến tôi túm áo hỏi "Em có phải Nhảy dù? Tôi trước đây là sĩ quan tuyên uý trong binh chủng!" Tôi nghĩ, thôi đi "cha", giờ này còn nhận họ, nếu tôi Nhảy dù chẳng lẽ ông với tôi về chiếm lại… Bùi Chu. Vào lúc 5 giờ, khi đi ngang bến Sài Gòn, tôi thấy trên bờ vẫn có tình nhân đi dạo, xe qua lại bình thường, nhiều người đứng hóng mát nhìn con tàu đi ngang vẫy tay chào. Sài Gòn thứ bảy vẫn ngàn hoa trên đường, một người lính trẻ rời xa quê hương. Người lính chiến ấy là tôi! Lần đi khi nắng lưng đôi, chiều 26.04, chúng tôi là những người ra đi đầu tiên. 
*
Cảnh yên hàn này còn kéo dài được một hai tiếng đồng hồ nữa. Hạm đội Hàn quốc gồm chiếc LST 810 chở tị nạn miền Trung đi trước, tàu tôi LST 815 cũng là soái hạm đi nhì. Chiếc thứ ba, tàu yểm trợ kỹ thuật, còn đang ở Tân cảng thì bị pháo. Đạn trúng tàu sơ sài, không chết anh Đại Hàn nào, tôi chỉ lo là chết anh Quân cảnh Việt trước khi anh kịp sài nắm tiền vừa mới có thì định mệnh quá là tàn nhẫn. Dấu hiệu pháo địch đã về đến vòng đai, đã cách mấy giờ tàu, tôi không được chứng kiến, chỉ thấy trên tàu tôi nhốn nháo, đại đội Thuỷ quân Lục chiến từ trong khoang chui lên vào vị trí tác chiến, thuỷ thủ đoàn lăm lăm quay Bofor và 12 ly7 hướng bờ. 

Đêm như mực thì thầm nhưng hành lang ra Vũng Tàu vô sự, đến 2 ngày hôm sau khi Nguyễn Thành Trung dắt A37 vào ném bom Tân Sơn Nhất thì chúng tôi đã bập bềnh ngoài khơi ngang Côn sơn. Biển lặng lờ nên mọi người ngủ ngay ở trên boong đón gió, ngay bên cạnh "nhà" tôi là 1 gia đình có bốn cô con gái tuổi từ 17 đến 25, mỗi vẻ một người. Tôi không nghe đài theo dõi biến chuyển chính trị và quân sự, chỉ lo theo dõi sát 4 cô này. Họ giữ thói ở trên bờ, tối đi ngủ đồng loạt thay đồ bộ, đến sáng lại chuyển qua quần áo đi dạo phố. Ba cô đứng ba góc cầm một cái trải giường mỏng khúc khích cho một cô đứng giữa từ từ mà thay đổi xiêm y. Gió thì có khi phần phật và đằng nào thì cũng nắng để ngồi ngược mà ngắm, cảnh nghệ thuật này tôi không lần nào bỏ qua. 

Cũng vui nhưng kém phần hấp dẫn, là ngay đêm đầu tiên căng thẳng trên sông, ông Đại đức với bà ni cô vẫn trùm mền thực thi bài tập của bí quyết phòng the bất kể các thí chủ nằm bên. Cặp này đã lớn nhưng nhìn nhau mặn nồng như trai gái dậy thì, bà vãi thì mỗi lần di chuyển hai tay phải ôm đầu chỉ sợ mái tóc giả bị gió cuốn. Có lẽ trên đất liền họ chưa từng có cơ hội gần gũi, lên đến tàu họ là 2 người nếu không được Cách mạng, thì cũng đã được hoàn cảnh giải phóng. 
*
Tôi lân la làm thân với lại "Cởi quần áo tứ nữ anh hào", Mai-Nhung-Nga-Tiên, ngay lúc đầu đã cợt nhả kiểu "Sao, đến giờ chưa, thay đồ đi chứ". Ở Sài Gòn, ông Hương xuống, ông Minh nhậm chức, trên tàu cặp uyên ương tăng ni đêm bảy ngày… nhịn. Tôi lo tán gái và có thoáng chút lo cho đơn vị cũ, chẳng biết còn ở Đồng dù hay co cụm về Sài Gòn giữ tuyến cận thủ đô. Cuộc chiến tàn Sư đoàn tôi bị Sư đoàn 18 [12] qua mặt, Xuân Lộc tướng Đảo chơi đẹp làm tôi cũng hết ý, tuy đã đào ngũ nhưng vẫn phải có phần ganh tị. Chuyện màu cờ tôi không quan tâm lắm nhưng sắc áo thì cũng có một tí, thằng 25 cũng ra gì nhất là Đường sơn Đại huynh Lý tòng Bá, anh em đều nể, đến độ ông bay thị sát ở Trảng bàng không biết trực thăng có trúng mấy viên đạn mà tự động trong quân thêu dệt thêm huyền thoại là ông bị thương chân. Dĩ nhiên là ông cũng phải thế nào mới có cái tiếng đó chứ tướng lãnh nhiều ông thì lính chỉ có đồn đại là đã bỏ chạy. 
*
Tối ngày 29, vào lúc phần lớn những lời đồn này đã có căn cứ hẳn hòi thì tàu tôi đến Phú Quốc. Chiếc 810 đã đổ người tị nạn lên bờ trước mấy tiếng, riêng 815 thì Đại tá chỉ huy hạm đội cho mời mấy trăm người thuộc diện đặc biệt họp riêng vào một chỗ trước đài. Hai ba trăm người này chúng tôi, chẳng phải là tị nạn định cư ở đảo, cũng chẳng phải kiều dân liên hệ gì đến Nam hàn. Ông Đại tá nói, tuy cùng một hoàn cảnh chiến tranh và chia cắt nhưng đất nước của các bạn giờ thống nhất và hoà bình, là điều ngay cả chúng tôi đây vẫn còn đang mong ước. Đây là cơ hội chót để các bạn quyết định. Tương lai của các bạn ở Đại Hàn ra sao không thể biết, và mùa đông ở đó lạnh đến nỗi con sông ngang Hán thành đóng băng. Đại khái ý ông là gia đình nào sợ lạnh hơn sợ cộng sản thì ông sẽ cho ghe đưa vào bến, còn ai nhất định bỏ xứ thì Triều Tiên sẽ đón tiếp đàng hoàng. 

Sau diễn văn tình cảm rất là chân thật này, có tình đất nước và có tình đồng minh, chỉ có một gia đình nhận xuống. Họ đi một vòng không phải để nhận tuyên dương về lòng yêu nước từ những người ở lại mà để bán đô la. Bình thường, hối đoái là 300 đồng tiền Việt, hôm rời Sài Gòn mới lên đến 500 đồng. Trên bờ thì không biết ra sao nhưng họ đòi 1000 mà họ cũng chẳng có mấy tiền đô để đổi lại. Đến khi bố tôi kịp mở cặp ra thì họ đã hết sạch tiền Mỹ. Tôi thấy trong cặp ông có đâu đó gì một triệu trở lại, toàn là tiền Việt, bảo ông sao bố không nhanh, giữ cái này làm gì. Ông móc ví ra cười, có đúng 20 USD và 100 quan Pháp còn lại từ lần cuối xuất ngoại, tuyệt đối trên người không có 1 chỉ vàng. Tôi cũng cười vậy, biết sao, sắp đến giờ trình diễn thay đồ đi ngủ của 4 cô con gái. 
*
Tôi ngủ say dậy trễ, nên cái giờ trọng đại của lịch sử tôi chỉ mở được có một mắt. 

Mọi người lao xao tụ tập quanh mấy cái đài mở to khọt khẹt. 

"Ông Minh tuyên bố đầu hàng rồi!" 


Người ta nhắc nhau, nhắc đi nhắc lại. Tưởng ông tuyên bố tử thủ Sài Gòn, tái chiếm…Quảng Trị, di tản xuống quân khu 4 lập phòng tuyến mới, dời chính phủ kháng chiến về Phú Quốc... thì mới lạ chứ đầu hàng thì ai cũng đã chờ đợi. Không có ai ôm mặt khóc, không có ai nhảy xuống biển tự sát. Mấy nhà quân sự nghiệp dư ở trên tàu tính kế hộ tướng Nam, đánh Kampuchia hướng Tây và giữ phà Mỹ thuận ở miệt Bắc [13]. Tôi chấp hành nghiêm chỉnh quân lệnh cuối cùng của Tổng Tư lịnh Quân lực là giữ nguyên vị trí... đang nằm. Cho tới khi lần này thì nhốn nháo, tiếng chân thình thịch, thuỷ thủ đoàn nai nịt áo phao, gỡ vỏ khỏi đại liên, đại bác, hạ nòng. 

Đại tá chỉ huy hạm đội xuất hiện, áo giáp súng ngắn đường đường. Ông cho biết những người một giờ trước còn là quân đội đồng minh của ông, các đơn vị VNCH Phú Quốc, và giờ là tàn quân ô hợp, đang đòi lên tàu này. Tôi nhìn ra mé tàu, bên dưới vài cái tiểu đỉnh chập chờn trên sóng, phần lớn là lính tráng đang ngóng cổ nhìn lên tràn trề hy vọng. Tôi cứ tưởng thả thang cho họ rồi lên tàu tước vũ khí, đại đội Thuỷ quân Lục chiến trên tàu thừa sức giữ an ninh cho việc nhân đạo này. Nhưng ông Đại tá tuyên bố, quý vị an tâm, giờ nào tôi còn sống, không có quân quan lính lạ nào leo được lên. Có lẽ kinh nghiệm di tản người tị nạn từ miền Trung vào khiến ông quyết liệt như vậy mặc dù hoàn cảnh lần này có khác. Tàu đã hết chỗ chứa, họ chỉ việc chịu khó chạy ra vài mươi hải lý nữa, đã có hạm đội Mỹ, đến 4 chiếc Hàng không mẫu hạm và cả trăm tàu đủ loại đợi sẵn, hộ tống họ về đến Subic Bay [14]. Biển Nam Hải đang nườm nượp như là Ngã tư Bảy hiền vào giấc sáng, việc gì mà sợ lạc. 

Ở trên bờ, phi trường Dương đông tấp nập không kém, trực thăng là đà bốc thẳng, phi cơ quân sự hết chiếc này đến chiếc khác ra đường băng. Tôi thấy rõ nhiều xe máy nhỏ, chở cả gia đình đuổi ra đến tận nơi, vất xe cái bẹt để bồng bế nhau lên tàu. Từ vị trí đã an toàn trên biển tôi điềm nhiên mà theo dõi, nhưng nếu tôi đang ở trên bờ và không có phương tiện ra đi thì tôi cũng vẫn hai tay thọc túi mà nhìn. Ở lại thì ở, chết thì chết tại chỗ cho đỡ… tốn sức chứ tôi không chen lấn. Tôi chẳng có nghĩ ngợi, tôi nhìn, nom những hàng cây xanh lơi lả mát bên trong mà bỗng dưng thèm một cốc dừa. Nhung, quần áo đã diện như là đi mua sắm, đứng cạnh tôi hướng về sân bay đờ đẫn. 

"Giờ này anh ở đâu?" 
Tôi buột miệng "Chàng lái trực thăng hay là phản lực?" 

"Phi đoàn vận tải Tân Sơn Nhất" 

"Vậy thì lo gì,"
 súyt thì tôi ôm luôn Nhung vào lòng "phi công đi là cái chắc, mà phi công vận tải thì đi còn mang theo được cả bàn ghế, giường tủ." 

Tàu lầm lì từ từ quay ra hướng biển, mấy cái tiểu đỉnh vây quanh dãn ra nhường kiểu ngập ngừng vẫn còn tiếc nuối, theo như ông Đại tá nói, hạm đội 2300 hải lý nữa sẽ đến cảng Busan, Nam Triều Tiên. Vài ngày nữa, nếu Nhung hết quần lót sạch, tôi sẽ đề nghị cho mượn cái kỉ vật của Thuý mà tôi mang theo dằn trong túi.
[1]Trong quân đội miền Nam, sĩ quan gốc Võ bị Quốc gia Đà Lạt là thành phần ưu tú, không bao giờ để bị nhầm lẫn với lại sĩ quan xuất thân từ trường Bộ binh trừ bị Thủ Đức, Long Thành. Vì vậy mà những bút ký của Phan Nhật Nam (Mùa Hè Đỏ Lửa, Dọc Đường Số 1...) mặc dù tác giả không ý thức hay là chủ ý, không phải là những bút ký về "người lính Việt Nam Cộng hòa" mà là về sĩ quan Võ bị.
[2]Tướng Nguyễn Văn Hiếu, nổi tiếng là đứng đắn, chẳng may lại phải làm phó lúc chót cho Tư lịnh Quân khu 3 cho ông Nguyễn Văn Toàn, tự "Toàn quế". Ông Toàn này, ngoài việc doanh thương cây quí, biệt danh đúng ra phải là "Hoa trinh nữ" vì đã có bạo hành nữ sinh. Chuyện Ô Hiếu chết vẫn còn bí ẩn.
[3]Nếu "Mỹ nhân tự cổ như danh tướng" thì Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi (Cựu Tư lệnh Quân khu 4) cũng …tựa mỹ nhân. Ông ra trận mặc đồ vàng chói, đồng hồ vàng, nắp giây lưng vàng, ngay cả cái la bàn quân đội ông cũng cho mạ vàng nốt. Danh của ông là danh tham nhũng, khiến ông phải trở về Bộ Tổng Tham Mưu ngồi nhà mát. Tại Phan Rang, ông chạy lạc trong rừng rồi bị bắt, không hiểu có phải vì thợ bạc khi đem mạ có làm hỏng cái la bàn vàng hay không.
[4]Nguyễn Ngọc Linh (cựu Phát ngôn nhân chính phủ) Phạm Kim Ngọc (cựu Tổng trưởng Kinh tế) và thân hữu đã bị Tổng thống Hương đòi dẫn độ trục xuất khỏi Singapore mấy ngày sau. Khi Tiểu đội Quân cảnh sang đến nơi thì miền Nam sụp đổ, mấy anh này đã khỏi phải thực hành công tác áp giải.
[5]Chương trình bình định dân sự, tiệu diệt hạ tầng cơ sở của địch trong dân chúng, chuyên ám sát cán bộ cộng sản. Nhân viên của chương trình này trực thuộc CIA, không trực thuộc quân đội miền Nam hay là quân đội Mỹ. Cơ quan CIA tại Việt Nam lại hay làm dáng, vũ trang bằng những thứ khác người và nguồn gốc không phải từ Hoa Kỳ như súng ngắn Đức, Tiểu liên Thuỵ điển.
[6]Defense Attache Office, Phòng Tùy viên Quốc phòng Hoa Kỳ. 
[7]Garand là loại súng đã hiếm, thuộc dạng quá đát và gần như là sưu tập, chỉ dành cho thực tập ở quân trường hay lính kiểng của các đơn vị lễ nghi.
[8]1 USD = 300 đồng và 40,000 USD dạo đó là một số tiền lớn, mua được một căn nhà trung lưu ở vùng ngoại ô Washington.
[9]Trong villa thượng lưu máy lạnh thì 15.000, ở ngõ hẻm bùn lầy thì từ 1.000 đến căn bản 300.
[10]Quân Cảnh, mang hai chữ viết tắt "QC".
[11]Quân y viện lớn nhất miền Nam, ở Sài Gòn. Trong thời chiến, các nam y sĩ phần lớn đều phải phục vụ trong quân đội.
[12]Sư đoàn 18 là Sư đoàn Sài Gòn, tuy là theo nghĩa đen chứ không theo nghĩa mà người Mỹ dùng để gọi lính hậu phương ("Saigon Division") nhưng vì không phải lội rạch leo đèo nên cũng không được nể trọng (Anh ơi đi lính đâu xa, Sư Đoàn 18 gần nhà anh đi). Trong trận đánh cuối cùng của chiến tranh, Sư đoàn 18 là đơn vị duy nhất giữ vững tuyến tại Xuân Lộc khiến đại quân miền Bắc phải bọc vòng, thành thử lại đâm ra xuất sắc nhất vào giờ chót.
[13]Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lịnh Quân khu 4. Vào giờ đó, QK 4 ở phía Nam Sài Gòn vẫn còn nguyên lực lượng.
[14]Căn cứ Hải quân Hoa Kỳ tại Phi Luật Tân, cách Việt Nam khoảng 5 ngày tàu.

Nguồn: talawas.org







NGÀY 30.4.2005 Ở BOLSA

Một tuần trước, tôi đi San Diego ăn đám cưới, phải ghé ngang Bolsa rước ông chú bà thím, đã thấy đường Brookhurst ngợp cờ vàng. Ngợp là ngợp 50%, mỗi cái ba sọc đỏ lại kèm theo một lá cờ Hoa của Mỹ. Việc bây giờ cũng hiếm, nên tôi chỉ cho các con trông thấy “Đố chúng mày đấy lá cờ gì?”. Thằng lớn xì đằng mũi kiểu “Biết rồi”, đây là cờ nó vẫn bấm chuột vào để chọn phe khi chơi trên mạng Battlefield Vietnam, map The Battle of Hue (hay là the Battle of “Way” như thằng bé đọc). Tôi không buồn trích dẫn thứ trưởng Lê Mai (“Việt Nam là một đất nước chứ không phải là một game online”), tôi vẫn phải nhờ đến tài bắn súng của chúng nó mỗi khi lên máy. Vả lại, nhờ trò chơi này, tụi nó còn học hay hiểu được vài câu tiếng Việt: “Địa chỉ (sic) chúng tôi bị xâm nhập!”, “Yêu cầu tiếp viện!” 
*
Chiều thứ sáu ngày 29.4, về đến nhà tìm ra tờ thông báo của ban tổ chức “30 năm Quốc hận” thì đã 8 giờ. “Lễ truy điệu quân dân cán chính VNCH đã vị quốc vong thân” ở Công viên Tự do Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ là từ 7 đến 9 giờ. Tuy “Ban tổ chức sẽ khai mạc đúng giờ” nhưng tôi tin vào ngạn ngữ Không ăn bắp không phải Mễ, không đi trễ không phải Việt Nam, nên nghĩ là còn kịp. Tượng đài này đâu đó ở dưới khu người Việt, tôi có nghe nói đến nhưng chưa một lần đến, tôi phải lên Yahoo Maps mà tìm. 

Địa chỉ (chưa bị xâm nhập) “Góc đường All American Way & đường 13rd (sic), thành phố Westminster” thằng Yahoo chưa bao giờ biết, làm gì có đường “13rd” mà chỉ có đường “3rd”, hay là “23rd”, còn đường 13 thì phải là đường 13th. Tôi đâm ra cáu tiết, rủa cả 30 hội đoàn đứng tên mà không sợ. Theo kinh nghiệm, Hội đoàn người Việt ở nước ngoài nếu có 30 Hội thì tổng số hội viên là từ 25 đến 50 người, lý do là vì 3 hội viên của Nhóm Hành động (số 16 trên danh sách) thường thì cũng lại là 3 trong số 7 hội viên của Ủy ban chống Tuyên vận Cộng sản (số 17 trên danh sách), và cùng 4 người còn lại họp thành 10 thành viên của Lực lượng Quân dân (đứng số 18). Tôi buột miệng: “Có cái địa chỉ mà còn không chính xác được, thảo nào thua là phải!”. 

Vợ tôi chữa: “Các anh đâu có thua, các anh thắng chứ!”. Vợ tôi là người nước ngoài, lại dám can thiệp vào việc giang sơn nhà chồng theo cái giọng của Thành Tín. Người Việt Nam có thể ai cũng đều thắng cả nhưng tôi thì thua. Ba mươi năm trước, tôi mặc áo màu gì, tôi còn nhớ. 
*
Khai mạc ra sao tôi không có đó, nhưng 9g05 phút lúc tôi đến đã chẳng còn ai, hẳn là bế mạc đã xảy ra chính xác theo giờ quân đội (“21:00”). Tượng đài thì vẫn còn đèn rọi, thêm ánh lửa bập bùng của một cái lư đồng. Vài bóng người lui hui chăng bạt để bảo vệ cái bàn thờ Tổ quốc, những lẵng hoa bày biện chung quanh trông như là một đám tang. Hai người lính bằng đồng đứng hiên ngang trong gió, anh Mỹ súng cầm sẵn ở tay còn anh Việt thì vai vẫn còn đeo (đây là chuyện đùa xuyên tạc của giới cựu sĩ quan H.O. cải tạo ở vỉa hè Phước Lộc Thọ, tôi không đi cải tạo ngày nào tôi không dám phát biểu như thế!). Một người đàn ông còn trẻ, một đứa bé của 30 năm về trước, cũng ghé vào nhìn. Đứa con gái 8-10 tuổi của anh chạy vòng quanh, vừa thốt “Oh, it’s so cool!”. Hai phụ nữ đứng im, ôm ngực dưới cái lạnh của đêm Cali vào mùa xuân. Tôi không trông rõ mặt, chỉ thấy cái dáng co ro, đôi chân vòng kiềng của người trẻ hơn đang yên lặng bó mình trong cái áo len thiểu não. Tôi tưởng tượng cô năm 15, 20 tuổi, từ miền Nam ngơ ngác ra Thanh Nghệ hay tận Lào Cai, một cô gái Sài Gòn tìm đường đi thăm anh, thăm cha đang học tập ở trại, cái dáng dặm trường bỗng đêm hôm nay trở lại nơi này. 
*
Sáng chủ nhật phải năn nỉ mãi mới có một đứa con chịu theo tôi xuống Bolsa điểm tâm. Nhà hàng dim-sum Long Phụng Lầu trong khu chợ 99 cũ vẫn đông như thường lệ. Đây là trung tâm của khu người Việt, ở góc Magnolia và Bolsa, trước mặt thương xá Phước Lộc Thọ. Lối vào bãi đậu, dọc lề đường đặc biệt hôm nay có băng-rôn và bày tranh bày ảnh, vài mươi người tụ tập, có cả xe của đài truyền hình địa phương. Tuy nhân dịp 30 năm nhưng nội dung được khai thác là chủ quyền lãnh thổ, ngư dân bị hải quân Trung quốc bắn chết, và Trung tá Ngụy Văn Thà của trận hải chiến Hoàng Sa năm 74 lại được lôi ra. Một đứa bé đứng vừa chập chững mặc đồ bông hớn hở hai tay phất cờ vàng. Thấy tôi chụp ảnh, bố nó đeo thêm vào cho nó cặp kính mát của anh. Thấy tôi chụp ảnh, mẹ nó bảo “đợi em gỡ kiếng nó ra, anh bấm thêm cho nó vài pô”. Tôi hỏi con tôi: “Mày có muốn một bộ đồ như vầy tao sắm cho”.

*

Chương trình tại Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ hôm nay kéo dài cả ngày nhưng vào giữa trưa cũng chỉ lác đác khoảng 100 người, đúng như nhận xét, 3 người là 1 hội đoàn. Phần lớn là cao tuổi, từ 50 trở lên đến 60, 70, tức là lớp con đã khôn lớn và bận làm những chuyện gì khác ngày hôm nay thay vì tưởng niệm. Bãi đậu xe còn nhiều chỗ, khi tôi bước khỏi, một người Mỹ già ở chung cư bên cạnh ngừng tôi lại hỏi, hội hè gì? Tôi trả lời, ông gật đầu tán thành, biết nhớ đến là việc tốt, không có vẻ gì phiền chiếm chỗ đậu xe và trương chiêng khua trống nơi hộ ông ngụ. Trên lan can của chung cư, vài người Mỹ rỗi việc đứng nhìn kiểu như khi nghe còi hụ cảnh sát hay đụng xe. 



Giờ, bàn thờ Tổ quốc trang nghiêm đã được gỡ vải bảo vệ và nghi ngút hương khói. Năm vị tướng miền Nam tuẫn tiết được bày theo thứ tự quân giai. Trong năm người này có ba người tự sát để khỏi lọt vào tay địch tại mặt trận, người thứ tư là tướng Nam, đáng phục nhất, chỉ tự sát sau khi bàn giao cho địch, tức là làm đầy đủ bổn phận của một chỉ huy, đặt trách nhiệm lên trước cả sĩ diện. Người thứ năm, thâm niên cao cấp nhất và do đó hình được đặt trên bàn thở ở vị trí đầu, là tướng Phú, tự lệnh Quân khu II. Thành tích của ông là làm mất Ban Mê Thuột, Pleiku, cả Quân khu lẫn Quân đoàn trong một thời gian kỷ lục. Suốt thời gian Quân đoàn II đi tản chiến thuật trên đường 7, ông không một lần bay thị sát hay đích thân ra chỉ thị mà đóng cửa ngồi hút thuốc liên miên trong bàn giấy tại Nha Trang. Sau đó, ông bị cách chức và quản thúc tại gia, uống thuốc ngủ sau khi miền Nam hoàn toàn sụp đổ. Đúng ra, nếu miền Nam không mang ông ra xử bắn trước thì ông cũng nên uống thuốc ngủ ngay vào tháng 3. Giờ đặt ông trên bàn thờ, tôi không hiểu là người thứ sáu, Đại tá Cẩn (di ảnh đặt ở hàng nhì vì không mang sao tướng) có thấy chướng hay không khi ông Cẩn ở Chương Thiện đánh cho đến khi hết đạn, bị bắt và bị mang ra hành quyết.
*
Nha Kỹ Thuật là đơn vị bí mật, không có cả tên trong sơ đồ tổ chức của Bộ Tổng tham mưu. Ngày trước càng bí mật chừng nào thì giờ ở nước ngoài, đi đâu cũng chỉ thấy có họ. Trong một triệu quân nhân VNCH, Lôi Hổ đâu có được bao nhiêu, chỉ 1, 2 ngàn người mà hôm nay cựu quân nhân Lôi Hổ mang quân phục lên đến 1/3 tổng số. Ngay trong cộng đồng Việt ở đây, 400.000 người tại Nam Cali, không lẽ chỉ có cựu quân nhân Nha Kỹ Thuật, làm như những người khác thờ ơ hay là trốn hết, để cho thành phần ưu tú nhất của quân đội 30 năm sau đến tượng đài thắp hương đại diện. Tôi thấy độc nhất một ông mặc đồ bay, một ông đội nón két Hải Quân và một ông có cả dây biểu chương và lon Đại uý mang phù hiệu của cục Tâm Lý Chiến. 

Ngoài ra là mũ nồi đỏ, nồi xanh và áo bông đủ loại và đủ kiểu, những thứ “phăng” (fantaisie) ở Việt Nam rất khó kiếm, dạng sưu tập Nhảy dù Pháp mà thời trước nếu có được các chàng trai thế hệ phải quý hơn là nhân tình. Tôi vốn gốc lính đồ xanh chẳng có hoa hoét gì hết nên có nhận xét trên chỉ vì lòng ghen ghét ấy thôi. Giờ con tôi mới hỏi lại: “Còn đồ của bố đâu, sao không thấy mặc vào?” Tôi nghĩ chắc phải vậy, lo sắm dần cho một dịp sau, vào trước năm 2025?


*
Thế hệ thứ nhì có vai diễn, hai thanh niên ngoài 20 tuổi lên áo lên quần tề chỉnh bottes de saut, một anh sắc phục Biệt kích dù 81 và một anh sắc phục Lôi Hổ. 


Tôi không hiểu mọi người có quặn ruột hay không nhưng nhìn thấy họ tôi thấy lại tôi thời trước, đừng nói đến bại trận chỉ việc bóng câu cửa sổ cũng đã làm tôi xây xẩm mặt mày. Giờ Văn nghệ đấu tranh đã điểm, một tốp phụ nữ vừa đến tụ ở sau sàn diễn, mấy bà văn công này thì hợp thời, ai cũng đã ngoài 50 và mỗi bà một bộ đồ trận Hải Lục Không quân đầy đủ cả, theo truyền thống “Mình có 3 người”: Một đứa lưng trời / khi đứa khác ra khơi / chỉ còn mình tôi ba lô về khu chiến / Nghe đường dài ghê. Chỉ lại tiếc, “biểu tượng” của Lục quân vẫn là đơn vị Nhảy dù, làm như Bộ binh, các Sư đoàn, Địa phương quân, Nghĩa quân không xứng đáng vậy. Nhưng mà ở đây, có lẽ lính đồ xanh chúng tôi đều sẵn sàng, nhường bà biểu tượng này cho các anh “không gian vương dấu giày”. 
*
Đã là Việt-Mỹ, thì cũng phải có 5-7 ông cựu quân nhân Hoa Kỳ. Họ đứng riêng một chỗ, cách biệt với người Việt nhưng trong nội bộ người Mỹ của họ thường là rất thoáng với nhau. Chỉ có những dịp này mới đen-trắng đề huề, công nhân-giám đốc, cấp tiến-bảo thủ, Dân chủ-Cộng hoà đều là huynh đệ (tôi không nói đến kỳ bầu cử Tổng thống vừa qua, là một vết nhơ cho cộng đồng cựu quân nhân Mỹ tham chiến tại Việt Nam). Họ cũng không mặc quân phục chỉnh tề (chỉnh tề thì lúc còn tại ngũ đã mặc rồi) mà là dịp để ăn mặc vá víu cửa hàng lưu niệm, áo phông áo gió để những khẩu hiệu tự hào cũng có nhưng thường là tự trào. Tôi chưa hề thấy cựu chiến binh người Việt nào, ở bên này hay bên kia chiến tuyến cũ, lại mang áo như ông da đen ở đây, có thêu sau lưng hàng chữ “Bị quyến rũ rồi bị phản bội/ Bị khinh miệt và bị bỏ rơi”. 

Nhìn họ một lúc, mặc dù rất nhiều người ngày nay vất vưởng (cựu quân nhân Hoa Kỳ không phải là ¼ của xã hội nhưng lại là ¼ của những người vô gia cư chẳng hạn), tôi mới thấy là cái câu nổi tiếng của ông Thành Tín (nói với Thủ tướng Mẫu (?) vào ngày 30.4 tại dinh Độc Lập) là sai bét. Biết đâu, ngày 30.4, hay đúng hơn là cuộc chiến này, người Việt ở phía nào cũng đều thua hết, và chỉ có Mỹ là thắng. 


*
Tôi ra về, cờ vàng rợp lối và bài ca Nhật Trường đeo đuổi. Lá cờ này, cả đời tôi chỉ có một lần ấn tượng. Ngày tôi đăng lính, ngồi trên xe với anh tuyển mộ rồi, trớ trêu sao lại chạy ngang một nghĩa địa có 3 quan tài mới toanh phủ quốc kỳ sáng chói bên cạnh 3 cái huyệt đang còn đào dở. Lúc đó, nhảy khỏi xe thì không còn kịp nữa hay là những cảnh rất thường này mọi ngày tôi vẫn thấy mà không hề ghi nhận mảy may. Thì, nếu lỡ (Lỡ mai anh chết, em có buồn không / Sao em không đến khi anh còn sống) tôi cũng không cần chọn màu chọn vải, mà đã có lá cờ tẩm liệm. Ngày hôm nay, tôi cũng không kể là lần ấn tượng thứ nhì mặc dù sự việc đã ngược hẳn lại. Lá cờ này đã chết, và chúng tôi là những người tẩm liệm nó. 


Nguồn: talawas.org







THẤT THỦ NINH BÌNH

Tăng T54 bị bắn hạ tại Ninh Bình bởi Sư Đoàn 18 BB miền Nam trên đường tiến đến Hà Nội vào ngày 11.4.1975
Ngày 20.4.1975 thành phố Ninh Bình bị bỏ ngỏ. Sau tám ngày chống cự mãnh liệt với bốn sư đoàn miền Nam và giữ vững tuyến, Sư đoàn 320 Bắc Việt đã phải triệt thoái về để bảo vệ Hà Nội. Ở Đông Nam, Nam Định đã bị các lực luợng Mặt trận (Giải phóng miền Bắc) từ “Bùi Chu đất thép” và “Phát Diệm quê hương đồng khởi” cô lập trong khi Hải Dương bị Sư đoàn Thuỷ quân Lục chiến đe doạ dồn dập tại ngoại vi sau khi làm chủ Hải Phòng. Tình thế không còn lật ngược được nữa, Trung Quốc quyết định hé cửa khẩu Đồng Đăng và Lạng Sơn cho dân chúng và các đơn vị Quân đội Nhân dân đang đổ xô về phía biên giới, trong khi Tổng Bí thư Lê Duẩn đã an toạ tại Bình Nhưỡng cùng với lãnh tụ Khmer láng giềng, ông Pol Pot. 

Sáng 30.4, tân Chủ tịch nước mới vừa nhậm chức được ba ngày, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngồi trong Dinh đợi các chiến xa M48 của địch tiến vào thủ đô. Lời “thầm hẹn” của nhạc sĩ Phạm Đình Chương trở thành sự thật: 

Hôm nao chiều mưa phơn phớt lạnh 
Hiến cả đời trai với sa trường 
Bao nhiêu chàng trai tay siết mạnh 
Thầm hẹn ngày về quê Bắc ơi! 
(“Anh đi chiến dịch”) 

Trên cầu Chương Dương vào lúc trưa, trung uý Cao Xuân Huy (tác giả về sau của hồi kí Tháng Ba bẻ địch thuật lại cuộc đổ bộ Vinh của Sư đoàn Thuỷ quân Lục chiến) ngồi trên thiết vận xa M113 đi đầu, thấy một chiếc xích lô thong thả từ thành phố ngược chiều đi ra. Trước cảnh lạ lùng này, anh nhảy xuống hỏi thanh niên ngồi trên xích lô: 

“Anh đi đâu?” 

“Đi đâu, đi đâu bây giờ? Xong rồi… Xong hết rồi…" Hành khách này trả lời. 

Vào 10 giờ 30, trước đó hơn một tiếng, Lữ đoàn 3 Kỵ binh, Lực lượng Xung kích Quân đoàn 3 miền Nam, đã ủi sập hàng rào sắt ngoài cổng Dinh Chủ tịch và treo cờ vàng ba sọc đỏ. Chạy ngang Cột Cờ (vì đi lạc mất một lúc trong khi tìm Bắc bộ Phủ), trung uý Huy còn thấy xác một thượng tá công an tự sát nằm ngay ngắn với khẩu Makarov cạnh người. Nhưng anh không biết, người thanh niên trên xích lô vào trưa hôm đó về sau lại là nhà thơ Đồng Đức Bốn, có hai câu cảm thán: 

Xong rồi chẳng biết đi đâu 
Xích lô Bà Triệu qua cầu Chương Dương 

Ở ngõ Hàng Hành, người ta thấy một người đàn ông trung niên mang quân phục miền Nam đứng vơ vẩn một lúc lâu (cạnh căn nhà giờ là càfé Nhân) rồi ngồi sụp xuống vỉa hè ôm mặt khóc. Vài người đánh bạo rụt rè ra hỏi chuyện “giặc nguỵ” này thì ông nức nở thật sự chứ không phải chỉ vì bị hành làm cay mắt. Đó là nhạc sĩ Anh Bằng và thay vì trả lời ông run run cất giọng: 

Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu 
Bao nhiêu mộng đẹp yêu thương thành khói tan trong mây chiều 
(“Nỗi lòng người đi”) 

Cố nhân của nhạc sĩ “Ai đứng trông ai ven Hồ/ Khua nước trong như ngày xưa” theo hàng xóm cho biết là giờ nay là nữ cứu thương trên chiến trường và đã mịt mờ tăm tích nhưng nội chiến tương tàn Nam Bắc vừa mới kết thúc và Việt Nam hoà bình, thống nhất và độc lập sau 20 năm. 
*
Nếu đây là chuyện xảy ra hơn 30 năm về trước và cho là như vậy, thì để tiếp tục chuyện này cho đến 2007, cần có một số câu hỏi phải trả lời. 

Việt Nam Cộng hoà trong những năm sau đó (và đến giờ này) có áp dụng chính sách lý lịch và phân biệt hay không, chẳng những đối với những người trách nhiệm và ít nhiều hệ luỵ với chế độ miền Bắc hay Đảng Cộng sản, mà đối với cả con cả cháu của họ? 

Đối với những người trách nhiệm nói trên, chậm chân không sang Trung Quốc, Bắc Triều Tiên kịp (hay tị nạn Cuba), có lùa 300.000 từ cấp chuẩn uý trở lên vào các trại học tập dân chủ tư sản và gắng cải tạo họ thành doanh gia mẫu mực của kinh tế thị trường? 

Ngoài hơn 100.000 người vào những ngày cuối sang lánh nạn ở các nước xã hội chủ nghĩa, có hơn triệu người phải chôn dầu,[1] đóng thuyền từ Bãi Cháy, Quảng Ninh vượt biên tìm đường sống ở Liên Xô, Hung, Ba Lan, Tiệp hay không? 

Hà Nội có phải đổi tên hay không? Và đổi tên gì, tên ai? 

Chuyện đổi tiền bắt buộc phải xảy ra, nhưng sẽ xảy ra như thế nào? Có chiến dịch kiểm kê tài sản, tịch thu văn hoá phẩm, đốt sách, “đánh cộng sản” đợt 1, đợt 2 hay không? Lực lượng Xung kích Quân đoàn 3 miền Nam ngày nay có làm chủ toàn thể khu vực Gia Lâm, tịch thu nhà cửa của quân nhân chế độ cũ ở Phố Lính để rầm rộ kinh doanh? Vợ con của thành phần chế độ cũ này có phải đẩy đi kinh tế mới, đào đắp thuỷ lợi để kết quả là cả nước ăn độn? 

Nói chung và nói rộng, vào ngày hôm nay, 2007, thì về mặt dân chủ chính trị, tự do xã hội, quyền lợi lao động (nghiệp đoàn), về mặt giáo dục, y tế công cộng, về mặt công bằng, về cách biệt giàu nghèo, về mặt tội ác, tiêu cực xã hội… đất nước đang ở vị trí nào? 

Về mặt phát triển văn hoá, nghệ thuật ? 

Chương trình ca nhạc Thúy Nga Bucharest có tồn tại đến số 89 được không? 

Mỗi người chúng ta hẳn có một trả lời riêng theo trí tưởng tượng cá nhân và lập trường cố định. Nhưng hỏi cũng là đã trả lời và người viết cũng xin phép được có ý kiến. 

Việt Nam Cộng hoà (thống nhất), sau nhiều lần bầu cử tự do và đa nguyên, tưởng đã được quân đội để yên, lại vừa có mấy cha nội này đảo chánh. Thủ tướng là người giàu nhất nước vừa mới phải ra đi sau khi bán công ty viễn thông do ông thành lập (FPT) với giá 1,2 tỉ USD cho Singapore. Đĩ thì đầy đường, rất là vui mắt, nhưng về mặt phát triển kinh tế, chẳng ai lo hay phải ngồi bàn ra cãi vào là chẳng bao giờ hay bao nhiêu năm nữa mới đuổi kịp một quốc gia bên cạnh như là Thái Lan.
[1]Dầu (ghe máy) thời vượt biên quý‎ như là vàng, và phải đem chôn giấu trước ở bãi biển đợi đến ngày (đến đêm) khởi hành, đào lên để sử dụng. Đình Văn đã có thể viết ca từ “Mưa bụi”, Em hỏi rằng hôm nay đi đâu/Anh trả lời anh đi… chôn dầu?

Nguồn: talawas.org







NGƯỜI QUÊN, KẺ NHỚ [1] 

Đánh giá (hay là chỉ có gọi tên thôi), cuộc chiến 30 năm trước một cách đúng đắn và khoa học tôi e rằng quá khó. Trong lãnh vực này, lấy "khoa học" của Âu Tây ra mà làm gương tôi sợ cũng chỉ là nói cho vui nếu không phải để cười. Hai trăm năm sau Cách mạng Tư sản Pháp, chuyện vẫn còn tuỳ theo quan điểm, tám, chín thế kỷ sau các cuộc Thập tự chiến người Ki tô vẫn luận khác người Hồi. Đó là chưa nói đến đùng một cái 11.9, thì đây đó chuyện một ngàn năm về trước người đang nghĩ thế này bỗng nhiên nghĩ ngược lại. 30 năm chỉ có thể là thời gian để mà bình tĩnh, để mà nguôi hay để mà cảm, không phải là để tìm ra sự thật gì đó hay chân lý này kia vĩnh cửu. Cái chân lý, sự thật, về cuộc chiến tranh này tôi nghĩ là ai cũng đều đã có ngay từ khi nó bắt đầu chứ chẳng cần đợi đến 30 năm sau khi nó chấm dứt [2]. 

Một bận ở Hà Nội, tôi chung khách sạn với một ông cụ Việt kiều đã ngoại thất tuần. Đây là lần đầu sau gần nửa thế kỷ cụ trở về thành phố mà cụ đã có thời nhiều năm trọ học. Cụ thì lớ ngớ mà tôi thì nhanh nhẩu nên cụ nhờ tôi đưa đi thăm chốn cũ cảnh xưa. Vậy là tôi được biết Hồ Bảy Mẫu với Đông Dương Đại học xá chỗ nào, đây là trường Luật và trước kia trường Thuốc. Sau đó, tôi dẫn cụ đi tìm lại căn nhà mà gia đình cụ đã sắm ở Hà Nội cho các con lên học. 

Phải khó khăn lắm ông cụ mới nhận ra nơi ở của 50 năm về trước phía gần đê Yên Phụ, cạnh sông Hồng vẫn lặng lờ mặc những bể dâu (phần sau của câu này tôi nặn ra cho có vẻ văn chương). Theo cụ kể, căn nhà này trước đây là một biệt thự có sân sau sân trước nhưng giờ có 10, 20 hộ chen chúc, xây dựng vá víu ra đến tận mặt đường. Tôi đề nghị, giải thích với họ và xin vào xem lại, hẳn là căn nhà cũ ở phía trong vẫn còn nguyên vẹn tường vách, chắc chẳng ai đập phá đi mà chỉ dựa vào sẵn có để lan ra. Cụ lắc đầu, bảo thôi mình đi, rảo bước khiến tôi phải vội vã theo. Được một quãng, khỏi tầm mắt tò mò của những người chủ hiện nay, cụ mới nói. Họ thấy người lạ đến nhòm ngó, lại giải thích là chủ cũ thì nghĩ là mình trở lại đòi nhà! Ông cụ này mới là khờ chứ chẳng phải tôi. Thời buổi này, nhà người ta có mới cướp hôm qua, hôm nay mình trở lại họ còn chửi mình chứ việc gì họ phải ngại! Việt Nam chứ có phải là Đông Đức đâu ("Bức tường đã đổ! Bức tường đã đổ!") mà hăm hở đòi nhà! Chuyện từ 1947, có đòi, cũng chẳng ai trả, cụ cứ việc yên tâm. Cụ có vẻ phật lòng với lối trình bày thiếu tế nhị của tôi, đã đành là không có việc đòi hay trả, nhưng biết mình là chủ cũ thì người ta cũng áy náy hay ít ra là nghĩ ngợi, mất vui. Đã qua rồi, cụ chỉ cần vài phút nhìn lại phía bên ngoài là đủ. 

Ông cụ là con của một nhà thầu thời Pháp, ngoài căn nhà Hà Nội còn có ruộng đất ở quê, tôi không nhớ là 20 mẫu hay 200 mẫu ta rải rác ra đến tận Thanh. Cụ đi du học nước ngoài, sau 54 vào Nam, là một trong ba người thành lập phòng thương mại Sài Gòn, cho đến 75 trở thành một doanh gia dinh điền rủng rỉnh. Một căn nhà của cụ ở Quận 1 thành phố, giờ đã phá để khuếch trương một khách sạn nổi tiếng. Đất đai canh tác thì tôi không rõ thời giá nhưng riêng miếng đất này ở trung tâm Sài Gòn thì ngày hôm nay đã là dăm ba triệu USD hay là bảy, một món tiền tôi chỉ nghe nói đến đã lảy bảy chân tay, suýt nữa làm rơi cả máy tính (trong khi đang dùng để nhân 10, 15 cây 9999 với 375 USD nhân với lại 850 mét vuông). Vậy mà khi gặng hỏi cụ có gì tiếc nuối sau 2 bận đổi đời, cụ điềm nhiên mà nói, bằng ấy năm khói lửa, được toàn thân ra đến nước ngoài và có ăn có mặc, chẳng giúp ích gì được cho quốc gia dân tộc không tiếc thì thôi chứ tiếc gì đất với nhà! 

Tôi nghe đấy nhưng tôi không được vậy. Tôi lý giải là đất đai nếu về tay người cày, xưởng hãng về tay lao động thì vui vẻ mọi đằng; còn ở đây, cái nhà ở Sài Gòn chẳng hạn, cụ mất thì anh gác cửa, chị bồi phòng thuộc công ty Saigon Tourist nào đã được tăng lương. Cụ không nghe, gạt phắt, đã bảo là bỏ của chạy lấy người thì nhắc đến làm gì. Thì chuyện tài sản là chuyện nhỏ, nhưng chiến tranh còn những chuyện máu xương. Cụ có một người anh ruột cận tuổi và thân thích. Theo cụ, ông anh này tính "hung hăng" vào tuổi sinh viên, hoạt động đảng phái quốc gia chống Pháp, sau khi Việt Minh cướp chính quyền bỏ chạy lên Vĩnh Yên lập chiến khu, bị họ bắt và thủ tiêu mất tích. Mẫu người này, có thể gọi là nhiệt huyết và yêu nước, một nạn nhân của chế độ lãnh đạo độc quyền. Nhưng chẳng phải là anh tôi nên tôi không có ý kiến. Ông cụ thì bảo, mình làm chính trị, làm cách mạng, chỉ chực cướp chính quyền và giết người ta. Người ta cướp được chính quyền thì người ta giết mình, còn trách vào đâu! Và ngậm ngùi giây lát, phải đừng hung hăng như thế thì đến giờ này còn anh, còn em. 

Thành phần lơ mơ trí thức tiểu tư sản, người anh Việt Cách, người chú, ông cậu Việt Quốc gì đó nên chính ông cụ tuy chẳng hung hăng gì mà cũng bị vạ, lao tù ở cái trại một thời khiếp đảm là Đầm Đùn. Tôi có nghe về cái trại địa ngục trần gian này nên sau lượt bắt kê khai tài sản bèn hỏi cung nhân chứng về kinh nghiệm thụ hình. Cụ chỉ lớt phớt là ở tù thì đâu mà chẳng khổ, đến khi bắt phải khai một trường hợp cụ thể thì cụ kể có thấy vài người trốn trại bị bắt lại, mang ra sân đánh chết dã man. Tôi hỏi tới, thế chính cụ có bao giờ bị đánh đập, tra tấn (ngày nay báo chí trong nước vẫn gọi mỹ miều là "nghiệp vụ công an")? Cụ không trả lời thẳng, kể là bị bắt cùng với ông cậu Việt Quốc đã nói. Trước khi vào phòng hỏi cung, cụ nhắn là "Cháu thì chưa động đến người cháu đã kêu to, cậu có nghe thấy la hét gì bên trong thì cậu đừng có sợ cho cháu." Nhưng kỷ niệm mà cụ muốn nhớ lại là một kỷ niệm đẹp. Trên đường áp giải về trại, cụ lên cơn sốt rét đi không nổi. Dùng tiền riêng, cụ được cho phép thuê một cái xe kéo, ngồi cùng với một bạn đồng tù đau chân. Hai người ăn mặc bảnh bao ngồi trên xe đi ngang tỉnh, có hai anh công an sách súng chạy theo sau, được vài cô ngồi bên song cửa tưởng lầm là công tử có cán bộ bảo vệ! 

Chuyện ông cụ Việt kiều này có hơi quá đáng, tôi xin lấy danh dự của người viết ra để bảo đảm là tôi có nghe thật. Tôi kể lại thôi chứ tôi cũng chẳng đồng ý, ai mà đánh tôi và bỏ tù thì tôi hận suốt đời. Của cải, tôi không nghĩ đến bắt đền hay đòi lại nhưng mỗi tháng trả tiền điện ở Hoa Kỳ tôi vẫn chép miệng, thấy tương đương với lại cái đầu băng nhạc Akai ngày ấy bỏ lại ở Việt Nam [3]. Thời gian chẳng xoa dịu được chút nào nhưng chắc là tại vì, khác với ông cụ trên, tôi chưa ngoài 70 hưu trí. Các cụ, như cụ Nguyễn Cao Kỳ, cụ Võ Văn Kiệt, đến tuổi đó đều trở nên hoà nhã thấy rõ. Đến nỗi là tôi nghĩ, nếu nước ta bỏ hẳn cái chức vụ Thủ tướng đi mà thay đó bằng chức vụ cựu Thủ tướng thì sẽ nhanh chóng bắt kịp tầm thế giới (nói rộng ra và bên lề, nếu không còn nhà văn nhà thơ gì nữa mà chỉ có cựu nhà thơ, cựu nhà văn thì văn chương Việt Nam sẽ chẳng trì trệ nữa mà vượt luôn qua cả tầm thời đại!) Lý do của sự hoà nhã hẳn đi này không phải là vì người già mới tìm ra chân lý [4], biết được sự thật một cách khoa học, mà tôi cho là vì họ hay quên thôi. Lẩm cẩm mà, họ quên đi những gì không cần phải nhớ mãi.
[1]Tựa bài hát. "Người đã quên rồi, sao ta còn nhớ?"
[2]Thử hỏi nếu không có chân lý và sự thật thì nào đã có chiến tranh!
[3]Hai tốc độ (9,5 và 19 cm/giây), dùng băng cối 18cm và có "auto replay", tức là chơi đi chơi lại một bài hát hay một đoạn nhạc. Hết bài hát, nó thắng lại cái kịch, tự động mà rào rào "rewind", đến đúng đầu bài nó thắng kịch một cái nữa rồi chơi nhịp nhàng trở lại, thế mới hiện đại.
[4]Ông Kỳ, vào lúc 35 tuổi, tuyên bố là những người trên 40 đều bỏ đi hết. Nay ông còn đợi gì mà không phát biểu ngoài 70 mới là... tiên phong?

Nguồn: talawas.org







VỀ NGƯỜI VIẾT & NGÔN NGỮ

1. Là người viết bằng tiếng Việt thì tôi thấy chẳng có gì xúc phạm hết, và nếu phải bị xúc phạm thì nhận định vũ trụ, phi thuyền của Brodsky trên đây cũng xúc phạm được. Có chính khách lưu vong tứ xứ, có người Mường làm rẫy lưu vong ở Montana, có người Việt đánh cá lưu vong ở Louisianna, có Ðơn Dương diễn viên lưu vong ở Hollywood(?) và có tôi lưu vong ở Bolsa nhưng không có nhà văn, nhà thơ lưu vong. Cũng như, nhà văn, nếu không nghiệp dư thì là nghiệp dĩ chứ không có nhà văn chuyên nghiệp (có chính khách, đánh cá v.v. chuyên nghiệp). 

Lỡ đã nói tới Nobel, thì những ông Quasimodo, Montale làm thơ tiếng Ý; Elytis, Seferis làm thơ tiếng Hy Lạp, ông Seifert tiếng Tiệp hay bà Szymborska tiếng Ba Lan có ray rứt muốn trở thành chuyên nghiệp hay không? Họ có phải suy nghĩ trước con đường chọn viết văn bằng ngoại ngữ? Các vị này, tăm tối và không chuyên, tương lai của họ chẳng có gì là sáng sủa. Họ làm thơ bằng ngôn ngữ của họ và ngay sau khi được giải rồi, được dịch ra tiếng nước ngoài, cũng chẳng mấy ai đọc, tôi nghĩ là họ viết để cho vui ấy thôi (The Selected Writings of Salvatore Quasimodo, bản bìa cứng, theo số sách amazon.com bán được xếp hạng thứ 2.476.062; Poetic Waxing Kit, At Home Hair Removal System, theo số mỹ phẩm amazon.com bán được, hàng số 119). Chuyến tàu Brodsky (cứ cho là như vậy đi) thì không có tôi, cảm ơn và xin lỗi thuyền trưởng, tôi không có vé ngồi. 

2. Tại sao tôi viết bằng tiếng Việt thì phải hỏi mẹ tôi. Nếu có sự lựa chọn, hàng phở ở cùng một góc đường với tiệm bánh mì kẹp thịt thì tại sao tôi ba tháng thế này, một ngày thế kia (hay là có lúc ngược lại)? Lựa chọn nào thì có gì phải quan tâm không? Tại sao Pablo Neruda, Saint-John Perse, T.S. Eliot (tôi xin lỗi những nhà thơ không đoạt giải, chuyện Nobel ở đây là được bày ra từ câu hỏi), tại sao những vị này lại không làm thơ bằng tiếng Việt để đưa thi ca Việt lên tầm thế giới? Theo tôi, đây mới là sinh lộ của văn chương Việt: con đường tương lai của văn chương Việt không phải là nhà văn Việt viết bằng tiếng nước ngoài mà phải là nhà văn nước ngoài viết bằng tiếng Việt! Bà Duras (giải Goncourt thôi), sinh ở Việt Nam, nói tiếng Việt với giọng Sadéc thì chị Tư Sadéc này viết bằng tiếng Pháp là đáng tiếc hay là đáng khen? Tiếng nói chính trị của tôi không nằm trong ngoại ngữ, nội ngữ tôi dùng khi tôi vần điệu. Văn chương cũng như bánh mì rất cần thiết cho cuộc sống, nhưng chuyện lựa chọn ngôn ngữ ở đây là chuyện các ông hàng bánh mì túm tụm lại để bức xúc về bột nổi. Những ưu tư này, tôi sợ lại chính là những ưu tư “chuyên nghiệp” đấy, hết sức là cụ thể và thực tế, như hàng giữ được lâu, nhiều người nhắc đến, có bày bán ở các chợ Mỹ. 

Tôi viết tiểu thuyết đầu tay bằng tiếng Pháp, vào lúc tôi chưa đến Bolsa và chưa sinh hoạt di dân Phước Lộc Thọ. Tiểu thuyết này tôi viết trong sa mạc Arizona-New Mexico, dọc những hương tỉnh lộ trên bản đồ lờ mờ ghi dấu, trong những motel đơn độc của những xã vài mươi nóc gia ở bên đường. Nhưng ở thôn ấp nào, hẻo lánh đến đâu, motel ở đó vẫn thường là do 1 gia đình người Ấn quản lý hay làm chủ. Buổi chiều khi tắt nắng, trên con đường độc nhất chạy ngang làng, có tiểu thư Patel mặc sari hở rốn (cái này là thái độ trong cuộc sống đấy), lẹp xẹp đi dạo mát ngang Bar rượu của Mỹ ruộng da trắng bày bảng kẻ tay đề “ Yêu cầu bỏ súng lại ở bên ngoài”. Biết đâu cái cảnh này chính là động cơ khiến tôi trở về với nguồn cội lưu vong – tiếng Việt – hải ngoại và quên đi tiểu thuyết tiếng Pháp? Bản thảo này, hiện nay tôi vẫn còn giữ trong tủ đá, vẫn có thể ngày nào lôi ra bỏ vào lò vi ba nếu thấy ăn được, đổi thế đứng thế nằm của tôi trong xã hội. 

3. Mãi mãi là ngôn ngữ của tình yêu, không phải của khẩu vị. Trong nước, ngoài nước, dòng chính, dòng phụ cũng không phải là vấn đề của việc viết, và của việc viết bằng ngôn ngữ nào. Mà là vấn đề làm sao chào hàng da màu ở ngoại quốc, lại được hưởng phần “lương tâm cắn rứt” của chế độ đế quốc văn hoá dành cho di dân lợi tức kém. Ðối với ở trong nước, là làm sao vênh vang Việt kiều văn hoá “hàng ngoại chất lượng nội” hay ngược lại cao xa để giữ gìn phẩm tiết gì đó thì cũng thế (Nói trắng ra thì lo âu bị loại trừ, bị phủ nhận, dính dáng đến văn chương và nghệ thuật thì ít mà dính dáng đến những ATM (máy rút tiền mặt bằng thẻ ngân hàng) của danh vọng và quyền lợi thì nhiều (“Your request has been denied”, yêu cầu của bạn bị từ chối). Dù sao thì có thực mới vực được văn và chẳng mấy ai bằng lòng với vị trí bị bỏ quên, vậy mới phải tính toán chứ! Nhưng muốn cũng chẳng được, bị bỏ quên thì tôi đã bị bỏ quên nhiều rồi và tôi cũng ưa quên nữa. Trong những mục giải trí, tôi thấy viết văn vừa nhẹ nhàng vừa kinh tế trong khi đánh banh còn phải có sân và phải bỏ hút thuốc. Tiếng Việt chẳng là xấu cũng chẳng là đẹp, cho dù chúa Giê Su trên thập tự giá có thốt lời cuối cùng là bằng thứ tiếng này (Hele, hele, lama sabac ta ni, tiếng Việt cổ, tức là Hỡi ôi! Hỡi ôi! Làn mây mù sa xuống mặt ta nì, theo học giả Nguyễn Xuân Quang). Tôi viết bằng tiếng Việt thì có 3 người đọc, nếu viết bằng tiếng Pháp tiếng Anh thì sẽ có thêm một người đọc nữa là vợ tôi. Thì, ờ nhỉ, nhưng sao thì cũng chẳng có gì kinh hoàng bớt, và cũng chẳng có gì huy hoàng thêm. Ðó là chuyện, “Sớm ăn cơm sườn / Chiều ăn nước tương / Hey hey hey it’s a beautiful day!” (bài hát Beautiful Sunday).

Nguồn: damau.org






VỀ NGÔN NGỮ VÀ THƠ

NGÔN NGỮ

1. Trước hết, tôi không nghĩ là tôi xuất phát từ một nước cộng sản (hay không cộng sản, hay kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa…) Thứ nhì, theo tôi nghĩ, di dân không phải là định nghĩa đầu tiên của tôi mà là công dân, công dân của thế giới dù chỉ là công dân của một thế giới yếu kém (citizen of a lesser world). Tôi cũng không nghĩ là địa cầu này có những phân chia chủ yếu về địa lí, dân tộc hay màu da. Phân chia theo tôi là giai cấp, là quyền lực và trong văn học văn nghệ cũng như trong đời sống, có những tiếng nói thì thầm, có những tiếng nói bị bom át hay là bị những phương tiện đại chúng truyền thông bóp nghẹt.
Mạnh ai muốn nhận định gì thì nhận định, riêng tôi thì việc tôi dùng tiếng Việt ở nước ngòai chỉ là một tai nạn be bé, không phải là một đại họa gì hết. Thì tôi ở nước ngoài và tôi không biết dùng thứ tiếng gì khác! Kiểu tôi đang ở Cam Bốt ngồi uống trà đá mà hỏi tôi nó tách rời khỏi trà ấm trà nóng ở London thế nào thì tôi biết trả lời sao? Tôi không trả lời gì hết, tôi ngồi đó và uống trà đá tiếp tục.
2. Ngôn ngữ trong nước không có đợi tôi, và quả là ngôn ngữ chúng ta đang sử dụng chết đi mỗi ngày, không những vậy mà những người sử dụng nó còn chết đi mỗi ngày nếu ta đọc chia buồn cáo phó. Khi về nước, tôi vô tư mà cập nhật từ vựng “mới”, đây là việc sinh động mà tôi rất thích thú, vì tôi không thuộc tạng “bảo tồn”. Vả lại để trao đổi được với mọi người, cách tốt nhất vẫn là thích ứng. Thí dụ, tôi phát âm được giọng Bắc kỳ 54 rất tự nhiên mà phát âm giọng Sàigòn cũng chuẩn, dùng giọng này hay giọng kia tùy người đối diện. Giọng Trung phần thì tôi thua đã đành, nhưng giọng Hà nội (ngày nay) cái nhừa nhựa tôi phải uống sáu lon bia mới dám bắt chước, mà đời tôi đến giờ chưa bao giờ uống được đến sáu lon bia.
Không hẳn là phải cần viết và sống ở trong nước, ai muốn sống ở đâu thì sống, và viết ở đâu thì viết (tôi đang phân vân giữa quần đảo Société và quần đảo Cyclades), nhưng muốn nói điều gì, cách hay nhất là nhìn người trước mặt. Còn về cái thuần, thì ta (hải ngọai) mới là chuẩn chứ, đi sang Ai Cập, cái gì là thuần, xác ướp 4.000 năm hay là Kim tự tháp lưu niệm made in china?

THƠ

1. Tôi không tin vào vai trò gạch nối, văn học Việt Nam tự nó là gạch nối với và là bộ phận của thế giới. Thế giới, tôi chạnh nghĩ, không phải là 30 nước Tây phương hiện có hai triệu người Việt đang sinh sống mà là 150 quốc gia còn lại, năm tỉ người gần gũi chúng ta gấp bội về nhiều mặt. Tôi rất tiếc là chuyện gạch nối “thế giới” này chỉ là chuyện bắt quàng làm họ những người sang. Nếu phải có gạch nối, sao không nghĩ đến gạch nối với văn học Lào hay Philipines ở ngay cạnh, với văn học Hausa, gì đó Kikuyu ở xa?
Điều mỉa mai là các nước phát triển lại có tí ti quan tâm đến những văn học này, cũng như là họ có quan tâm (lạy giời) đến văn học Việt, thỉnh thỏang lại xoa đầu trong khi chúng ta (và các bạn đã nói đến cũng thế) thì chỉ nhìn lên chứ không nhìn ngang. Đây là hội chứng đầy tớ đợi được tăng lương và dè bỉu các bạn cùng hàng.
Văn học Việt kiều tự nó là gạch nối và bộ phận của văn học Việt nam và sự tồn tại của nó là ở nó thôi, nếu bộ phận này có mất thì tôi nghĩ văn học Việt cũng chẳng thiệt hại gì nhiều, nếu nó phát triển đến đâu thì văn học Việt được nhờ đến đấy. Riêng tôi, tác phẩm của tôi thì đặt vào giòng thơ quận Cam vậy, cũng có nghĩa là giòng thơ thế giới?
2. Tôi thấy là có, nhưng khoảng cách này ngày càng thu hẹp. Điều này trong âm nhạc chẳng hạn đã đi trước thơ và cho thấy trong thời gian tới, thơ trong hay ngoài nước cũng sẽ đều một giọng…Nam Triều tiên?
3. Tôi nghĩ pha trộn là tất yếu ở môi trường nước ngoài. Đây là một vùng sinh động khác cần phát triển. Ngay trong nước sự pha trộn nếu chưa có trong thơ thì đã có trong sinh họat và đời sống. Lịch sử, nói to tát, của văn hóa và của văn minh là lịch sử của pha trộn, nếu thuần túy thì ta vẫn còn ở trong hang và ngẩn người ra mỗi khi nhìn thấy lửa. Ngoài ra, lựa chọn này là của cá nhân, và của từng nhóm, sự đi đến đại đồng (chứ không phải là “tòan cầu hóa”) chỉ có thể trong tinh thần tôn trọng bản sắc riêng rẽ của từng cá nhân và từng tập thể. Nói thế, trong thí dụ trên, sự pha trộn không có nghĩa là lai căng và làm lõang, mà ngược lại, là bản sắc đặc thù và đáng quí, như thi ca Cham hay những thiểu số khác ở Việt nam cần được khuyến khích và bảo vệ. Như từ “thươngness” của Jenni Trang Lê, tôi thấy là “dễ …thươngly”.

Nguồn: damau.org

No comments:

Post a Comment